Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

NHA TRAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.66 KB, 13 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Nhà Trần</b>



<b>Nhà Trần hoặc Trần triều (Hán-Nôm</b>: 家陳・陳朝—nhà Trần・Trần triều) là triều đại phong
kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Thái Tông lên ngôi năm 1225 sau khi giành được
quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thối vị vào
năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly – tổng cộng là 175 năm.

<b>Lịch sử</b>



Khi nhà Lý bắt đầu suy yếu, người đứng đầu dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái Tơng)
nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy
vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hồng (7 tuổi) nhường ngơi cho
chồng là Trần Cảnh (8 tuổi; 1218 - 1277) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Trong khoảng 175 năm trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống
quân Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể
từ đời vua Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự mục nát
và yếu kém của hệ thống quan lại. Cuối cùng vào năm 1400, Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần,
chấm dứt 175 năm trị vì của dịng họ này.


<b>Nguồn gốc</b>



Tổ tiên của dịng dõi nhà Trần có nguồn gốc dân tộc Mân ở quận Tần Châu, tỉnh Phúc Kiến,
Trung Hoa. Ông Trần Quốc Kinh từ Phúc Kiến sang Việt Nam vào khoảng năm 1110, thời vua
Lý Nhân Tông (1072-1127), lúc đầu cư trú tại xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh
ngày nay; sống bằng nghề chài lưới trên sông nước, trên đường làm ăn chuyển dần vào hương
Tức Mạc, huyện Thiên Trường, nay là vùng đất thuộc Thái Bình - Nam Định. Trần Quốc Kinh
lấy vợ ở Tức Mạc, sinh ra Trần Hấp. Trần Hấp sinh ra Trần Lý và Trần Hoằng Nghi. Trần Lý
sinh ra Trần Tự Khánh và Trần Thừa - sau được tôn là Trần Thái Tổ. Trần Hoằng Nghi sinh
được ba người con trai: Trần An Quốc, Trần An Bang và Trần Thủ Độ .[1]


<b>Nguồn gốc tên</b>




Các nhà lãnh đạo thuộc những thế hệ đầu tiên thường mang tên các loài cá, do nguồn gốc xuất
thân chài lưới của họ Trần. Tổ họ Trần vốn tên là Chép, được dịch sang tiếng Hán là 鯉, phiên
âm là "Lý", nghĩa là cá chép. Con ơng là Trần Thừa vốn có tên là Dưa (cá dưa). Hai con trai Trần
Thừa vốn có tên là Leo (cá leo), được phiên theo chữ Hán là Liễu (cha của Trần Quốc Tuấn),
người con thứ hai có tên là Lành Canh (cá lành canh), phiên sang chữ Cảnh (vua Thái Tơng).
Trần Thị Dung cũng vốn có tên là Ngừ (cá ngừ), khi làm hoàng hậu của Lý Huệ Tông mới đổi
gọi là Dung. Về sau dân địa phương lập đền thờ bà vẫn gọi là "Bà chúa Ngừ".


Từ thế hệ thứ hai, nhà Trần nắm quyền cai trị nên mới đặt theo các tên đời sau thường biết tới.

<b>Thay ngơi nhà Lý, củng cố chính quyền</b>



<b>Thay ngôi nhà Lý</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Năm 1209, khi trong triều có biến loạn, vua Lý Cao Tơng phải chạy lên Quy Hoá, Thái tử Sảm
chạy về Hải Ấp đã được gia đình Trần Lý giúp đỡ. Hồng tử Sảm đã kết duyên cùng Trần Thị
Dung, con gái thứ hai của Trần Lý. Họ Trần đã tập hợp hương binh giúp nhà Lý dẹp loạn, diệt
trừ Quách Bốc (thuộc tướng của Phạm Bỉnh Di), đưa vua Lý trở lại kinh đô. Cậu ruột Trần Thị
Dung là Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ


Uy thế họ Trần bắt đầu được đề cao từ khi hoàng tử Sảm lên ngôi vào năm 1211, tức là vua Lý
Huệ Tơng. Ơng cho đón vợ là Trần Thị Dung về cung lập làm nguyên phi. Lúc này, Tô Trung
Từ được phong Thái phụ chính.


Huệ Tơng là người yếu đuối, lại bị Thái hậu họ Đàm khống chế, nên mọi việc đều phó thác cho
Đàm Dĩ Mơng, người chức cao, quyền lớn nhưng "khơng có học thức, khơng có mưu thuật, lại
nhu nhược khơng quyết đốn, chính sự ngày một đổ nát". Lợi dụng tình hình đó, Đồn Thượng
làm phản, tụ tập bè đảng ở Hồng Châu thả sức cướp bóc, khiến triều đình khơng chế ngự nổi.
Năm 1216, trước tình thế bức bách của Đàm thái hậu, Lý Huệ Tơng đã bí mật rời bỏ hoàng cung,
cùng với Trần thị Dung trốn đến nơi đóng quân của Trần Tự Khánh. Từ đó, vua Lý hoàn toàn
phụ thuộc vào thế lực anh em họ Trần.



Năm 1223, Trần Tự Khánh chết, mọi việc đều uỷ quyền cho Trần Thủ Độ (em họ Trần Thừa và
Tự Khánh) khi ấy là chỉ huy sứ, quản lĩnh cấm quân.


Là người cơ mưu, quyết đoán, Trần Thủ Độ đã sắp xếp để vua Huệ Tông nhường ngơi cho cơng
chúa Chiêu Thánh, rồi cắt tóc đi tu ở chùa Chân Giáo. Liền sau đó, Trần Thủ Độ lại thu xếp cho
Lý Chiêu Hoàng lên 7 tuổi lấy con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh lên 6 tuổi. Một năm sau,
vào tháng 12 âm lịch năm 1225, Trần Thủ Độ ép Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng, nhà Trần
bắt đầu nắm quyền cai trị.


Khi lên ngơi, Trần Cảnh (Trần Thái Tơng) cịn nhỏ, mọi việc triều chính đều trong tay Thái sư
Trần Thủ Độ và cha là Nhiếp chính Trần Thừa.


<b>Dẹp nội loạn</b>



Từ năm 1211 trong nước Đại Việt đã hình thành ba thế lực phân cát lớn là:
 Họ Đoàn (Hải Dương và Hải Phịng).


 Họ Trần (Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên).
 Họ Nguyễn (Quốc Oai, Hà Tây)


Triều đình nhà Lý chỉ kiểm sốt vùng xung quanh Thăng Long. Trong q trình nắm quyền bính
trong triều cho tới khi thay ngôi nhà Lý, nhà Trần tiếp tục phải đối phó với các lực lượng cát cứ
từ thời Lý.


Do thế lực chưa đủ mạnh để trấn áp tất cả các lực lượng nổi dậy, họ Trần phải dùng chiến thuật
khi đánh khi hoà, thậm chí cả biện pháp hơn nhân; và tận dụng sự xung đột của chính các thế lực
này tự làm yếu nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Chống Nguyên Mông</b>




Ở phương Bắc, người Mông Cổ dần dà xâm chiếm Trung Quốc. Sau khi tiêu diệt nhà Kim phía
bắc, các vua Mơng Cổ tiến xuống phía nam để diệt nước Nam Tống vốn đã suy yếu khi bị nhà
Kim của người Nữ Chân xâm lấn từ đầu thế kỷ 12. Để tạo thế bao vây Nam Tống, vua Mông Cổ
đánh chiếm nước Đại Lý (Vân Nam (1254) và sau đó đánh sang Đại Việt.


Cuối năm 1257 âm lịch, tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hợp Thai (<i>Uriyangqadai</i> hay 兀良合
台) mang 3 vạn quân tiến vào nước Đại Việt qua đường Vân Nam. Vua Trần Thái Tơng đích
thân ra chiến trận. Quân Trần cố gắng chặn nhưng quân Mông Cổ vẫn tiến vào được Thăng
Long. Nhân dân Thăng Long theo lệnh của triều đình đã thực hiện "vườn khơng nhà trống", rút
về Thiên Mạc (Hà Nam). Ngột Lương Hợp Thai kéo quân vào Thăng Long chưa đầy 1 tháng thì
bị thiếu lương thực. Nhân cơ hội đó qn Đại Việt phản công ở Đông Bộ Đầu (Từ Liêm-Hà
Nội). Quân Mông Cổ thua phải rút khỏi Thăng Long, đến vùng Quy Hóa (Yên Bái) bị quân của
tộc trưởng Hà Bổng đánh tan tác, quân Mông Cổ rút chạy về Vân Nam.


Năm 1279, quân Mông diệt được Nam Tống. Từ năm 1260, vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt đã lập
ra nhà Nguyên. Để lấy cớ đánh Đại Việt, nhà Nguyên cho Toa Đô mượn đường đánh Chiêm
Thành (Champa). Sau nhiều hoạt động ngoại giao hòa hoãn bất thành, cuối cùng chiến tranh
bùng phát. Cuối năm 1284, nhà Ngun liền phái hồng tử Thốt Hoan và tướng Toa Đô mang
quân đánh hai đường nam, bắc kẹp lại để chiếm Đại Việt. Thoát Hoan đi từ Quảng Tây cịn Toa
Đơ đi đường biển từ cảng Quảng Châu, trước hết đánh vào Chiêm Thành rồi đánh "gọng kìm"
thốc lên từ phía nam Đại Việt.


Đây là lần xâm lược Đại Việt với quy mô lớn nhất của nhà Nguyên (huy động hơn 50 vạn quân)
và cũng là cuộc kháng chiến gian khổ nhất của nhà Trần chống phương Bắc, quyết định sự tồn
vong của Đại Việt lúc đó.


Sau nhiều đợt rút lui để tránh thế mạnh của các đạo quân Mông, dùng chiến thuật vườn khơng
nhà trống để qn địch khơng có lương ăn và bị bệnh dịch do không hợp thủy thổ bản địa, nhà
Trần tổ chức phản công vào cuối xuân, đầu hè năm 1285. Với những chiến thắng ở Tây Kết,


Hàm Tử, Chương Dương, quân Trần đại thắng, bắt giết được Toa Đơ. Thốt Hoan thu tàn quân
chạy về bắc.


Thắng lợi năm 1285 cơ bản xác định sự tồn tại của Đại Việt và củng cố lịng tin của người Việt
có thể đương đầu được với đạo quân hùng mạnh của Mông Nguyên liền kề phía bắc. Bởi vậy
trong lần kháng chiến thứ 3 chống Mông Nguyên năm 1287, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn
nói với vua Trần: "...Quân ta đã quen việc chiến trận, mà qn nó thì sợ phải đi xa... Theo như
thần thấy, phá được chúng là điều chắc chắn". Nhà Trần tiếp tục chủ động áp dụng chiến thuật
tránh thế mạnh, triệt lương thảo. Cuối cùng quân Trần đại phá quân Nguyên ở sông Bạch Đằng
tháng 4 năm 1288, bắt sống Ngun sối Ơ Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ. Thốt Hoan một lần
nữa chạy trốn về bắc.


Sau thất bại lần thứ ba ở Đại Việt, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt vẫn chưa muốn đình chiến. Sang
các năm sau, vua Nguyên tiếp tục muốn điều binh sang nhưng chưa gặp thời cơ thuận tiện. Tới
năm 1294 lại định điều binh lần nữa thì chính Hốt Tất Liệt băng hà. Cháu nội là Nguyên Thành
Tông lên ngôi không muốn gây chiến với Đại Việt nữa. Việc chiến tranh với nhà Nguyên từ đó
mới chấm dứt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trong triều đại nhà Trần, ngồi những cuộc chiến tranh với qn Ngun Mơng ở phía Bắc thì
Đại Việt cũng có những sự liên hệ với các nước láng giềng phía tây và phía nam là Ai Lao và
Chiêm Thành.


<b>Với Chiêm Thành</b>



Có thể nói trong các triều đại Việt Nam, Chiêm Thành khơng lúc nào không quấy phá và cuộc
chiến tranh giữa hai nước vẫn thường xuyên xảy ra. Lúc nhà Trần lên ngôi, nước Chiêm Thành
vẫn giữ lệ triều cống và giao hịa. Trong đời vua Trần Nhân Tơng, sau khi chinh phạt Chiêm
Thành, thì giữa Đại Việt và nước Chiêm Thành có sự giao hảo tốt đẹp. Đến đời vua Trần Anh
Tông, lúc bấy giờ Trần Nhân Tơng đã lên làm thái thượng hồng và trong lúc sang thăm vãn
cảnh nước Chiêm và để cho tình giao hảo của hai nước trở nên bền vững hơn, nhà Trần đã gả


công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm Thành là Chế Mân năm 1306. Chế Mân dâng châu Ơ và
châu Rí cho Đại Việt. Vua Trần Anh Tơng đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu rồi đặt quan cai
trị cũng như cho di dân sang ở. Một năm sau, Chế Mân chết. Theo tục lệ Chiêm Thành thì hồng
hậu phải bị hỏa thiêu chết theo. Vua Trần Anh Tông sai tướng Trần Khắc Chung giả tiếng vào
thăm rồi tìm kế rước về.


Chế Mân chết thì Chế Chỉ lên thay và địi lại hai châu mà Chế Mân đã dâng cho Đại Việt. Vua
Trần Anh Tông sai quân sang bắt Chế Chỉ đem về trị tội và phong cho em của Chế Chỉ là Chế


Đà A Bà lên thay làm vua nước Chiêm Thành. Đến đời vua Trần Dụ Tông, con và rể của vua


Chiêm Thành tranh giành nhau ngôi vua, quân nhà Trần sang can thiệp nhưng bị quân Chiêm
Thành đánh bại cả hai lần.


Năm 1370, các hoàng tử con vua Minh Tông lật đổ Dương Nhật Lễ (xem phần "Thời kỳ suy tàn"
bên dưới) lập Trần Nghệ Tông. Mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xui vua Chiêm đánh Đại
Việt. Lúc đó thế lực nhà Trần suy yếu, Chiêm Thành có ý khởi binh đánh địi lại hai châu đã mất.
Đến đời vua Trần Duệ Tông, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga quấy rối biên giới, vua Duệ
Tơng sai Đỗ Tử Bình đem qn trấn giữ Hóa Châu. Bồng Nga đem 10 mâm vàng dâng lên. Tử
Bình ỉm đi, cướp làm của mình, nối dối là Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, nên đem quân đánh. Duệ
Tông giận lắm, quyết ý thân chinh. Cuối năm 1376, quân Trần xuất phát. Năm 1377, quân Trần
chiếm cửa Thị Nại (Quy Nhơn ngày nay) rồi tiến đánh kinh thành là Đồ Bàn. Lúc đó Chế Bồng
Nga, một ơng vua có tài thao lược, dùng kế dụ quân Trần vào ổ mai phục đánh tan. Vua Trần
Duệ Tông bị tử trận, Hồ Quý Ly, Đỗ Tử Bình rút quân bỏ chạy về nước. Thừa thắng xông lên,
Chế Bồng Nga nhiều lần mang quân sang đánh phá Đại Việt, Hồ Quý Ly nhiều lần ra trận bị
thua, quân Chiêm ba lần chiếm được kinh thành Thăng Long, vua tôi nhà Trần phải bỏ thành
chạy. Quân Chiêm cướp phá kinh thành rồi rút về. Đỗ Tử Bình chỉ bị đồ làm lính 1 năm rồi sau
đó lại được nhấc lên địa vị cao hơn.


Năm 1390, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh. Tướng trẻ Trần Khát Chân được lệnh đem


binh dàn trận ở sông Hải Triều (sông Luộc ở vùng Hưng Yên ngày nay). Nhờ có hàng tướng bên
Chiêm sang chỉ chỗ, Khát Chân sai chĩa hỏa pháo nhằm cả vào thuyền Chế Bồng Nga mà bắn.
Vua Chiêm trúng đạn tử trận, quân Chiêm bỏ chạy và sau đó con của Chế Bồng Nga hàng phục
Đại Việt. Kể từ đó trong thời gian dài Chiêm Thành không dám đánh Đại Việt nữa.


<b>Với Ai Lao</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

dẹp giặc. Vua Trần Minh Tông cũng nhiều phen thân chinh đi dẹp giặc. Trong triều đại nhà Trần,
mục đích của Đại Việt là dẹp các cuộc đánh phá và quấy nhiễu của qn Ai Lao chứ khơng có
mục đích đánh chiếm lấy đất nước này.


<b>Tổ chức quân đội</b>



Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi là chính
binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.


Các đơn vị quân đội được gọi là <i>quân</i>. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng qn. Mỗi qn có
30 đơ, chỉ huy mỗi đơ có chánh phó đại đội. Mỗi đơ có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ là đầu ngũ.
Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động đi
các lộ để tác chiến.


Nhằm có lực lượng đơng đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách <i>ngụ binh </i>
<i>ư nơng</i> (giữ qn lính ở nhà nơng) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết phòng khi có
chiến tranh xảy tới. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người.


<b>Hành chính</b>



Đời nhà Trần, Việt Nam chia ra làm 12 lộ, <i>Đại Việt sử ký toàn thư</i> (ĐVSKTT) chép như sau:


<i>Nhâm Dần, Thiên Ứng Chính Bình năm thứ 11 1242: Mùa xn, tháng 2, chia nước làm </i>


<i>12 lộ. Đặt chức an phủ, trấn phủ, có 2 viên chánh, phó để cai trị. Các xã, sách thì đặt </i>
<i>chức đại tư xã, tiểu tư xã. Từ ngũ phẩm trở lên là đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống là tiểu</i>
<i>tư xã. Có người làm kiêm cả 2-4 xã, cùng xã chính, xã sử, xã giám gọi là xã quan.</i>


Mỗi lộ đều có quyền dân tịch để kiểm soát dân số trong lộ. Dân chúng trong nước được chia ra
làm 3 hạng: hạng tiểu hoàng nam (từ 18 tuổi đến 20 tuổi), hạng đại hoàng nam (từ 20 tuổi đến 60
tuổi) và hạng lão (trên 60 tuổi). Lúc đầu chỉ có những người trong hoàng tộc mới được giữ các
chức quan nhưng từ đời vua Anh Tông, những người tài đức cũng được tuyển dụng vào giữ các
chức vụ quan trọng này. Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phần chính biên, có
ghi lại 12 lộ như sau: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang, Hải Đông, Trường n,
Kiến Xương, Hồng Khối, Thanh Hố, Hồng Giang, Diễn Châu.


<b>Luật pháp</b>



Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký tồn thư có chép lại như
sau:


<i>Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của </i>
<i>triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.</i>
<i>Định bị đồ có mức độ khác nhau:</i>


 <i>Loại bị đồ làm Cảo điền hồnh thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã </i>


<i>Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.</i>


 <i>Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đơ Thăng Long lúc đó với chức quan


kinh dỗn, chun xét đốn việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành Đại an phủ sứ, sau


lại đổi thành Kinh sư đại dỗn.


<b>Kinh tế</b>



Về mặt nơng nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ sông và cử quan
đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều đình cịn ra lệnh cho qn
sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. <i>Đại Việt sử ký tồn thư</i> có chép:


<i>Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự Nguyễn </i>
<i>Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào (là </i>
<i>tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ </i>
<i>Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu.</i>


Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi
khai khẩn đất hoang để mở mang thêm ruộng nương.


Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng bằng tiền và ít
nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế. Thuế điền thì đóng
bằng thóc. Ngồi ra cịn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt tiền tệ, để tiện việc tiêu
dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà vua.


<b>Giáo dục, thi cử</b>



Đời nhà Trần, văn học rất được mở mang, Nho học cũng phát triển hơn so với thời Lý.


Ngồi Quốc Tử Giám có tại kinh đơ từ đời nhà Lý, nhà Trần cho lập thêm Quốc Học Viện để
giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Tại các lộ cũng cho mở trường học để dạy cho dân chúng.


Trước kia dưới triều nhà Lý, có mở những khoa thi tam trường để lấy cử nhân, nhưng các khoa
thi chỉ được mở ra khi nào triều đình cần người tài giỏi ra giúp nước chứ chưa có mở định kỳ.


Năm 1232, vua Trần Thái Tông cho mở khoa thi thái học sinh để lấy tiến sĩ theo định kỳ cứ 7
năm thì có một kỳ thi. Năm 1247, nhà vua lại cho đặt ra khảo thi tam khôi để lấy trạng nguyên,
bảng nhãn và thám hoa. Lê Văn Hưu là người đầu tiên đậu bảng nhãn.


Trong 175 năm tồn tại, nhà Trần đã tổ chức 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy
283 người đỗ. Có 2 khoa thi 1256 và 1266 lấy 2 trạng nguyên là Kinh trạng nguyên và Trại trạng
nguyên nên tổng số có 12 người đỗ đầu trong các kỳ thi.


<b>Tôn giáo</b>



Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo cịn thịnh. Các nhà vua đều sùng đạo cho xây
chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. ĐVSKTT chép lại <i>Thượng hồng xuống </i>
<i>chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ</i>.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Văn hóa nghệ thuật</b>



Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ <i>Đại Việt Sử </i>
<i>Ký</i> và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông trạng rất mực
thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải kính phục. Chu Văn
An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua Thái Tông, Thánh Tông,
Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn chương và có soạn Ngự tập và
danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị như <i>Hịch tướng sĩ</i>.


Hàn Thun tức Nguyễn Thun có cơng làm thơ bằng chữ Nơm và đặt ra luật thơ Nơm. Vì thế
đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những bài thơ Nôm rất giá
trị. ĐVSKTT chép:


<i>Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sơng Lơ. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn Thuyên </i>
<i>làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của Hàn Dũ,</i>
<i>bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước ta </i>


<i>dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.</i>


Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý,
trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc cơng biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành.
Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng.


Âm nhạc Đại Việt thời Trần chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc[5] . Một số


nhạc công bị bắt từ Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho
dân Đại Việt, càng ngày càng phổ biến.


<b>Thời kỳ suy tàn</b>



Nhà Trần đã có một thời đại rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên cũng như bình phục
được Chiêm Thành, nhưng kể từ khi thái thượng hồng Trần Minh Tơng qua đời (1357), vua
Trần Dụ Tơng ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính để cho nhà Trần bước vào giai
đoạn suy vi và sau cùng bị mất ngơi.


Vua Trần Dụ Tơng chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung điện, tạo sưu
cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc giã nổi lên khắp
nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng thất trảm sớ đề nghị trị
tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu Văn An đã từ
quan về nhà dạy học.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm thái thượng hồng và nhường ngơi cho em là Kính lên
thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng hồng Nghệ Tơng
lập con Duệ Tơng là Phế Đế lên thay. Thượng hồng Nghệ Tơng nắm quyền bính trong tay quyết
định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Lê Quý Ly (tức Hồ Quý Ly). Do đó, Quý Ly xúi
giục Nghệ Tơng giết hại các trung thần, các hồng tử, các thân vương và ngay cả vua Phế Đế


cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế bỏ[6]. Con Nghệ Tông là Thuận Tông


(đồng thời là con rể Quý Ly) được lập lên ngôi nhưng cũng khơng có thực quyền.


Vì có mưu đồ sốn đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ Quý Ly đã tạo
được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó Quý Ly càng ngày
càng lộng quyền khơng coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly nắm lấy cả quyền
hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau khi công việc xong xuôi, Hồ Quý
Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là
Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngơi. Quý Ly lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tơng và
chuẩn bị cướp ngơi.


Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Trần Khát Chân lập hội với
mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào khoảng hơn 370
người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm lấy ngôi nhà Trần, đổi
sang họ Hồ.


Nhà Trần chấm dứt,kéo dài 175 năm với 13 đời vua.

<b>Chính sách hơn nhân</b>



Nhà Trần lấy ngơi nhà Lý bằng biện pháp hơn nhân. Nhà Trần từ vai trị là ngoại thích của nhà
Lý đã giành ngơi. Do đó, để tránh họa ngoại thích, nhà Trần chủ trương chỉ kết hôn với người
trong họ.


Tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnhđã dẫn ra hơn 30 trường hợp hôn nhân nội tộc của nhà Trần:
1. Trần Liễu , anh Thái Tơng, con Thượng hồng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên cơng chúa,


con vua Lý Huệ Tông và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột Trần Thừa, Trần Liễu và
Thuận Thiên là con cô con cậu.



2. Năm 1225, Trần Cảnh, tức Trần Thái Tơng, lấy Lý Chiêu Hồng, em Thuận Thiên;
trường hợp này cũng là con cô lấy con cậu.


3. Sau khi Lý Huệ Tông chết, giáng Huệ hậu (Trần Thị Dung) làm Thiên Cực công chúa, gả
cho Trần Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã có tư tình với nhau từ
trước.[<i>cần dẫn nguồn</i>]


4. Năm 1237, vì Chiêu Hồng khơng có con, Thủ Độ ép Thái Tơng lấy Thuận Thiên, lúc ấy
đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa
là em chồng lấy chị dâu.


5. Vua Thái Tông hứa gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành cho Trung Thành vương


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

vương?). Như vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cơ ruột Hưng Đạo,
vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột Thiên Thành. Đây là trường hợp cháu lấy cô.
6. Năm 1258, Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm công chúa là con Trần Liễu, tức là con chú


con bác lấy nhau.


7. Thụy Bảo công chúa, con vua Thái Tông, lấy Uy Văn vương Toại.


8. Gả công chúa tên Thúy, con Thái Tông cho Thượng vị Văn Hưng hầu.


9. Thiên Thụy công chúa, con vua Thánh Tông và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tông và


cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn (con Trần Hưng Đạo), cháu nội
Trần Liễu; trường hợp này vừa là con cô con cậu (Trần Hưng Đạo và Thiên Cảm là con
Trần Liễu) vừa là cháu chú cháu bác lấy nhau.


10. Thiên Thụy công chúa lại tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tông thất nhà


Trần. Khánh Dư nhờ có cơng đánh qn Ngun được Thượng hồng Thánh Tông nhận
làm con nuôi.


11. Năm 1274, Nhân Tông, con Thánh Tông, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều là con Hưng
Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy lấy Quốc Nghiễn.


12. Anh Tông, con Nhân Tông, cháu Thánh Tông, chắt Thái Tông, lấy Văn Đức phu nhân
năm 1292, là con Hưng Nhượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng Đạo vương, chắt Trần
Liễu. Trường hợp này là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo vương và Thiên Cảm là con Trần
Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy nhau.


13. Sau Anh Tông lại bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư.


14. Anh Tông lấy Huy Tư là con Thụy Bảo cơng chúa và Trần Bình Trọng. Thụy Bảo là em
Thánh Tông, Anh Tông là cháu nội Thánh Tông, tức cháu lấy cô.


15. Năm 1301, Thiên Trân công chúa, con Anh Tông, Anh Tông là con Nhân Tông, cháu
Thánh Tơng, lấy Uy Túc cơng Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải. Quang Khải và
Thánh Tông là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy nhau.


16. Thiên Trân chết, Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa.


17. Thượng Trân công chúa, em Anh Tông, chắt Thái Tông lấy Văn Huệ công Quang Triều,
con Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức chắt chú chắt bác lấy nhau.


18.Trần Minh Tông , con Anh Tông, cháu Nhân Tông, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái
lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn. Chẩn là em Anh Tông: con chú con bác lấy nhau.


19. Minh Tông gả Huy Chân, con Nhân Tông, cho Uy Giản hầu năm 1317. Mẹ Huy Chân là
Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hồng Anh Tơng.



20. Năm 1318 Minh Tông gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương.


21. Năm 1337 Hiến Tơng, con Minh Tông, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc vương Đại
Niên.


22. Năm 1342, Thiên Ninh công chúa, con Minh Tơng, lấy Hưng/Chính Túc vương Kham.
23. Năm 1349, Dụ Tông, con Minh Tông, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ Từ Nghi


Thánh.


24. Năm 1351, Dụ Tông loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339 Dụ Tông bị
chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tàu là Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng
đoán sau này lớn lên sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng như vậy, Trâu
Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với
thuốc dương khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột. Vua nghe theo,
thông dâm với Thiên Ninh công chúa.


25. Huy Ninh công chúa, con Minh Tông, lấy tông thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị Dương
Nhật Lễ giết, Nghệ Tông là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly.


26. Duệ Tông, con Minh Tông và Lê Đôn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ Quý Ly,
tức anh em họ lấy nhau.


27. Duệ Tông lấy con gái Thái bảo Trần Liêu làm phi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

29. Thiên Huy hay Thái Dương công chúa, con Nghệ Tông, lấy Phế Đế là con Duệ Tông.
Nghệ Tông và Duệ Tông cùng là con Minh Tông, mẹ Nghệ Tông là Minh Từ, mẹ Duệ
Tông là Đôn Từ, là hai chị em ruột, cô của Quý Ly: vừa là con chú con bác, vừa là cháu
dì cháu già lấy nhau.



30. Sau khi Phế Đế chết, vợ là Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín vương
Thiên Trạch, em Nghệ Tơng: con chú con bác tư thông với nhau.


31. Năm 1393, thượng hồng Trần Nghệ Tơng giận Thái Dương, đem gả Thái Dương cho
Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên để làm nhục.


32. Tuyên Huy công chúa, con Duệ Tông, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ Tông,
giống trường hợp Thái Dương lấy Trần Phế Đế.


33. Quý Ly gả Trang Huy công chúa, con Tông thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho Mộng
Dữ, con Trần Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải.


34. Thuận Tông, con út Nghệ Tông, lấy Thánh Ngẫu công chúa là con gái lớn của Hồ Quý
Ly và Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tông, tức là con cô con cậu lấy nhau.
Thuận Tông lại là cháu nội của Đôn Từ, cô của Quý Ly, lấy con gái Quý Ly, tức anh em
họ lấy nhau.


Từ khi Trần Nghệ Tông trọng dụng Hồ Quý Ly là một ngoại thích, lập tức nhà Trần cũng gặp
"họa ngoại thích" và mất về tay ngoại thích.


<b>Nhận định</b>



<b>Về chiến thắng Mông-Nguyên</b>



Theo đánh giá của các sử gia, việc nhà Trần lên thay nhà Lý vào đầu thế kỷ 13 là cần thiết và kịp
thời cho sự phục hưng nước Đại Việt bị suy yếu nghiêm trọng cuối thời nhà Lý. Nếu khơng có
sự xuất hiện của nhà Trần, nước Đại Việt sẽ khó tồn tại trong cảnh cát cứ (Nguyễn Nộn, Đoàn
Thượng) bên trong và họa Mơng - Ngun bên ngồi như các nước Đại Lý, Nam Tống láng
giềng. Nguyên nhân cơ bản nhất cho những thành cơng của nhà Trần là chính sách đồn kết nội


bộ của những người lãnh đạo. Dù trong hồng tộc nhà Trần có những người phản bội theo nhà
Nguyên nhưng nước Đại Việt không bị mất, nhờ sự ủng hộ của đơng đảo dân chúng.


Cịn một ngun nhân nữa phải kể tới trong thành công của nhà Trần là đội ngũ tướng lĩnh xuất
sắc, nòng cốt lại chính là các tướng trong hồng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các
hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngồi lịng u nước - và bảo vệ quyền lợi dòng tộc - số lớn là
những người có thực tài cả văn lẫn võ. Thật hiếm dịng họ cai trị nào có nhiều nhân tài nổi bật và
nhiều chiến công như nhà Trần, đặc biệt là thế hệ thứ hai: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông,
Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật đều là những tên tuổi lớn trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa
kể tới Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản...


Mông-Nguyên đương thời là đế quốc lớn nhất thế giới. Những nơi người Mơng bại trận lúc đó
như Ai Cập q xa xơi, Nhật Bản và Indonesia đều có biển cả ngăn cách và qn Mơng cũng
khơng có sở trường đánh thủy quân nên mới bị thua trận. Thế nhưng nước Đại Việt lúc đó nằm
liền kề trên đại lục Trung Hoa, chung đường biên giới cả ngàn dặm với người Mông mà người
Mông vẫn không đánh chiếm được. Một đế quốc đã nằm trùm cả đại lục Á-Âu mà không lấy nổi
một dải đất bé nhỏ ở phía nam. Có so sánh tương quan lực lượng với kẻ địch và vị trí địa lý với
những quốc gia làm được điều tương tự mới thấy được sự vĩ đại của chiến công 3 lần đánh đuổi
Mơng-Ngun của nhà Trần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Nhìn chung, triều Trần có thể chia ba thời kỳ: thời thứ nhất từ Thái Tông đến Nhân Tông là thời
xây dựng và chống Mông-Nguyên, thời thứ hai từ Anh Tông đến Hiến Tơng (có thượng hồng
Minh Tơng) là thời kế tục, thời thứ ba từ Dụ Tông (sau khi thượng hồng Minh Tơng mất) tới
khi kết thúc là thời suy tàn.


Để tránh "họa ngoại thích", nhà Trần chủ trương chính sách "hơn nhân nội tộc". Chính sự nhà
Trần bắt đầu suy từ đời vua Dụ Tông xa hoa hưởng lạc, xa lánh lương thần, tin dùng gian thần.
Nhưng đó đơn giản chỉ là sự hưởng thụ như Lý Cao Tông trước đây mà thôi. Tới các đời sau,
đặc biệt là Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u
tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát


hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Nhiều hành động của Nghệ Tông như thể để
"dọn đường" cho Quý Ly cướp ngôi nhà Trần sau này. Thời kỳ Nghệ Tông trở về sau, vấn đề
chống Chiêm Thành là lớn nhất, vậy mà một Quý Ly luôn chạy dài trước những đợt tấn công của
địch, không hề lập được công bao giờ, lại vẫn được tin dùng đến như vậy. Còn Đế Hiện đối với
Đỗ Tử Bình, gian thần xảo trá gây ra cái chết của cha mình (Duệ Tơng), khơng những khơng
trừng trị đích đáng mà cịn nhiều lần thăng lên làm đại thần cấp cao hơn trước, khi chết (1382)
còn được truy tặng gia phong. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm
của sự "thối hóa giống nịi" do "hơn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền,
thốn ngơi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh,
Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Quan hệ giữa Quý Ly
với Nghệ Tông, Tử Bình với Đế Hiện khơng thể như Trần Thủ Độ với Lý Huệ Tông, Mạc Đăng
Dung với Lê Cung Hoàng... Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới
quyền lợi của dịng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có[10].


Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan
lại đều kém tài. Nếu thế hệ trước thắng Mông-Nguyên khổng lồ một cách oai hùng bao nhiêu thì
đời con cháu phải chạy trốn một Chiêm Thành nhỏ bé, từng núp bóng mình trong chiến tranh
chống Mông-Nguyên xưa kia, một cách thảm hại bấy nhiêu. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn,
khơng hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào
một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê). Nếu trong tơng thất nhà Trần thời
kỳ sau có những nhân tài như giai đoạn đầu thì dù Q Ly có manh tâm cũng khơng thể tính
chuyện cướp ngơi. Nhà Trần trượt dốc từ Trần Dụ Tông, sau sự kiện Dương Nhật Lễ và cái chết
của Duệ Tông đã không gượng dậy được nữa. Đó chính là thời cơ cho Hồ Quý Ly làm việc
chuyên quyền và chiếm lấy ngôi nhà Trần.


Dù sao, nhà Trần vẫn là một trong những triều đại nổi bật nhất trong lịch sử Việt Nam. Trang sử
về nhà Trần trong sử sách nằm trong số những trang sáng nhất và để lại nhiều bài học cho đời
sau.


<b>Các vua nhà Trần</b>




<b>Miếu hiệu</b> <b>Niên hiệu</b> <b>Tên</b> <b>Sinh-<sub>Mất</sub></b> <b>Trị vì</b> <b>Thụy hiệu</b> <b>Lăng</b>


Thái Tơng Kiến Trung
(1226-1232)
Thiên Ứng
Chính Bình
(1232-1251)


Trần Cảnh
1218-1277



1226-1258


Ngun Hiếu Hồng
đế


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Ngun Phong
(1251-1258)


Thánh
Tơng


Thiệu Long
(1258-1272)
Bảo Phù
(1273-1278)


Trần Hoảng


1240-1291



1258-1278


Tun Hiếu Hồng


Đế Dụ Lăng


Nhân Tông


Thiệu Bảo
(1278-1285)
Trùng Hưng
(1285-1293)


Trần Khâm 1258-<sub>1308</sub> 1278-<sub>1293</sub> Duệ Hiếu Hồng Đế Đức Lăng


Anh Tơng Hưng Long Trần Thun1276-<sub>1320</sub> 1293-<sub>1314</sub> Nhân Hiếu Hồng <sub>Đế</sub> Thái Lăng


Minh Tơng


Đại Khánh
(1314-1323)
Khai Thái
(1324-1329)


Trần Mạnh
1300-1357





1314-1329 Văn Triết Hồng Đế Mục Lăng


Hiến Tơng Khai Hựu Trần Vượng 1319-<sub>1341</sub> 1329-<sub>1341</sub> ? Xương An <sub>Lăng</sub>


Dụ Tông


Thiệu Phong
(1341-1357)
Đại Trị
(1358-1369)


Trần Hạo
1336-1369




1341-1369 ? Phụ Lăng


Hôn Đức


Công Đại Định


Dương Nhật


Lễ ?-1370





1369-1370 tiếm ngôi bị giết


Nghệ Tơng Thiệu Khánh Trần Phủ
1321-1394




1370-1372 Anh Triết Hồng Đế


Ngun
Lăng


Duệ Tơng Long Khánh Trần Kính 1337-<sub>1377</sub> 1373-<sub>1377</sub> ? Hy Lăng


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

1388 1388 Vương


Thuận


Tông Quang Thái Trần Ngung 1378-1399 1388-1398 ép nhường ngôi và ép chết Yên Sinh Lăng


Thiếu Đế Kiến Tân Trần An 1396-?
1398-1400


bị Hồ Quý Ly cướp
ngôi


phế làm Bảo Ninh
Đại Vương


</div>


<!--links-->





Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×