Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

sáng kiến kinh nghiệm một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm trong chương trình hóa học trung học cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 58 trang )

SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong các mơn học của chương trình trung học cơ sở thì Hóa học là mơn
học được học sinh tiếp cận muộn hơn so với các môn học khác, phải tới lớp 8
học sinh mới được học môn hóa học. Trong khi đó các mơn học như Tốn và
Tiếng Việt đã có từ bậc tiểu học, được học sinh được làm quen từ trước nên việc
học tập sẽ có phần thuận lợi hơn, nội dung kiến thức được dàn trải đều trong
suốt cả cấp học. Đối với môn Hóa học, do được tiếp cận muộn nên việc nghiên
cứu, học tập của học sinh không được thuận lợi bằng các môn học khác. Để học
sinh làm quen với cách học bộ mơn hóa học, giáo viên cần phải sử dụng đến các
phương tiện trực quan đặc trưng của bộ mơn hóa học - đó là hệ thống các thí
nghiệm hóa học.
Các thí nghiệm hóa học chính là điểm thuận lợi để giáo viên có thể kết nối
bản chất của sự vật, hiện tượng với kiến thức lí thuyết trong chương trình một
cách hiệu quả mà khơng hề khơ khan. Bằng cách tiến hành các thí nghiệm trực
quan hoặc cho học sinh làm thí nghiệm theo nhóm, giáo viên giúp học sinh tìm
ra bản chất của sự vật, hiện tượng bằng cách quan sát trực tiếp. Nhờ đó, học sinh
sẽ dễ hiểu bài, nhớ kiến thức, từ đó vận dụng được kiến thức đã học vào thực tế
cuộc sống.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

1


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở


Qua thực tế giảng dạy môn Hóa học chương trình trung học cơ sở, bản
thân tơi nhận thấy hệ thống thí nghiệm mà bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn tuy
có làm rõ trọng tâm bài học nhưng chưa thực sự hấp dẫn để kích thích được
hứng thú của người học.
Hưởng ứng cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy
học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trị là người tổ chức, hướng dẫn học
sinh khám phá kiến thức. Tuy nhiên, hệ thống thí nghiệm nếu như xây dựng rập
khn theo sách giáo khoa có thể chưa tạo được điểm nhấn, chưa có sức thu hút
học sinh dù tiến hành nhiều thí nghiệm. Vì vậy, tơi nhận thấy cần phải nghiên
cứu, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm
sinh động, hấp dẫn, kích thích tính tị mị, sáng tạo, khám phá kiến thức của học
sinh mà vẫn đảm bảo nội dung bài học.
Trên cơ sở Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân từ năm học 2015-2016
cùng với sự nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo trong quá trình dạy học nhằm giúp
học sinh học tập bộ mơn hóa học hứng thú hơn, tăng khả năng vận dụng kiến
thức vào cuộc sống, nâng cao chất lượng dạy học hóa học; tơi đề xuất đề tài:
“Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm ở
chương trình hóa học Trung học cơ sở”. Mong rằng đề tài sẽ giúp học sinh học
tập bộ mơn Hóa học một cách hứng thú, thêm yêu mến môn học này hơn.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

2


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

a) Mục tiêu:

Mục tiêu của đề tài là xây dựng kĩ năng thực hành thí nghiệm, tạo hứng
thú học tập và hình thành cho học sinh khả năng giải quyết vấn đề một cách
khoa học, sáng tạo, đưa hóa học và thực tế cuộc sống lại gần nhau hơn, góp phần
nâng cao hiệu quả của hoạt động dạy học mơn Hóa học trong trường Trung học
cơ sở.
b) Nhiệm vụ:
Giáo viên lựa chọn, thay thế, thêm bớt các thí nghiệm trong mỗi bài dạy
sau đó tổ chức cho học sinh tiến hành theo từng nhóm nhỏ (nếu có nhiều thí
nghiệm thể hiện tính chất của chất thì nên cho học sinh làm liên tiếp, ghi hiện
tượng quan sát vào bảng sau đó nêu các tính chất của chất rồi viết các phương
trình hóa học để tiết kiệm thời gian).
Giáo viên tạo điểm nhấn khi thực hiện các thí nghiệm bằng cách thay thế
một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp dẫn,
tương đương mà vẫn đảm bảo về mặt nội dung kiến thức. Những thí nghiệm
thay thế phải tạo được sự hứng thú vượt trội so với thí nghiệm ban đầu.
Để học sinh có thể nhớ tốt kiến thức, giáo viên nên để cho các em tự mình
chuẩn bị dụng cụ, hóa chất gần gũi với cuộc sống (như giáo viên đã định hướng
trong đề tài); sau đó là hãy để các em tự là thí nghiệm theo nhóm vì chỉ có tự
làm thí nghiệm học sinh mới nâng cao được kĩ năng tiến hành thí nghiệm, tăng

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

3


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

cường khả năng quan sát hiện tượng thí nghiệm, phát hiện ra những quy luật bản
chất và từ đó học sinh sẽ tìm thấy vấn đề cần giải quyết. Để tạo động lực khám

phá kiến thức, giáo viên cần chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi mở, giúp học sinh tự
mình chiếm lĩnh tri thức Có như vậy, các em mới dần làm quen được phương
pháp làm việc một cách khoa học, rèn luyện tính cẩn thận, tư duy suy luận logic
và quan trọng hơn là biết phối hợp với các thành viên trong nhóm để giải quyết
nhiệm vụ học tập, tăng cường tình đồn kết.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số bài dạy có sử dụng thí
nghiệm trong chương trình hóa học Trung học cơ sở.
4. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu: Các bài dạy có sử dụng thí nghiệm hóa học trong
chương trình Trung học cơ sở.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 8,9 trường THCS Dur Kmăn.
Thời gian: Năm học 2015 - 2016

5. Phương pháp nghiên cứu
a) Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu: Qua việc nghiên cứu các tài
liệu bồi dưỡng giáo viên; tài liệu Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng;
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

4


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

sách giáo khoa, sách giáo viên ; một số thiết kế bài dạy và tài liệu khác có liên
quan (phương pháp giảng dạy bộ mơn hóa học) … đã giúp tôi định hướng được
cách thức, phương pháp tối ưu trong giảng dạy bộ mơn Hóa học. Đặc biệt, một
nguồn tài liệu vô cùng phong phú, đa dạng về thể loại và hình thức – đó là mạng

Internet. Qua việc tìm hiểu các thí nghiệm ở trang điện tử này, tơi đã thu thập
được rất nhiều thí nghiệm vui, hấp dẫn (pháo hoa, làm sữa chua…).
b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp điều tra: giáo viên điều tra về việc học bộ mơn hóa học
như: niềm u thích bộ mơn, được làm thí nghiệm, thích làm thí nghiệm hóa
học, kết quả học tập bộ mơn hóa học, đã hiểu biết/ ứng dụng thực tế kiến thức
hóa học vào thực tế cuộc sống.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục: qua soạn giáo án và giảng
dạy trong thực tế, dự giờ, rút kinh nghiệm từ các tiết dạy của đồng nghiệp cũng
như thái độ học tập, kết quả học tập của học sinh, từ đó tổng kết kinh nghiệm
giáo dục.
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩm hoạt động: thường xuyên trò
chuyện với học sinh để biết được tâm tư nguyện vọng về cách thức học tập của
các em, về những phương pháp giáo viên giảng dạy có tạo chuyển biến gì về
kiến thức, nhận thức, hành động của các em…

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

5


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

- Phương pháp khảo nghiệm, thử nghiệm: Giáo viên yêu cầu học sinh tự
làm thí nghiệm dựa vào các hóa chất, dụng cụ mà giáo viên/ tự bản thân các em
chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên. Kết hợp với thí nghiệm mà giáo viên đưa
vào là hệ thông câu hỏi gợi mở kiến thức. Giáo viên đo lường hiệu quả của thí
nghiệm đó mang lại có khác gì so với thí nghiệm như trong sách giáo khoa u
cầu tiến hành hay khơng. Từ đó, giáo viên rút ra kinh nghiệm cho bản thân.

c) Phương pháp thống kê tốn học: với mục đích đầu tiên là khảo sát định
lượng về sự u thích bộ mơn hóa học trong hệ thống các mơn học ở cấp Trung
học cơ sở; thứ hai là tính tốn tỉ lệ phần trăm chất lượng học bộ mơn hóa học
của học sinh; thứ ba là xem xét mức độ vận dụng kiến thức bài học vào thực tế
cuộc sống.

PHẦN II: NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Theo nghị quyết 29 NQ/TW Trung ương 8 khóa XI: Tiếp tục đổi mới
mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách
nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Giáo viên khai thác thiết bị dạy học (trong đó
có cơng nghệ thơng tin) tăng cường thí nghiệm, thực hành trực quan (kênh chữ,
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

6


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

kênh hình) để nâng cao hiệu quả dạy học và gắn bài giảng sát với thực tế của
cuộc sống. Đã có nhiều phương pháp dạy học tích cực đã được áp dụng, triển
khai và mang lại kết quả hết sức khả quan: Phương pháp dạy học nhóm, phương
pháp giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học theo dự án, phương pháp bàn tay
nặn bột…
Trường tôi công tác là 1 trong 12 trường trên cả nước thí điểm mơ hình
Trường học mới. Sự khác biệt của mơ hình Trường học mới so với mơ hình giáo

dục đại trà chủ yếu nằm ở 2 điểm quan trọng: Thay đổi cách thức tiếp cận tài
liệu của học sinh và phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục của
giáo viên. Qua gần 3 năm dạy học theo mơ hình này đã chứng minh việc đổi
mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực mang lại nhiều kết quả tốt đẹp.
Trong đó, học sinh đóng vai trị trung tâm của hoạt động dạy học còn giáo viên
là người trực tiếp tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập.
Do đó, phương pháp tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên gần
như quyết định hoàn toàn đến năng lực, phẩm chất của học sinh. Nếu giáo viên
biết vận dụng linh hoạt, khéo léo các phương pháp cũng như phương tiện dạy
học thì kết quả dạy học sẽ từng bước được nâng cao.
Qua việc nghiên cứu, áp dụng, khảo sát thực tiễn tơi nhận thấy đối với
mơn đặc thù như Hóa học, nếu giáo viên khai thác được lợi thế của bộ mơn (thí
nghiệm, thực hành) sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực: tạo hứng thú, rèn luyện

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

7


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

khả năng quan sát, tính cẩn thận, kĩ năng làm thí nghiệm, tư duy khoa học, gắn
kiến thức bài học vào thực tế cuộc sống.
Đề tài mà bản thân tôi muốn đề xuất phần nào cũng đã đáp ứng được yêu
cầu trên. Trước mắt là giúp học sinh nắm được nội dung trọng tâm của bài học,
tạo hứng thú học tập. Sau nữa là tạo cho học sinh tâm thế chủ động khám phá
kiến thức mới. Đồng thời, hình thành tư duy khoa học, năng lực giải quyết vấn
đề, các kĩ năng làm việc nhóm, góp phần hình thành phẩm chất và tăng khả năng
vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống cho các em học sinh.

a. Vai trị quan trọng của thí nghiệm trong dạy học hóa học
Thí nghiệm có vai trị rất quan trọng trong nghiên cứu khoa học và quan
trọng đặc biệt trong dạy học hóa học
Thí nghiệm có vai trị hết sức quan trọng trong quá trình phát triển nhận
thức của con người về thế giới. Thí nghiệm là một phần của hiện thực khách
quan được thực hiện hoặc tái tạo lại trong những điều kiện đặc biệt, trong đó con
người có thể chủ động điều khiển các yếu tố tác động vào quá trình xảy ra để
phục vụ cho các muc đích nhất định. Thí nghiệm giúp con người gạt bỏ những
cái phụ, khơng bản chất để tìm ra cái bản chất của sự vật hiện tượng. Thí nghiệm
giúp con người phát hiện ra các quy luật còn ẩn náu trong thế giới tự nhiên. Mặt
khác, nó cịn giúp con người kiểm chứng, làm sáng tỏ những giả thuyết khoa
học. Đúng như Ăng ghen đã nói: “Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, cũng
như lịch sử, phải xuất phát từ những sự thật đã có, từ những hình thái hiện
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

8


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

thực khác nhau của vật chất; cho nên trong khoa học lí luận về tự nhiên,
chúng ta không thể cấu tạo nên mối liên hệ để ghép chúng vào sự thật, mà
phải từ những sự thật đó, phát hiện ra mối liên hệ ấy, rồi phải hết sức
chứng minh những mối liên hệ ấy bằng thực nghiệm”.
Thí nghiệm là nền tảng của việc dạy học hóa học. Nó giúp học sinh chuyển
từ tư duy cụ thể sang tư duy trừu tượng và ngược lại. Khi làm thí nghiệm, học
sinh sẽ làm quen với các chất hóa học và trưc tiếp nắm bắt các tính chất lí, hóa
của chúng. Từ đó các em hiểu được các quá trình hóa học, nắm vững các khái
niệm, định luật của hóa học. Nếu khơng có thí nghiệm thì:

+ Giáo viên sẽ tốn nhiều thời gian để giảng giải nhưng vẫn khơng rõ và
khơng hết ý vì khơng phải mọi thứ đều có thể diễn đạt trọn vẹn bằng lời. Lời nói
thì trừu tượng cịn các thí nghiệm thì cụ thể.
+ Học sinh tiếp thu kiến thức thiếu chính xác và vững chắc. Các em sẽ khó
hiểu bài vì khơng có những biểu tượng rõ ràng, cụ thể về các chất, các hiện
tượng hóa học. Ví dụ: Phản ứng tạo kết tủa đồng (II) hiđroxit dạng keo, màu
xanh. Nếu khơng có thí nghiệm thì học sinh khơng thể hình dung được dạng keo
như thế nào. Màu xanh thì có nhiều màu xanh khác nhau.
+ Học sinh sẽ chóng qn khi khơng hiểu bài, khơng có ấn tượng sâu sắc
về các hình ảnh cụ thể...

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

9


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết và thực tế. Nhiều thí nghiệm rất gần
gũi với đời sống, với các quy trình cơng nghệ. Vì vậy, thí nghiệm giúp học sinh
vận dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống.
Thí nghiệm giúp học sinh rèn luyên các kĩ năng thực hành (các thao tác và
cách thức tiến hành thí nghiệm), hình thành những đức tính của người lao động
mới: cẩn thận, khoa học, kỉ luật.
Thí nghiệm giúp học sinh phát triển tư duy, hình thành thế giới quan duy
vật biện chứng. Khi tự tay làm thí nghiệm hoặc được tận mắt nhìn thấy những
hiện tượng hóa học xảy ra, học sinh sẽ tin tưởng vào kiến thức đã học và cũng
thêm tin tưởng vào chính bản thân mình.
Khi làm thí nghiệm rất dễ gây húng thú học tập. Học sinh khơng thể u

thích bộ môn và không thể say mê khoa học với những bài giảng lí thuyết khơ
khan. Thí nghiệm cùng với những hiện tượng thí nghiệm kì lạ, hấp dẫn chính là
thuận lợi riêng của bộ mơn hóa học so với các bộ môn khoa học khác. Nếu giáo
viên biết tận dụng, phát triển một cách sáng tạo, linh hoạt trong quá trình dạy
học thì kết quả của hoạt động dạy học hóa học trong trường phổ thơng chắc chắn
sẽ được nâng cao.
b. Các nguyên tắc xây dựng hệ thống thí nghiệm trong chương trình
hóa học Trung học cơ sở

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

10


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Muốn các thí nghiệm đi vào các bài dạy hóa học ở chương trình trung học
cơ sở một cách hiệu quả thì phải xây dựng hệ thống thí nghiệm theo các nguyên
tắc sau:
Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn được các thí
nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, trọng tâm.
Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục
Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú với người dạy và người học
Thí nghiệm dễ kiếm hóa chất, đơn giản, dễ làm
Việc thực hiện thí nghiệm khơng được mất q nhiều thời gian, làm ảnh
hưởng đến nội dung bài dạy
Thí nghiệm phải an tồn, càng ít độc hại càng tốt. Nên thay các thí
nghiệm độc bằng các thí nghiệm khơng độc hoặc ít độc hại hơn.
Số lượng thí nghiệm trong 1 bài dạy cần hợp lí, khơng nên q nhiều để

học sinh có thời gian rèn các kĩ năng khác
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu
Trước khi áp dụng đề tài, tôi đã tiến hành khảo sát nhận thức của học sinh
về tầm quan trọng của thí nghiệm, các tiết thực hành mơn hóa học; và các hình
Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của thí nghiệm hóa học
thức tiếp xúc với thí nghiệm của học sinh ở trường Trung học cơ sở Dur Kmăn.
KHÔNG QUAN TRỌNG
Kết quả nhận được như sau:
KHƠNG RÕ
ÍT QUAN TRỌNG
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo
viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn
13,2%

QUAN TRỌNG

RẤT QUAN TRỌNG

4,7%

27,4%
25,5%29,2%

11


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Biểu đồ 1: Nhận thức của học sinh trường Trung học cơ sở Dur Kmăn về tầm

quan trọng của thí nghiệm trong tiết học hóa học

CÁC HÌNH THỨC TIẾP XÚC THÍ NGHIỆM HĨA HỌC CỦA HỌC SINH
Chưa bao giờ làm thí nghiệm,chỉ xem các bạn làm
30,6%

Trực tiếp làm thí nghiệm

27,8%

Chỉ thầy cơ làm thí nghiệm, học sinh ngồi quan sát
Thầy cơ chiếu thí nghiệm trên màn chiếu
Thầy cơ chỉ dạy lí thuyết, khơng làm thí nghiệm

42,5%
32,4%
9,3%

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

12


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

BBiểu đồ 2: Các hình thức tiếp xúc thí nghiệm của học sinh trường Trung
học cơ sở Dur Kmăn trong các tiết học có sử dụng thí nghiệm hóa học
Một số ngun nhân của tình trạng trên:
Thứ nhất: Do chương trình sách giáo khoa

Hệ thống thí nghiệm được xây dựng trong sách giáo khoa mơn Hóa học 8,
9 hiện hành cơ bản đã đáp ứng được phần nào các yêu cầu làm rõ trọng tâm bài
học, hình thành được 1 số kĩ năng làm thí nghiệm đơn giản; khả năng quan sát,
suy luận, tư duy logic trong q trình học tập hóa học ở các bài dạy có sử dụng
thí nghiệm. Tuy nhiên, các thí nghiệm trong sách giáo khoa cịn mang nặng tính
rập khn, máy móc, chưa kích thích được niềm đam mê nghiên cứu học tập,
tính sáng tạo của học sinh.
Thứ hai: Do nhận thức của học sinh
Đa số học sinh trong địa bàn trường tơi cơng tác có hồn cảnh khó khăn,
nhà xa trường, bố mẹ chưa quan tâm đúng mức, đầu vào thấp, nhận thức chậm.
Ngoài ra, nhiều học sinh lười học bài, ham chơi, học tập chưa chuyên cần làm
cho hiệu quả dạy học vẫn ở mức thấp. Rất nhiều học sinh vẫn hào hứng khi được
làm thí nghiệm nhưng lại lười suy nghĩ, học tập thụ động, đối phó,chưa mạnh
dạn, khơng chịu khó tìm tịi, ơn luyện nên gây ra nhiều khó khăn cho giáo viên
đứng lớp.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

13


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Theo khảo sát của bản thân trước khi áp dụng đề tài: có đến 60% học sinh
khơng thích các tiết học hóa học, hơn 70% học sinh khơng muốn làm thí
nghiệm. Ngun nhân, qua tìm hiểu là do các em yếu kĩ năng thực hành, sợ hóa
chất độc hại, cháy nổ và chưa tìm thấy niềm vui, sự cần thiết phải học bộ mơn
Hóa học.
Thứ ba: Do điều kiện cơ sở vật chất của trường

Ở một số thí nghiệm, do một số hóa chất khó bảo quản (dung dịch
AgNO3, CaC2, dung dịch Br2…), một số dụng cụ thí nghiệm đắt tiền, dễ hỏng
(thiết bị điện phân nước, cân Robecvan…) nên giáo viên không làm/ cho học
sinh làm thí nghiệm được mà phải dạy chay hoặc chiếu thí nghiệm ảo trên màn
hình chiếu. Điều này đã làm giảm khả năng thuyết phục học sinh tin tưởng vào
khoa học, làm giamt hứng thú học tập của các em
Thứ tư: Do thời lượng của tiết học
Vì thời lượng của một tiết học tương đối ít (bao gồm ổn định lớp, kiểm tra
bài cũ, sửa bài tập, dạy bài mới, củng cố, dặn dị, giải quyết một số tình huống
sư phạm- nếu có) nên làm giáo viên ngại chuẩn bị thí nghiệm cho học sinh làm.
Nếu để học sinh tự mình tiến hành thí nghiệm thì có thể giáo viên khơng dạy
hết bài (vì học sinh làm thí nghiệm chậm).
Thứ năm: Do giáo viên dạy bộ mơn Hóa học

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

14


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Nguyên nhân chủ quan đến từ giáo viên: một số giáo viên chưa chịu khó
đổi mới phương pháp dạy học, thường xuyên tránh các tiết học thực hành, chưa
đầu tư nhiều vào bài dạy cũng như việc chuẩn bị thí nghiệm, làm thí nghiệm trên
lớp làm giảm hứng thú học tập của học sinh và chất lượng dạy học, giáo dục.
Một nguyên nhân nữa xuất phát từ giáo viên, đó là chưa thực sự quan tâm đến
các em học sinh: chưa đi sâu, đi sát để tháo gỡ khó khăn cho các em; chưa kịp
thời động viên, khích lệ sự cố gắng, tiến bộ dù là nhỏ nhất của các em; chưa chịu
khó tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các em đối với bộ môn mình đang trực

tiếp giảng dạy.
Về các tiết học thực hành mơn hóa học, thực tế giáo viên cũng chưa thực
sự coi trọng vì đa số các tiết học này chỉ nhắc lại kiến thức đã biết. Nhiều khi
học sinh không cần tiến hành thí nghiệm mà vẫn làm tốt bài tường trình. Ở các
tiết học có sử dụng thí nghiệm, chủ yếu là giáo viên dùng thí nghiệm biểu diễn
chứ khơng để học sinh tự làm vì sợ khơng đủ thời gian dạy hết kiến thức trong
bài, học sinh ý thức chưa tốt nên không làm theo hướng dẫn của giáo viên, sợ
học sinh làm vỡ dụng cụ thí nghiệm…
Với yêu cầu hiện nay của ngành giáo dục đòi hỏi học phải đi đôi với hành
- tức là, sau khi nghiên cứu về một vấn đề nào đó, các em phải liên hệ được với
thực tế để có thể giải quyết các mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống. Đây là nhiệm
vụ khó khăn cũng là quan trọng hàng đầu của giáo viên. Nhiều điều tra nghiên
cứu về tình hình của học sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cho thấy:
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

15


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

học sinh Việt Nam nói chung khá giỏi về lí thuyết nhưng chưa áp dụng được vào
thực tế cuộc sống. Điều này đã làm cho tôi trăn trở, là động lực để bản thân tìm
tịi, thay đổi phương pháp dạy học hướng đến mục tiêu lấy học sinh làm trung
tâm, tăng khả năng áp dụng lí thuyết đã học vào cuộc sống.
Trước đây, bản thân tôi đã cố gắng để học sinh được trực tiếp làm thí
nghiệm trong các tiết học. Tuy nhiên, vì chưa tạo được điểm nhấn cho nên dù
học sinh làm thí nghiệm nhưng mức độ nhớ kiến thức chưa được tốt, chưa có sự
hào hứng, bị lơi cuốn vào bài dạy. Những học sinh nhớ kiến thức thì lại khơng
áp dụng được vào thực tế cuộc sống. Đây là điều làm bản thân tơi ln trăn trở,

tìm cách khắc phục.
Do vậy, bản thân tơi đã mạnh dạn thay đổi phương pháp, tìm tòi, nghiên
cứu và áp dụng đề tài này vào việc dạy học ở trường. Việc thay thế, thêm bớt
một số thí nghiệm trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm vui, đẹp mắt,
hấp dẫn sẽ làm cho các em háo hức chờ đợi đến tiết học mơn hóa, hầu hết các
em học sinh bị lôi cuốn vào bài giảng, tạo động lực để các em khám phá kiến
thức mới. Mặt khác, nếu giáo viên thay thế một số hóa chất, dụng cụ ở các thí
nghiệm trong sách bằng những hóa chất gần gũi với cuộc sống sẽ làm cho học
sinh thấy được hóa học thật gần gũi với cuộc sống, thêm u mến mơn hóa học
và tăng khả năng vận dụng của bộ mơn hóa học vào thực tế cuộc sống. Để làm
được điều này đòi hỏi bản thân người giáo viên phải ln chủ động tìm tịi qua
sách vở, qua thực tế cuộc sống và khơng ngại khó để đưa các thí nghiệm đó vào
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

16


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

bài dạy. Mặt khác, giáo viên đứng lớp luôn phải là người yêu nghề, trăn trở với
chất lượng giáo dục, mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học và đặc biệt là phải
gần gũi, quan tâm nhiều hơn đến các đối tượng học sinh.
Để áp dụng đề tài này vào bài dạy đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời
gian, công sức để chuẩn bị cho học sinh (vì giáo viên phải thay thế một số dụng
cụ, hóa chất trong sách bằng các hóa chất, dụng cụ khác). Thực tế có nhiều giáo
viên rất ngại làm thí nghiệm cũng như chuẩn bị thí nghiệm cho học sinh chứ
chưa nói đến việc tự mình đi tìm kiếm thí nghiệm, dụng cụ, thiết bị để thay thế
cho các thí nghiệm trong sách giáo khoa. Để khắc phục khó khăn nêu trên, chỉ
cần đội ngũ nhà giáo có tâm huyết, tất cả vì học sinh thân yêu, niềm vui của học

sinh là động lực phấn đấu của giáo viên thì chắc chắn sẽ đạt được kết quả như
mong đợi.
Thứ nữa là khi chuẩn bị các thí nghiệm cũng như đưa các thí nghiệm trên
vào bài học nếu giáo viên không chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi mở để
các em học sinh khám phá kiến thức mới một cách chu đáo thì thí nghiệm làm
cũng chỉ để các em xem cho vui mắt chứ không làm cho học sinh hiểu bài, nhớ
bài và vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống.
Việc áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm trên sẽ không mang lại hiệu quả nếu
các em học sinh không mạnh dạn, học tập thụ động, lười hoạt động (khơng làm
thí nghiệm mà chỉ ngồi xem cho vui, không suy nghĩ dựa trên các câu hỏi gợi
mở của giáo viên). Mặt khác, nếu bản thân giáo viên dạy học rập khuôn theo
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

17


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

phương pháp truyền thụ, không chịu khó đổi mới, tìm tịi, sáng tạo, vận dụng
linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực thì chắc chắn sẽ rất khó đạt hiệu
quả. Nhiều giáo viên chưa thực sự gần gũi, quan tâm đến các em học sinh, nhiều
khi các em chưa hiểu bài nhưng giáo viên không tìm cách giúp đỡ, gợi mở sẽ
khiến các em sợ sai, khơng chủ động tham gia vào bài học.
Về phía học sinh nói chung và học sinh trường Trung học cơ sở Dur
Kmăn nói riêng, đa số các em chưa có sự đầu tư nhiều vào học tập, đặc biệt là
mơn hóa học nên giáo viên có tiến hành nhiều thí nghiệm vui mắt, hấp dẫn đến
đâu mà ở học sinh khơng có sự ơn luyện các kiến thức cũ thì cũng khơng thể
nhớ tốt các kiến thức đó được.
Định hướng cho sự thay đổi đó là phải làm sao để các em hiểu bài, nhớ

kiến thức và áp dụng được kiến thức trong đã học vào thực tế cuộc sống. Để làm
được điều này, tôi đa đưa ra giải pháp là thêm, bớt, thay thế một số thí nghiệm
trong sách giáo khoa bằng những thí nghiệm tương đương về mặt kiến thức
nhưng gần gũi với cuộc sống. Mặt khác, để tăng hiệu quả hoạt động của học sinh
trong giờ học, các thí nghiệm hấp dẫn, đẹp mắt được tiến hành. Ngồi ra, để học
sinh hiểu bài thì giáo viên phải xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với mức độ
nhận thức của các em học sinh. Phải quan tâm sát sao đến từng đối tượng học
sinh, tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các em để các em mạnh dạn, tự tin
trong học tập và cuộc sống.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

18


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

a) Mục tiêu của giải pháp
Nhằm tạo cho học sinh có bầu khơng khí học tập sôi nổi, hứng thú, tự tin
tiếp thu và khám phá kiến thức một cách chủ động. Học sinh hiểu và ghi nhớ
kiến thức tốt hơn. Từ đó, hình thành cho học sinh kĩ năng thực hành, nhận biết,
phân tích, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, khoa học.
b) Nội dung và cách thức thực hiện của giải pháp
Giáo viên chủ động tìm tịi, thay thế một số thí nghiệm trong sách giáo
khoa bằng những thí nghiệm vui, hấp dẫn, tạo động lực khám phá kiến thức mới
mà vẫn đảm bảo nội dung bài học. Tiếp đến là thay đổi cách tổ chức hoạt động
học: học sinh sẽ hoạt động theo nhóm, tự làm thí nghiệm và rút ra kiến thức
dưới sự điều khiển của giáo viên.
+ Thí nghiệm phải gắn với nội dung bài dạy, tốt nhất là chọn được các

thí nghiệm giúp học sinh tiếp thu được các kiến thức cốt lõi, trọng tâm
Các thí nghiệm hóa học dù là ở dạng nào thì cũng nhằm giúp học sinh tiếp
thu tốt nội dung bài học và nắm vững hệ thống các kiến thức hóa học cần thiết
trong chương trình phổ thơng. Mặt khác, để việc tiếp thu kiến thức của học sinh
có hiệu quả, khơng thể thí nghiệm một cách tràn lan mà phải có trọng tâm, trọng
điểm. Khi lựa chọn các thí nghiệm để đưa vào bài dạy, tốt nhất nên chọn các thí
nghiệm giúp học sinh tiếp thu các kiến thức cốt lõi, trọng tâm. Số lượng các thí

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

19


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

nghiệm trong một bài cũng không nên q nhiều, có thể từ 3 đến 5 thí nghiệm là
hợp lí.
+ Thí nghiệm phải trực quan, hiện tượng rõ ràng, có tính thuyết phục
Sử dụng thí nghiệm trong dạy học chính là một hình thức dạy học theo
phương pháp trực quan. Vì vậy, thí nghiệm phải dễ quan sát, hiện tượng rõ ràng,
có tính thuyết phục. Chúng ta phải lựa chọn các phản ứng, các q trình hóa học
có kèm theo hiện tượng quan sát được dễ dàng bằng mắt thường. Đó là các phản
ứng:
-

Có sự biến đổi màu sắc
Có tạo chất kết tủa, chất khí bay lên khỏi dung dịch
Có sự tỏa nhiệt hay thu nhiệt
Có hiện tượng cháy, nổ hay phát quang...


Ở bài 13: Phản ứng hóa học (hóa 8): Khi giáo viên dạy phần III (Khi nào
có phản ứng hóa học xảy ra) để chứng minh cho học sinh biết có một số phản
ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác thì giáo viên nên cho học sinh tiến hành
thí nghiệm giữa nhơm với iot: Nghiền nhỏ iot tinh thể rồi trộn với bột nhôm theo

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

20


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

tỉ lệ thể tích 1:3 (1 muỗng thủy tinh nhỏ iot với 3 muỗng nhỏ bột nhơm). Để n
thì phản ứng khơng xảy ra nhưng nếu nhỏ khoảng 2 giọt nước vào thì hỗn hợp
dần dần bốc cháy có khói màu tím (của hơi iot), màu vàng (của AlI 3) và màu
trắng của hơi nước.

+ Thí nghiệm phải hấp dẫn, kích thích hứng thú người dạy và người
học
Một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh chưa u thích bộ
mơn hóa học là do thí nghiệm không hấp dẫn, không tạo được ham muốn hoạt
động. Do đó, thí nghiệm khơng những chỉ cần đem lại hứng thú cho học sinh mà
Thí nghiệm nhơm tác dụng với iot (phản ứng chỉ xảy ra khi có mặt chất xúc tác là nước)

còn phải mang lại hứng thú cho người làm thí nghiệm.
Thơng thường thì những thí nghiệm làm cho học sinh hứng thú cũng sẽ
gây cho giáo viên hứng thú. Khi nhìn học sinh của mình chăm chú dõi theo các
hiện tượng phản ứng xảy ra, thấy các em hoan hỉ cũng đủ làm cho giáo viên vui

rồi. Để xóa dạy chay, một trong những phương pháp quan trọng là phải tìm tịi,
thay thế, lựa chọn các thí nghiệm hấp dẫn, gần gũi với cuộc sống để đưa vào bài
dạy.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

21


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Ví dụ: ở bài Nước (hóa 8), khi giáo viên làm cho học sinh xem thí nghiệm
Na tác dụng với nước thì nên thiết kế để cho thí nghiệm hấp dẫn hơn bằng cách
thay thế bằng thí nghiệm“ Đốt cháy tàu chiến địch” như sau: Dùng 1 tờ giấy A4
để gấp tàu, chọc 1 lỗ thủng dưới đáy, đặt một mẩu Na vào tàu rồi đậy bên trên
bằng vài mảnh giấy dễ bắt lửa. Thả tàu vào chậu nước có sẵn vài giọt dd
phenolphtalein. Khi Natri gặp nước, tàu sẽ bùng cháy, trên mặt nước xuất hiện
vết máu giặc loang nhuộm hồng cả khúc sơng. Có một lưu ý khi tiến hành thí
nghiệm: Vì Natri được bảo quản trong dầu hóa nên phía ngồi sẽ được bao phủ
một lớp vỏ cứng, nếu không gọt sạch lớp vỏ cứng này trước khi cho vào nước,
viên Natri sẽ gây nổ, bắn ra mang theo dung dịch xút gây bỏng, cháy áo quần.

Nếu giáo viên tiến hành được thí nghiệm như đề xuất ở trên vừa tạo sự hứng thú
cho học sinh, vừa có tác dụng giáo dục lịng u nước thơng qua bài học. Để học
sinh dự đốn được trong sản phẩm sinh ra có khí H 2, giáo viên phải hướng cho
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

22



SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

học sinh sử dụng thính giác để cảm nhận về phản ứng (nếu lắng nghe, các em sẽ
nghe thấy âm thanh phát ra từ phản ứng- tiếng xì xì). Giáo viên nên gợi mở để
củng cố tư duy logic cho học sinh: kết quả là sau phản ứng viên Natri (nhẹ hơn
nước) tan trong nước; sự khác nhau giữa một chất nhẹ hơn nước tan trong nước
tạo ra âm thanh xì xì và một chất nhẹ hơn nước khi tan trong nước không tạo ra
âm thanh là ở chỗ nào?Học sinh sẽ tự suy luận để rút ra: trong sản phẩm của
phản ứng có khí.

Hoặc ở bài Tính chất hóa học của muối (Hóa 9) giáo viên nên cho học
sinh tiến hành thí nghiệm nhiệt phân muối KNO3 bằng cách châm tàn đóm vào
tờ giấy A4 có hình vẽ bằng dd KNO 3 (đã phơi khơ). Giấy sẽ bị cháy nhanh,
mạnh theo những chỗ có KNO 3. Trước khi cho học sinh tiến hành thí nghiệm
này, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát kĩ tờ giấy (các em sẽ phát hiện ra các
hình vẽ bằng những nét từ một chất rắn có màu trắng). Khi tiến hành thí nghiệm
và quan sát hiện tượng, giáo viên đặt câu hỏi: Tại sao ở các vết màu trắng trên
Phản
ứnglại
“đốt
cháynhanh
tàu chiến
Natri
táckhác
dụng với
nước có
chứa
dung dịch

tờ
giấy
cháy
hơnđịch”:
những
chỗ
và cháy
theo
những
nét phenolphtalein
đã vẽ? Học

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

23


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

sinh có thể dự đốn được bí mật ẩn chứa là từ chất đã vẽ lên giấy. Giáo viên có
thể gợi ý tiếp: Khi châm tàn đóm vào giấy ở vị trí có chất này, các em đang thực
hiện phản ứng gì? Học sinh sẽ trả lời theo 2 hướng: Đốt chất này trong oxi
khơng khí hoặc nhiệt phân chất này. Giáo viên thông báo: ở thí nghiệm này, các
em đang nhiệt phân muối KNO3 . Như vậy, để giấy cháy nhanh và chỉ lan đến vị
trí có nét vẽ thì trong sản phẩm phản ứng phải có một chất khí thúc đẩy cho
phản ứng cháy mạnh hơn. Các em hãy dự đốn chất khí này (Dựa vào cơng thức
muối đem nhiệt phân, học sinh có thể dự đốn khí sinh ra là oxi)

Ở bài Cacbon (hóa 9), phản ứng cháy của Cacbon có lẽ học sinh cũng đã

gặp nhiều trong cuộc sống nhưng để tạo hứng thú học tập, giáo viên thay thế thí
nghiệm đốt cacbon trong bình kín chứa khí oxi bằng thí nghiệm “Súng phun
lửa”: Trộn bột than gỗ nghiền nhỏ với KMnO4 theo tỉ lệ 1: 1. Lấy vài muỗng hỗn
Phản ứng “vết lửa màu nhiệm”:phân hủy muối KNO3 được viết lên tờ giấy A4 (đã phơi khô)

hợp trên cho vào ống nghiệm khô, đun ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn. Một
lúc sau trong ống nghiệm bắn ra những tia lửa sáng rực như súng phun lửa. Vì
học sinh đã học bài: Điều chế oxi- Phản ứng phân hủy ở lớp 8 nên có thể dễ
dàng giải thích hiện tượng này (Khi đun nóng ống nghiệm trên ngọn lửa đèn
cồn, KMnO4 bị phân hủy sinh ra khí oxi. Cacbon cháy trong oxi ở điều kiện đun
nóng sẽ phản ứng rất mạnh tạo thành các tia lửa sáng rực bắn lên trong ống
nghiệm trông rất đẹp mắt như súng phun lửa).
Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

24


SKKN: Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả các bài dạy có sử dụng thí nghiệm
trong chương trình hóa học Trung học cơ sở

Phản ứng “súng phun lửa”: Cacbon tác dụng với oxi (do phân hủy muối KMnO4)

Ví dụ như để mở đầu bài Axetilen (hóa 9), giáo viên đặt vấn đề: Em hãy
kể tên một số chất dùng làm nhiên liệu? (học sinh sẽ trả lời: than, củi, giấy, vải,
gas, xăng dầu, cồn...). Giáo viên hỏi tiếp: Theo em cục nước đá có cháy khơng?
(100% học sinh trả lời là khơng). Sau đó, giáo viên thực hiện thí nghiệm “Đốt
cháy nước đá”: Cho vài cục đất đèn CaC 2 bằng hạt ngô vào một chén sứ rồi cho
một cục nước đá bằng ngón chân cái. Đưa que đóm đang cháy vào chén sứ, lập
tức có lửa xanh bùng lên. Học sinh thấy hiện tượng lạ nên chắc chắn bị thu hút
vào bài học. Từ đó, giáo viên dễ dàng điều khiển hoạt động học tập của các em

theo tiến trình các bước đã xây dựng trong giáo án.

Người thực hiện: Nguyễn Thị Tuyết Lành- Giáo viên trường Trung học cơ sở Dur Kmăn

25


×