Tải bản đầy đủ (.pdf) (252 trang)

Hoạt động của người pháp ở việt nam trước khi thực dân pháp tiến hành chiến tranh xâm lược (thế kỷ xvii đến năm 1858)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (19 MB, 252 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THÀNH THÔNG

HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI PHÁP Ở VIỆT NAM
TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP
TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC
(THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 1858)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60 22 54
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HỮU PHƢỚC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 3-2015


2

MẤY LỜI CẢM ƠN
Cơng trình khoa học này đối với học viên là thành quả nghiên cứu của bản thân trong một
thời gian dài, đồng thời cũng là kết quả của sự giúp đỡ, hỗ trợ hết sức to lớn từ quý Thầy
Cô; Anh Chị Em bạn bè, đồng nghiệp và Gia đình, thân hữu. Nhân thời điểm cơng trình
cịn nhiều hạn chế này - mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về tác giả - được hoàn thành,
học viên xin phép được có mấy lời cám ơn được gửi đến:
-

-

-



-

-

Tiến sĩ Lê Hữu Phước, Thầy hướng dẫn khoa học, đồng thời là người chỉ dạy,
động viên, giúp đỡ học viên khơng chỉ trong q trình thực hiện luận văn; Người
mà nếu khơng có sự quan tâm chỉ dạy tận tình và chu đáo của Thầy, học viên chắc
chắc sẽ không hồn thành được cơng trình này. Với tình cảm đặc biệt đó, học viên
xin kính gửi đến Thầy lời tri ân sâu sắc nhất!
Quý Thầy Cô ở Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn –
ĐHQG-HCM. Trong suốt quá trình học tập tại Khoa, học viên luôn cảm nhận được
từ quý Thầy Cô những tri thức bổ ích, q báu cùng với những tình cảm, sự quan
tâm giúp đỡ tận tình. Nhân dịp này, học viên xin kính gửi đến q Thầy Cơ lời tri
ân sâu sắc!
Quý Thầy Cô, Anh Chị đồng nghiệp tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn – ĐHQG-HCM, đặc biệt tại đơn vị Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa – nơi học viên
đang cơng tác. Sự động viên và giúp đỡ chân tình về nhiều mặt của quý Thầy Cô,
Anh Chị là nguồn động viên to lớn và hết sức trân quý đối với học viên. Xin cho
phép học viên được ghi nhận và cảm ơn nhưng tình cảm đặc biệt đó!
Q Thầy Cơ trong Hội đồng đánh giá luận văn. Các Thầy Cơ đã có nhiều chỉ
dạy, đóng góp nhiều ý kiến quý báu để học viên hồn thiện hơn cơng trình này. Xin
gửi lời cảm ơn chân thành của học viên đến quý vị.
Quý bạn bè, thân hữu và gia đình. Xin cám ơn mọi người đã luôn bên cạnh động
viên, chia sẽ, giúp đỡ học viên hoàn thành những mục tiêu, hoài bão, trong đó có
việc hồn thành cơng trình này.

Một lần nữa xin tri ân tất cả quý Thầy Cô, Anh Chị! Kính chúc quý vị sức khỏe và thành đạt!
Trân trọng.
Sài Gịn, tháng 4/2015

Dương Thành Thơng


3

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................................................ 7
2.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................................... 9
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................. 17
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU .................................................. 18
5. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 19
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN ....................................................................... 19
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN ............................................................................. 20

Chƣơng 1
HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG THẾ KỶ
XVII, XVIII
1.1. VIỆT NAM TRONG NHỮNG THẾ KỶ XVII, XVIII ..................................... 21
1.1.1. Tình hình chính trị ............................................................................................ 21
1.1.2. Tình hình kinh tế ............................................................................................... 24
1.1.3. Tình hình văn hóa – giáo dục – tƣ tƣởng .......................................................... 26
1.2. NƢỚC PHÁP TRONG NHỮNG THẾ KỶ XVII, XVIII ................................. 29
1.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế Pháp ................................................................... 29
1.2.2. Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Pháp ..................................................................... 32
1.3. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG
NHỮNG THẾ KỶ XVII, XVIII ................................................................................. 37
1.3.1. Hoạt động truyền bá đạo Thiên Chúa ............................................................... 37
1.3.1.1. Khái quát hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ phương

Tây ở Việt Nam dưới sự bảo trợ của Giáo hội Bồ Đào Nha trước
khi Hội Thừa sai Paris thành lập (1533-1663) ....................................................... 38
1.3.1.2. Sự thành lập Hội Thừa sai Paris (Hội Truyền giáo ngoại
quốc) và hoạt động của giáo sĩ người Pháp ở Việt Nam trong
những thế kỷ XVII, XVIII. ........................................................................................ 42


4

1.3.2. Hoạt động thƣơng mại ...................................................................................... 63
1.3.3. Ngƣời Pháp đến Đàng Trong giúp đỡ Nguyễn Ánh trong cuộc
chiến với Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII ......................................................................... 75

Chƣơng 2
HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG NỬA ĐẦU THẾ KỶ
XIX (1802-1858)
2.1. VIỆT NAM TRƢỚC LÀN SÓNG CỦA CHỦ NGHĨA THỰC DÂN
PHƢƠNG TÂY NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX ............................................................... 81
2.1.1. Triều Nguyễn thống nhất và xây dựng đất nƣớc .............................................. 81
2.1.2. Nƣớc Pháp sau cuộc cách mạng tƣ sản 1789.................................................... 85
2.2. NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM (1802-1858) .... 89
2.2.1. Hoạt động truyền bá đạo Thiên Chúa ............................................................... 89
2.2.1.1. Thời vua Gia Long (1802 – 1820) .............................................................. 89
2.2.1.2. Thời vua Minh Mạng (1820 – 1840) .......................................................... 93
2.2.1.3. Thời vua Thiệu Trị (1841-1847) và thập niên đầu thời vua
Tự Đức (1848-1858) .............................................................................................. 102
2.2.2. Hoạt động thƣơng mại và những nỗ lực thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa hai nhà nƣớc .............................................................................................. 115
2.2.3. Hoạt động gây hấn và can thiệp quân sự ........................................................ 124


Chƣơng 3
ĐỘNG CƠ VÀ TÁC ĐỘNG TỪ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở
VIỆT NAM TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH
XÂM LƢỢC
3.1. ĐỘNG CƠ TƠN GIÁO, CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ CỦA NGƢỜI PHÁP 131
3.1.1. Động cơ tơn giáo và chính trị ......................................................................... 131
1.3.2. Động cơ chính trị và kinh tế trong chiến lƣợc “cƣờng quốc
biển” của nƣớc Pháp ................................................................................................. 139
3.2. TÁC ĐỘNG TỪ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP ................... 143
3.2.1. Tác động chính trị ........................................................................................... 144


5

3.2.2. Tác động văn hoá - xã hội............................................................................... 154
3.2.3. Tác động kinh tế ............................................................................................. 161
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 166
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 175
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 191
Phụ lục 1: HUẤN THỊ NĂM 1659........................................................................... 191
Phụ lục 2: HIỆP ƢỚC LIÊN MINH TẤN CƠNG VÀ PHỊNG THỦ
PHÁP – NAM KÌ (28-11-1787) ............................................................................... 203
Phụ lục 3: “THẬP ĐIỀU GIÁO HUẤN” NGÀY 15-7-1834 CỦA
VUA MINH MẠNG ................................................................................................. 207
Phụ lục 4: NHỮNG BỨC THƢ CHỮ NÔM CỦA NGUYỄN ÁNH
DO GIÁO SĨ CADIÈRE SƢU TẬP ......................................................................... 208
Phụ lục 5: DANH SÁCH CÁC GIÁM MỤC NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT
NAM TỪ THẾ KỶ XVII ĐẾN NĂM 1858 ............................................................. 214
Phụ lục 6: MỘT SỐ HÌNH ẢNH CĨ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT
ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG THẾ

KỶ XVII-XIX ........................................................................................................... 217
Phụ lục 7: CHÂN DUNG MỘT SỐ GIÁM MỤC NGƢỜI PHÁP Ở
VIỆT NAM THẾ KỶ XVII-XIX ............................................................................. 249


6

BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CHỮ CÁI VIẾT TẮT

NGHĨA

MEP

Missions Étrangères de Paris (Hội Thừa sai
hải ngoại Paris)

CIO

La Compagnie Franỗaise des Indes
Orientales (Cụng ty ụng n Phỏp)

TCG

Thiờn Chỳa giỏo, đạo Thiên Chúa…


7


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Viết về cuộc đối đầu Việt – Pháp giữa thế kỷ XIX, Philippe Devillers - nhà sử
học ngƣời Pháp có nhiều cơng trình nghiên cứu về lịch sử Việt Nam - trong lời nói u
tỏc phm Franỗais et Annamites Partenaires ou Ennemis? (Ngi Pháp và người
Annam - Bạn hay Thù?) đã có một cái nhìn khá lý thú: “Người Pháp và người Việt đã
chiến đấu với nhau bằng những con người và vũ khí của mỗi bên, nhưng thật ra cuộc
chơi đã được dựng lên và được quyết định chỉ vài trăm, thậm chí chỉ vài chục cá nhân
thơi, một phía là những sĩ quan hải quân, những quan chức cai trị, những nhà truyền
giáo và phía đối diện là một số đại thần và ở giữa họ là những tên “phản quốc” và
những người thơng dịch…” [27: 12]. Trƣớc nay, khi nhìn lại lịch sử nƣớc Việt Nam
vào giữa thế kỷ XIX, ngƣời ta thƣờng đặt ra những câu hỏi: Việc nƣớc ta bị mất vào
tay thực dân Pháp là tất yếu hay khơng? Liệu dân tộc Việt Nam có khả năng tránh khỏi
một cuộc xâm chiếm thuộc địa từ tƣ bản phƣơng Tây nhƣ Thái Lan và Nhật Bản?
Trách nhiệm của vua quan triều Nguyễn nhƣ thế nào trong việc để đất nƣớc rơi vào tay
thực dân Pháp? v.v… Để trả lời cho những câu hỏi đó, ngƣời ta thƣờng căn cứ vào
những nhân tố mang tính “vĩ mơ” nhƣ: xu hƣớng của sự phát triển chủ nghĩa thực dân
và bành trƣớng thuộc địa; tƣơng quan lực lƣợng giữa các nƣớc phƣơng Đơng nói
chung, Việt Nam nói riêng so với các quốc gia phƣơng Tây; tiềm năng, nội lực, truyền
thống lịch sử, vai trò của các nhà nƣớc ở mỗi quốc gia trƣớc cuộc bành trƣớng thuộc
địa v.v… để lý giải, chứng minh cho quan điểm của mình. Tuy nhiên, nhận định của
tác giả Philippe Devillers vừa nêu trên đây gởi cho chúng ta một suy nghĩ rằng: phải
chăng chúng ta đã bỏ qua hay xem nhẹ vai trò của mỗi cá nhân, mỗi con ngƣời trong
cuộc đụng độ ấy? Liệu những suy nghĩ, hành động của từng cá nhân, hay một nhóm cá
nhân trong bối cảnh lịch sử nhƣ vậy có thể quyết định đến vận mệnh của cuộc chiến?
Mỗi cá nhân, với tƣ cách là một chủ thể trong cuộc đụng độ ấy do đâu mà hành động
nhƣ vậy, xuất phát từ động cơ, mục đích gì? Nếu cái “vĩ mô” của thời cuộc và nội lực
của cả một quốc gia dân tộc là yếu tố quyết định đến kết quả của chiến, thì vai trị của
mỗi cá nhân có tác động ra sao đến hiện thực lịch sử?... Những câu hỏi đó hẳn sẽ rất
khó trả lời nếu ngƣời ta không chú ý đúng mức đến những hoạt động cụ thể, hết sức

sinh động và vô cùng phức tạp của từng cá nhân, nhóm cá nhân trong mấy thế kỷ trƣớc
đó, kể từ khi ngƣời Pháp đặt chân đến Việt Nam với tƣ cách của ngƣời “khách” cho
đến khi họ trở thành những “ông chủ”.
Nƣớc Việt ta từ thế kỷ XVII trở đi, đặc biệt là thời kỳ triều Nguyễn, cũng nhƣ
nhiều nhà nƣớc phƣơng Đông khác, đứng trƣớc những thử thách cam go trong việc bảo


8

vệ chủ quyền của quốc gia dân tộc trƣớc sự xâm nhập, bành trƣớng của chủ nghĩa thực
dân phƣơng Tây. Làm thế nào để chống lại sự bành trƣớng đó đã từng là câu hỏi lớn
nhất đặt ra cho các quốc gia phƣơng Đông khi trở thành những “miếng mồi ngon”
trong con mắt của những kẻ thực dân xâm lƣợc. Mỗi quốc gia lại có những biện pháp,
chính sách, hành động đối phó khác nhau. Có nƣớc mở cửa, cải cách để phát triển,
canh tân đất nƣớc, nhƣng cũng có nƣớc đóng cửa, tuyệt giao với phƣơng Tây đã trở
thành quốc sách… Có quốc gia bảo vệ đƣợc độc lập chủ quyền và phát triển, nhƣng
cũng có quốc gia trở thành thuộc địa dƣới gót giày xâm lƣợc của chủ nghĩa thực dân.
Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, sự hiện diện đông đảo của những ngƣời
ngoại quốc đến từ phƣơng Tây là điều trƣớc nay chƣa có tiền lệ. Họ là những nhà
truyền giáo, những thƣơng nhân, sĩ quan hải quân hay đơn thuần là những ngƣời thích
chu du khám phá những vùng đất mới… đến nƣớc ta với nhiều động cơ, mục tiêu khác
nhau. Cùng với dấu chân của họ là một nền văn hóa mới, một tơn giáo mới, những
hàng hóa mới, cách thức làm ăn mới, những trang bị vũ khí mới… đƣợc mang đến
nƣớc ta thông qua những con ngƣời cụ thể. Tất cả, có tác động mạnh mẽ đến đời sống
văn hóa - chính trị - kinh tế - xã hội của đất nƣớc, dƣới những mức độ khác nhau.
Trong những cuộc tiếp xúc Đơng - Tây đó, tuy cịn hạn chế trong một vài lĩnh vực nhất
định, nhƣng cũng đã xuất hiện những dấu hiệu của sự tiếp thu lẫn bài trừ lẫn nhau do
những tƣơng đồng và khác biệt từ hai phía.
Mỗi nhà nƣớc, trong mỗi thời kỳ, xuất phát từ lợi ích của nhà cầm quyền và hồn
cảnh cụ thể của đất nƣớc, đã có những thái độ khác nhau đối với hoạt động của ngƣời

ngoại quốc trong lãnh thổ của mình. Thái độ đó có tác động quan trọng, chi phối nội
dung, cách thức và hiệu quả hoạt động của ngƣời nƣớc ngoài. Thế kỷ XVII, XVIII là
thời kỳ chứng kiến sự nở rộ trong hoạt động của ngƣời nƣớc ngoài ở nƣớc ta, về cả
thành phần (đến từ các nƣớc phƣơng Đông lẫn phƣơng Tây), số lƣợng đến phạm vi
hoạt động (truyền giáo, ngoại thƣơng, du hành, thám hiểm…). Dƣới triều Nguyễn,
những hoạt động này có phần giảm sút nhƣng vẫn có tác động to lớn đến tình hình
chính trị - xã hội của đất nƣớc.
Ngƣời Pháp đặt chân đến nƣớc ta muộn hơn nhiều ngƣời châu Âu khác (giữa thế
kỷ XVII), nhƣng cũng chính vì vậy mà họ tỏ ra là những cá nhân tích cực nhất trong
các hoạt động của mình, chủ yếu là truyền giáo và thƣơng mại. Từ sau khi Hội Thừa
sai Paris và Công ty Đông Ấn Pháp ra đời (1663, 1664), những hoạt động của ngƣời
Pháp ở nƣớc ta đã thực sự đƣợc đẩy mạnh. Họ dần đóng vai trị là lực lƣợng chủ đạo
trong số những ngƣời châu Âu ở Việt Nam. Trong hơn một thế kỷ hoạt động, cho đến
cuối thế kỷ XVIII, ngƣời Pháp đã thiết lập đƣợc những dấu ấn quan trọng trong xã hội
cũng nhƣ những cơ sở tiền đề cho mối quan hệ Việt - Pháp trong nỗ lực tìm kiếm một
chỗ đứng, chí ít là một quốc gia đồng minh ở châu Á trong cuộc tranh giành quyền lợi
với các quốc gia phƣơng Tây khác tại khu vực này. Để có đƣợc những kết quả đó, cần


9

phải ghi nhấn những nỗ lực không biết mệt mỏi và sự tinh tƣờng, khôn khéo của mỗi
cá nhân ngƣời Pháp ở Việt Nam trong giai đoạn này, khi vai trò của nhà nƣớc Pháp là
chƣa rõ nét.
Bƣớc sang thế kỷ XIX, hoạt động của ngƣời Pháp ở nƣớc ta đƣợc đẩy mạnh với
sự năng nỗ của các giáo sĩ, những thƣơng nhân, các nhà vận động ngoại giao và cả
những sĩ quan hải qn. Tình hình đó một mặt thúc đẩy những mối quan hệ giữa hai
nƣớc, nhƣng mặt khác cũng gây nên những mối quan ngại sâu sắc từ phía triều đình
Huế cũng nhƣ những xáo trộn, chia rẽ trong nội bộ xã hội Việt Nam. Nƣớc Pháp trong
cơn khát thuộc địa từ sau sự bùng nổ của cách mạng công nghiệp trong nƣớc, càng đẩy

nhanh hơn các mối liên hệ với nƣớc ta và rõ ràng không thể khơng chú ý đến vai trị
của những ngƣời Pháp đang hiện diện tại đây.
Ngày nay, đất nƣớc đã thống nhất, giang sơn quy về một mối, nhƣng những vết
thƣơng từ sự chia rẽ ấy đâu đó vẫn cịn thấm thía và trỗi dậy. Những nỗ lực hàn gắn đã
phần nào đƣợc thực hiện, nhƣng có lẽ vẫn chƣa đủ; đâu đó vẫn tồn tại những mối nghi
kỵ, hiềm khích, những cách nhìn hẹp hịi, biệt phái, kỳ thị...; trở thành những trở lực
lớn trong bƣớc đƣờng phát triển của đất nƣớc. Do đó, thiết nghĩ, nhìn lại lịch sử đã qua
của dân tộc bằng sự cơng tâm và bình tĩnh, bằng con mắt chia sẽ và cảm hóa, bằng tinh
thần xây dựng và vun đắp tinh thần đoàn kết - khơng chỉ trong nội bộ dân tộc, mà cịn
ở phạm vi nhân loại tiến bộ - là việc làm cần thiết để nƣớc Việt ta có những bƣớc tiến
xa hơn, mạnh hơn, vững hơn trong tƣơng lai gần.
Sẽ là khập khiễng và khơng thoả đáng nếu so sánh hồn cảnh đất nƣớc ta vào giai
đoạn thế kỷ XVII-XIX với thời đại ngày nay; tuy nhiên sẽ là có cơ sở nếu xem xét hai
khung thời gian ấy trong phạm vi của các vấn đề nhƣ: vai trò và cách ứng phó của nhà
nƣớc đối với sự xâm nhập của các yếu tố nƣớc ngoài; vấn đề giải quyết mối quan hệ
giữa bản chất nhà nƣớc (giai cấp) với những vấn đề của quốc gia dân tộc; vấn đề giải
quyết mâu thuẫn giữa “tự lực tự cƣờng” với xu hƣớng “hội nhập quốc tế” ngày càng
sâu rộng; vấn đề huy động nội lực của đất nƣớc và tranh thủ thời cơ, thuận lợi quốc tế
trong phát triển đất nƣớc; các vấn đề tơn giáo v.v…; thì chúng ta lại bắt gặp những
điểm tƣơng đồng đáng quan tâm của cả hai thời kì. Do đó, thiết nghĩ “ơn cố tri tân”,
học xƣa để làm nay là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.
Vì những lí do và vấn đề đặt ra nhƣ trên, Học viên đã chọn đề tài “Hoạt động
của ngƣời Pháp ở Việt Nam trƣớc khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm
lƣợc (thế kỷ XVII đến năm 1858)” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam trong giai đoạn từ giữa thế kỷ XVII đến
giữa thế kỷ XIX đã có nhiều cơng trình ghi chép, nghiên cứu, sách và bài viết đề cập
đến dƣới nhiều góc độ và phạm vi nhất định.



10

Trƣớc hết là những cơng trình, ghi chép đƣơng thời. Ngay từ thời Lê và đặc
biệt dƣới triều Nguyễn, các cơng trình quốc sử đã ghi lại những mối liên hệ của ngƣời
phƣơng Tây - trong đó có ngƣời Pháp - có thể kể tới các bộ: Đại Việt sử ký toàn thư, Lê
triều hội điển, Bản kỷ tục biên… của Sử thần triều Lê; Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt
truyện, Quốc triều chính biến tốt yếu, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, Khâm định tiễu bình lưỡng kỳ nghịch phỉ chính
biên, Quốc triều sử tốt yếu, Minh Mạng chính yếu… của Quốc sử quán triều Nguyễn.
Bên cạnh đó, các tƣ liệu, tài liệu đƣơng thời xuất hiện ngày một nhiều hơn ở những thế
kỷ tiếp theo qua ghi chép của các sử gia, học giả, nhóm tác giả nhƣ Lê Quý Đôn (Phủ
biên tạp lục, Đại Việt thông sử), Nguyễn Khoa Chiêm (Nam triều cơng nghiệp diễn
chí), Ngơ Cao Lãng (Hậu Lê lịch triều tạp kỷ), Ngô gia văn phái (Hồng Lê nhất thống
chí), Phan Huy Chú (Lịch triều hiến chương loại chí), Phan Thúc Trực (Quốc sử di
biên), Đặng Xuân Bảng (Việt sử Cương mục tiết yếu, Việt sử chính biên tiết yếu); Trần
Trọng Kim (Việt Nam sử lược)... trở thành các bộ “tƣ sử” có giá trị. Nhìn chung, đó là
những cơng trình lịch sử đồ sộ, cung cấp nhiều nguồn tƣ liệu quý cho nghiên cứu lịch
sử thời kì này. Tuy nhiên, các cơng trình này mang tính chất biên niên, ghi chép sự
kiện là chính, ít phân tích, đánh giá, bình luận, và khơng đề cập riêng lẻ hoạt động của
ngƣời phƣơng Tây ở nƣớc ta giai đoạn này. Bên cạnh đó, các tác phẩm này cũng chƣa
cung cấp một cách đầy đủ các hoạt động của ngƣời Pháp của khi phần lớn chỉ đề cập
đến các hoạt động có liên quan đến triều đình vốn rất hạn chế do nhiều nguyên nhân.
Bên cạnh đó, một mảng tài liệu có giá trị đặc biệt, có ý nghĩa nhƣ là những cơng
trình nghiên cứu đƣơng đại là những tập du ký, hồi ký... của thƣơng nhân, giáo sĩ...
phƣơng Tây đã có thời từng sống và hoạt động ở Việt Nam nhƣ Cristophoro Borri,
Alexandre de Rhodes, Jean Baptiste Tavernier, Samuel Baron, Luis Gaspar, Wiliiam
Dampier, John Barrow, John White, Je Roma Richard... Nhiều tập du ký, hồi ký này
đã đƣợc dịch sang tiếng Việt, đã mô tả khá chi tiết về mọi mặt đời sống của cƣ dân Đại
Việt thế kỷ XVI-XVIII. Từ cái nhìn của ngƣời ngoại quốc, những tác phẩm này cho
thấy những góc nhìn sinh động, khách quan, chân thực, hiếu kỳ trong nhận thức về một

xứ sở phƣơng Đơng dƣới lăng kính của ngƣời Tây phƣơng.
Thời kỳ này, cịn có nhiều báo cáo dƣới hình thức thƣ từ qua lại giữa các giáo sĩ.
Số thƣ từ này hiện còn đang đƣợc lƣu giữ tại Hội Thừa sai Paris ở Pháp. Số thƣ từ này
là nguồn tƣ liệu quan trọng đƣợc khai thác sử dụng trong các cơng trình nghiên cứu
lịch sử truyền bá TCG của nhiều nhà nghiên cứu. Việc khai thác mảng tài liệu quan
trọng này ở Việt Nam còn hạn chế do khơng có điều kiện tiếp cận với tài liệu gốc.
Trong đó có thể kể đến hai tập tƣ liệu gốc rất quý và khó tiếp cận là bộ Lettres
édifiantes et curieuses (Những bức thư khuyến thiện và kỳ thú) và Annales de la
propagation de la foi (Biên niên công cuộc truyền bá niềm tin). Tập tƣ liệu thứ nhất là
tập hợp các bức thƣ đƣợc gửi về châu Âu của các Giáo sĩ Dòng Tên ở Trung Quốc, xứ


11

Đông Ấn, châu Mỹ... trong thời gian từ 1702 - 1776. Trong các tập đó có tập 4 liên
quan đến châu Á đƣợc xuất bản ở Paris năm 1821, cung cấp rất nhiều thơng tin hữu
ích về tình hình tơn giáo ở đây. Tập tƣ liệu thứ hai xuất bản ở Pháp năm 1825, là báo
cáo thƣờng niên gửi về Pháp cho biết tình hình và sứ mệnh truyền giáo ở những nơi đó.
Ở Việt Nam, gần đây, trên cơ sở cuốn Lettres édifiantes des missions de la Chine et des
Indes Orientales, dịch giả Nguyễn Minh Hoàng đã chuyển thể thành sách Thư của các
Giáo sĩ Thừa sai (Trung tâm nghiên cứu quốc học, Nhà xuất bản Văn học, 2013). Là
một cơng trình dịch và chƣa đầy đủ (chỉ trong khoảng 20 năm của thế kỷ XVIII: 17661786), tuy nhiên cơng trình này đã góp phần bổ khuyết một mảng tƣ liệu quan trọng để
nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử truyền TCG nói riêng trong thế kỷ
XVIII.
Đối với các cơng trình nghiên cứu liên quan đến những hoạt động của ngƣời
Pháp ở Việt Nam, số lƣợng là khá lớn, đặc biệt là về lĩnh vực truyền giáo.
Trước hết là những cơng trình nghiên cứu biên khảo mang tính khái qt
chung, có ít nhiều đề cập đến các cuộc tiếp xúc Việt – Pháp thời kỳ tiền thực dân. Có
thể kể tới các tác phẩm nhƣ: Việt Pháp bang giao lược sử (từ thế kỷ XVII tới đầu thế kỷ
XX) (1950), Việt Nam Pháp thuộc sử (1961), Việt sử xứ Đàng Trong (Cuộc Nam tiến

của dân tộc Việt Nam) (1970) của Phan Khoang; Sơ thảo lược sử Việt Nam của Minh
Tranh (1955); Việt Nam ngoại giao sử của Ƣng Trình (1953); Chống xâm lăng của
Trần Văn Giàu (1956, 1957); Việt sử tân biên của Phạm Văn Sơn (1956-1972); Lịch sử
Việt Nam sơ giảng của Văn Tân (1963); Lịch sử Việt Nam (2 tập) của Đào Duy Anh
(1958); Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam của tập thể tác giả Phan Huy Lê - Chu
Thiên - Vƣơng Hoàng Tuyên (1965); Kinh tế xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn của Nguyễn Thế Anh (1971); Lịch sử Việt Nam (1428-1858) của các tác giả
Nguyễn Phan Quang - Trƣơng Hữu Quýnh - Nguyễn Cảnh Minh (1980); Lịch sử Việt
Nam tập II do Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam biên soạn (1985); Lịch sử Việt Nam
của nhóm tác giả Phan Huy Lê - Trần Quốc Vƣợng - Hà Văn Tấn (1991); Triều
Nguyễn: Những vấn đề về lịch sử, tư tưởng và văn hoá của Nguyễn Minh Tƣờng Nguyễn Thị Đảm - Ngô Thời Đôn (1992); Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến nay của
Nguyễn Đình Lễ (1998); Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 2) của Đinh Xuân Lâm chủ
biên (1998); Ngoại giao Đại Việt của Lƣu Văn Lợi (2000); Lịch sử Việt Nam từ nguồn
gốc đến 1884 của Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn (2000); Lịch sử Việt Nam giản
yếu của Lƣơng Ninh (2000); Tiến trình lịch sử Việt Nam của Nguyễn Quang Ngọc (chủ
biên, 2002); Lược sử ngoại giao Việt Nam các thời trước của Nguyễn Lƣơng Bích
(2003); Bang giao Đại việt (Tập 5: Triều Nguyễn) của Nguyễn Thế Long (2005); Việt
Nam thế kỷ XIX của Nguyễn Phan Quang (2005); Ngoại giao giữa Việt Nam và các
nước phương Tây dưới triều Nguyễn của Trần Nam Tiến (2006)… Nhìn chung đây là
những cơng trình mang tính biên khảo, giáo khoa hoặc những chuyên khảo về tình hình


12

chính trị - xã hội, văn hóa, kinh tế hay ngoại giao của nƣớc ta trong giai đoạn thế kỷ
XVII-XIX, chƣa nghiên cứu những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam dƣới vai trò
là chủ thể nghiên cứu độc lập.
Các vấn đề có liên quan đến những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam trong
nửa đầu thế kỷ XIX đã đƣợc giới nghiên cứu trong và ngoài nƣớc đề cập tới trong các
hội thảo khoa học về triều Nguyễn. Có thể kể tới các đợt hội thảo vào các năm 1993,

1994, 1995, và gần đây nhất là vào tháng 10/2008. Qua đó đã có nhiều bài viết đƣợc
cơng bố trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6-1993 về “Nhà Nguyễn trong lịch sử nửa
đầu thế kỷ XIX”. Trong các năm 1994, 1995, ở Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra các
cuộc hội thảo về triều Nguyễn và cho ra đời hai cơng trình tổng kết: Một số vấn đề về
nhà Nguyễn (1994) và Những vấn đề văn hoá – xã hội thời Nguyễn (1995). Năm 2008,
Kỷ yếu hội thảo khoa học do Uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá – Hội khoa học lịch sử
Việt Nam tổ chức đƣợc công bố: Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử
dân tộc (NXB Thế giới, Hà Nội, 2008). Trải qua các kỳ hội thảo, nhìn chung, các học
giả về cơ bản đã thống nhất ý kiến trong nhiều vấn đề quan trọng của nhà Nguyễn. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ của các tham luận, các tác giả chƣa thể khái quát hết những
hoạt động của ngƣời Pháp, cũng nhƣ những hệ quả tác động trong đời sống xã hội Việt
Nam trong thời kì này.
Đối với các cơng trình nghiên cứu bằng tiếng nƣớc ngoài (chủ yếu là tiếng Pháp)
mang tính “thơng sử”, có thể kể đến các cơng trình của Charles Maybon (Histoire
moderne du pays d'Annam (1592-1820), 1919), Jean Chesneaux (Contribution à
l’histoire de la nation Vietnamienne, 1955), Lê Thành Khôi (Le Vietnam - Histoire et
Civilisations, 1955); Histoire du Vietnam des origines à 1858, 1981), Nguyễn Phúc
Tấn (A Modern History of Vietnam (1802 - 1954), 1964), J.Buttinger (The smaller
Dragon, A political of Vietnam, 1966; Vietnam-A Dragon embattled (2 tập), 1967),
Philippe Devillers (Franỗais et AnnamitesPartenaires ou Ennemis?, 1998), Jean Le
Pichon (France-Indochine, Au coeur d'une rencontre1620-1820, 2005), Nguyễn Thế
Anh (Parcours d'un historien du Việt Nam, 2008)…), Jean-Pierre Pecqueur (Indochine
- France, conquête et rupture 1620-1954, 2009)… Nhìn chung, số lƣợng các cơng trình
nghiên cứu về lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVII-XIX bằng tiếng nƣớc ngoài là
khá lớn. Đây đều là những cơng trình đồ sộ với nguồn tƣ liệu phong phú và nhiều lý
giải, phân tích rất đáng quan tâm. Trong hầu hết các cơng trình này, những cuộc tiếp
xúc và xâm nhập của phƣơng Tây nói chung, ngƣời Pháp và nƣớc Pháp nói riêng, cùng
với đó là những tác động, ảnh hƣởng và hệ quả của nó, đã đƣợc các tác giả phân tích,
lý giải dƣới nhiều góc độ. Tuy vậy, do xuất phát từ nhiều góc nhìn, quan điểm khác
nhau, nên các tác giả vẫn chƣa đi đến thống nhất, đồng thuận trong nhiều vấn đề, nhƣ

về vai trò, tác động của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với lịch sử Việt Nam, về vấn đề
“đạo Thiên Chúa” trong cuộc xâm lƣợc của thực dân Pháp v.v…


13

Về hoạt động của các giáo sĩ Thiên Chúa giáo và các vấn đề liên quan đến vai
trò của Thiên Chúa giáo trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa Việt Nam ở
những thế kỷ XVII-XIX cũng có nhiều cơng trình đề cập tới. Những cơng trình bằng
tiếng Việt về lịch sử truyền giáo ở nƣớc ta có thể kể tới:
- Tháng 8-1942, Đại Việt Thiện Bản (Huế) đã có kế hoạch viết một bộ Lịch sử
TCG ở Việt Nam dày 2.000 trang, nhƣng sau đó chỉ mới phát hành đƣợc tập I;
- Năm 1958, ở Sài Gòn, Linh mục Phan Phát Huồn cho xuất bản cuốn Việt Nam
giáo sử gồm 2 tập, tập I từ năm 1533 đến năm 1933; tập II từ năm 1933 đến năm 1960.
Đây có thể đƣợc xem là bộ sách về lịch sử TCG ở Việt Nam đầu tiên;
- Năm 1972, Linh mục Bùi Đức Sinh, trong bộ Lịch sử Giáo hội Công giáo đã
dành một chƣơng để trình bày về “Cơng cuộc truyền giáo tại Việt Nam”. Trên cơ sở
đó, năm 1998, Linh mục Bùi Đức Sinh đã hoàn thành bộ Giáo hội Công giáo Việt Nam
gồm hai tập;
- Năm 1959 cũng xuất bản tại Sài Gòn, cuốn Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam của
Linh mục Nguyễn Hồng, đã xử lý đƣợc nhiều sử liệu, nhƣng chỉ dừng lại ở cuối thời kỳ
Dịng Tên. Gần đây, cơng trình này đã đƣợc in lại, gồm 2 tập (do Nhà Xuất bản Từ
điển Bách Khoa ấn hành năm 2009);
- Một cơng trình quan trọng khác là của Giáo sƣ Nguyễn Văn Kiệm mang tên Sự
du nhập của đạo Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX (Nhà
xuất bản Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 2001). Cơng trình này là một tập sách khá cơng
phu, trình bày khái lƣợt về quá trình truyền bá TCG vào nƣớc ta từ thế kỷ XVII đến thế
kỷ XIX. Cơng trình này cũng đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan nhƣ mối quan hệ
giữa việc truyền giáo với công cuộc thực dân của Pháp; những đóng góp, tác động của
TCG đối với đời sống văn hóa, tín ngƣỡng ở Việt Nam;

- Năm 2002, tác giả Cao Thế Dung cho ra đời bộ sách Việt Nam Công giáo sử tân
biên (1553-2000) gồm 3 quyển. Quyển 1: Thời khai nguyên và truyền giáo. Quyển 2:
Thời phát triển và bách đạo. Quyển 3: Phục hưng phát triển, sát đạo và thân Pháp. Bộ
sách của tác giả Cao Thế Dung là một cơng trình khá cơng phu, trình bày lịch sử truyền
bá TCG vào nƣớc ta trong khoảng thời gian dài (hơn 4 thế kỷ), trên cơ sở tổng hợp
nhiều nguồn tƣ liệu trong và ngoài nƣớc với nhiều quan điểm, nhận định mới mẻ, đáng
chú ý;
- Từ năm 1988, Tuần báo Công giáo và Dân tộc đã có dự án biên soạn một bộ
“Lịch sử Công giáo Việt Nam” gồm 2 phần (Phần I về sự phát triển của Công giáo ở
Việt Nam; phần II về vị trí của Cơng giáo Việt Nam giữa lịng dân tộc). Hiện nay, mới
chỉ có phần I đƣợc khởi công do Linh mục Trƣơng Bá Cần biên soạn với sự góp phần
của các ơng Vƣơng Đình Chữ, Nguyễn Thanh Long, Nguyễn Nghị và Chƣơng Thâu.
Bộ sách này dự kiến đƣợc xuất bản thành ba tập, khái quát một bức tranh toàn cảnh của


14

Công giáo Việt Nam từ khởi thủy đến mùa thu 1945. Tuy nhiên đến nay mới chỉ hoàn
thành và cho xuất bản tập I và tập II (sách do Nhà xuất bản Tơn giáo phát hành năm
2008).
Bên cạnh đó, các vấn đề có liên quan đến TCG ở Việt Nam trong những thế kỷ
XVII-XIX cũng đƣợc đề cập đến trong nhiều cơng trình nghiên cứu khác của nhiều học
giả nhƣ Đỗ Quang Chính, Trần Tam Tỉnh, Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xun, Đỗ
Quang Hƣng, Trần Văn Tồn v.v…
Đối với mảng cơng trình nghiên cứu về lịch sử truyền giáo viết bằng tiếng nƣớc
ngồi, có thể nói số lƣợng cơng trình nghiên cứu là rất lớn với các tác giả nhƣ
A.Launay, G.Taboulet, Louvet, Võ Đức Hạnh, Jacquenet, A.Faure, De Lanessan,
C.Lange, J.Ramsay, Henri Chappoulie, Cao Huy Thuần, Trần Minh Triết... Trong số
đó, có thể điểm qua các cơng trình quan trọng sau đây:
- Đầu tiên phải kể đến bộ cơng trình của A.Launay về lịch sử của Hội Thừa sai

Paris, Thừa sai Pháp ở Tonkin và Cochinchine (Histoire Générale de la Sosiété des
Missions Étrangères (2 tập); Histoire de la Mission de Cochinchine (1658-1823) (3
tập); Histoire de la Mission du Tonkin...). Đây là những cơng trình có giá trị quan
trọng khi nghiên cứu về những liên hệ về tôn giáo Pháp - Việt Nam giai đoạn tiền thực
dân. Đây cũng là nguồn tƣ liệu quan trọng cho hầu hết các cơng trình nghiên cứu về
sau này của học giả trong và ngoài nƣớc.
- Tác phẩm La Cochinchine religieuse xuất bản tại Paris năm 1885 của Linh mục
Louvet (tập 1, 1550-1779, tập 2, 1800-1884) là một chun khảo cơng phu, trình bày
tình hình đời sống tơn giáo Đàng Trong cho tới năm 1884. Cơng trình đã cung cấp
nhiều quan điểm cá nhân nhƣng trên cơ sở nền tài liệu khoa học lƣu trữ đáng tin cậy.
- Cơng trình Aux origines d'une église. Roma et les missions d'Indochine au XVIIè
siècle của Henri Chappoulie lại khái quát quá trình chuyển từ chế độ Bảo trợ sang chế
độ Đại diện Tơng tịa của Tịa Thánh Roma, phân tích những nỗ lực của Hội đồng Giáo
sĩ Pháp, triều đình, Hội Thánh thể… trong việc vận động thành lập Hội Thừa sai Paris
nhằm thay chân ngƣời Bồ Đào Nha truyền giáo ở Viễn Đơng.
- Cơng trình của tác giả Alain Forest: Les missionnaires Franỗais au Tonkin et au
Siam (3 tp) là cơng trình nghiên cứu so sánh việc truyền giáo của các giáo sĩ Pháp ở
Việt Nam và Xiêm trong thế kỷ XVII-XVIII, lý giải nhiều nguyên nhân cơ bản tại sao
công cuộc truyền giáo ở Xiêm đã không thu đƣợc nhiều thành quả khả quan nhƣ ở Đại
Việt…
- Công trỡnh nghiờn cu ca G.Taboulet: La geste Franỗaise en Indochine (1955)
(tập 1) cũng là nguồn tƣ liệu có giá trị khi nghiên cứu những mối quan hệ Việt - Pháp
trong giai đoạn tiền thực dân.


15

- Cơng trình của Võ Ðức Hạnh: La place du catholicisme dans les relations entre
la France et le Viet Nam de 1851 à 1870, vốn là luận án tốt nghiệp của ông tại trƣờng
Đại học Strasbourg II, năm 1956, (E.J.Brill, Lille, 1969, 3 tập). Trên cơ sở các nguồn

tƣ liệu khai thác từ những trung tâm lƣu trữ tác giả đã phục dựng lại và đi đến lý giải vị
trí của Thiên Chúa giáo trƣớc, trong và sau cuộc chiến của thực dân Pháp ở Việt Nam,
đồng thời có nhiều phân tích nguyên nhân cấm đạo của nhà Nguyễn.
- Tác phẩm của Cao Huy Thuần, Christianisme et colonialiste au Vietnam, 1857 1914 vốn là luận án Tiến sĩ đƣợc ông bảo vệ tại Đại học Paris năm 1969, sau đƣợc in
li vi tờn Les missionnaires et la politique coloniale franỗaise au Vietnam, 18571914, đƣợc coi là “sách đầu tay của ai muốn tìm hiểu lịch sử mất chủ quyền của Việt
Nam thế kỷ XIX” (Lời giới thiệu của sách xuất bản bằng tiếng Việt, Nguyên Thuận
dịch, NXB Tôn giáo, Hà Nội, 2003). Cơng trình đã phân tích mối quan hệ giữa chính
sách thuộc địa của ngƣời Pháp ở Việt Nam (giai đoạn 1857-1914) với hoạt động của
các Giáo sĩ Thừa sai. Tác giả dành phần dẫn nhập và chƣơng 1 (phần 1) để phân tích
vai trị của TCG đối với cuộc xâm lƣợc của Pháp vào năm 1858.
Về hoạt động thƣơng mại của ngƣời Pháp ở Việt Nam trong những thế kỷ XVIIXIX, so với những nghiên cứu dày dặn về Thiên Chúa giáo trên đây, nghiên cứu về
mảng hoạt động này lại ít ỏi. Một số cơng trình nghiên cứu trong nƣớc có thể kể đến:
Ngoại thương Việt Nam hồi thế kỷ XVII, XVIII, đầu XIX (1961) của Thành Thế Vỹ,
Việt sử xứ Đàng Trong (1967) của Phan Khoang; Kinh tế thương nghiệp Việt Nam dưới
triều Nguyễn (1997) của Đỗ Bang v.v... Trong các tác phẩm này, các tác giả đã đề cập
đến tình hình ngoại thƣơng Việt Nam, hay mở rộng ra là những liên hệ chính trị, tơn
giáo... trong đó tập trung vào quan hệ với Pháp. Tuy vậy, những nghiên cứu này vẫn
chỉ mang tính chất giới thiệu, đặt trong tổng thể lịch sử quan hệ bang giao quốc tế của
Việt Nam, tuy có đề cập gần hơn các quan hệ Việt – Pháp. Một số tỏc gi nc ngoi
tiờu biu nh P.Haudrốre (La Compagnie Franỗaise des Indes au XVIIIe siècle (17191795), Paris, 1989, 4 tập), đã tập trung nghiên cứu về hoạt động buôn bán của Pháp
thông qua Công ty Đông Ấn Pháp trên phạm vi thế giới, tuy nhiên sự quan tâm đối với
hoạt động của Công ty Đông Ấn Pháp ở Việt Nam nói riêng và Viễn Đơng nói chung
lại chƣa đƣợc đề cập nhiều. Cơng trình Xứ Đàng Trong – lịch sử kinh tế xã hội thế kỷ
XVII-XVIII của tác giả Li Tana trình bày khá tồn diện về tình hình kinh tế xã hội Đàng
Trong thế kỷ XVII-XVIII nhƣng chƣa đề cập nhiều đến các hoạt động truyền giáo và
ngoại thƣơng ở vùng đất này. Trong khi đó, cơng trình nghiên cứu của C.Maybon
(Histoire moderne du pays d'Annam 1592-1820) - trên cơ sở khai thác nhiều nguồn tƣ
liệu - đã phần nào cho thấy tình hình hoạt động của Cơng ty Đơng Ấn Pháp ở Đại Việt.
Đặc biệt, cơng trình đƣợc coi là nền tảng cho việc nghiên cứu hoạt động thƣơng mại
Pháp ở Đơng Dƣơng trong thế kỷ XVII có thể kể đến Les relations politiques et



16

commerciales entre la France et la péninsule Indochinoise XVIIème siècle của Frédéric
Mantienne (2003), nghiên cứu quan hệ chính trị và thƣơng mại của Pháp thế kỷ XVII...
Gần đây, cơng trình Người Việt với biển (NXB Thế giới, Hà Nội, 2012) của tập
thể Nhóm nghiên cứu thương mại châu Á đã tập trung khai thác và lí giải mối quan hệ
giữa Việt Nam với thế giới bên ngoài qua thƣơng mại biển. Cơng trình có một số bài
viết đề cập đến hoạt động thƣơng mại của nƣớc ta với Công ty Đông Ấn Pháp trong
những thế kỷ XVII-XVIII… Trong năm 2013, một cơng trình của giáo sƣ Nguyễn
Thanh Nhã - Trƣờng Đại Học Paris I (Sorbonne-Panthéon) đã đƣợc dịch sang tiếng
Việt với tên Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII (Nguyễn Nghị dịch, Nhà
xuất bản Tri thức). Đây vốn là luận án tiến sĩ quốc gia, bảo vệ tại Đại học Sorbonne,
xuất bản năm 1970 tại Paris (NXB Cujas). Trong cơng trình này, tác giả xem thế kỷ
XVII, XVIII là thời kỳ nhộn nhạo, đẫm máu và rối ren nhất của lịch sử Việt Nam; đất
nƣớc đƣợc mở rộng về mặt diện tích, đối diện với chính những đòi hỏi phải “điều
chỉnh”, bất ngờ mở ra trƣớc một đời sống quốc tế bị chủ nghĩa bành trƣớng châu Âu
chế ngự, phải trải qua một cuộc phân tranh đau đớn trƣớc khi thấy lại sự thống nhất
đƣợc củng cố.
Nhìn chung, tình hình nghiên cứu hoạt động ngoại thƣơng - ngoại giao của nƣớc
ta trong những thế kỷ này tuy đã đạt đƣợc một số thành tựu rất đáng kể nhƣng đến nay
vẫn còn nhiều mảng trống trong nghiên cứu.
Cùng với hai mảng vấn đề lớn là hoạt động truyền bá TCG và thƣơng mại, một số
vấn đề khác có liên quan đến hoạt động của ngƣời Pháp ở nƣớc ta trong những thế kỷ
XVII-XIX cũng đã đƣợc nghiên cứu, đáng giá, nhìn nhận dƣới nhiều góc nhìn khác
nhau. Có thể kể tới các cơng trình nhƣ Tây Dương Giatơ bí lục của các tác giả Phạm
Ngộ Hiên, Nguyễn Hịa Đƣờng, Nguyễn Bá Am, Trần Trình Hiên (1981); Cuộc khởi
binh Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833 – 1835) của Nguyễn Phan Quang (1991); Việt
Nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh (1992); Vài suy nghĩ về vấn đề tôn giáo ở

miền Nam thời cận đại của Đỗ Quang Hƣng (2001); Góp phần tìm hiểu một số vấn đề
lịch sử cận đại Việt Nam của Nguyễn Văn Kiệm (2003); Sự tiếp xúc văn hoá Việt Nam
với Pháp của Phan Ngọc (2006); Thiên Chúa giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh của các
tác giả Nguyễn Nghị, Khổng Thành Ngọc, Hoàng Minh Thức, Cao Tự Thanh (2007)…
Ngoài ra, các vấn đề về hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam cũng đã đƣợc đề cập
đến trong nhiều luận án Tiến sĩ trong thời gian gần đây. Tiêu biểu là công trình của
Cao Huy Thuần, Christianisme et Colonialisme au Vietnam, 1857 – 1914; Nước Đại
Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa đƣợc trích từ luận án tiến sĩ đệ tam cấp bảo vệ
năm 1987 tại Đại học Pariscủa Yoshiharu Tsuboi (Giáo sƣ Lịch sử chính trị và xã hội
Đơng Nam Á, Đại học Waseda, Tokyo); hay luận văn thạc sĩ Triết học Công giáo Việt
nam thời kỳ triều Nguyễn (1802-1883) của tác giả Nguyễn Quang Hƣng bảo vệ tại đại
học Passau (xuất bản ở Đức năm 1998 và ở Việt Nam năm 2009)… Ở Trong nƣớc, có


17

thể kể đến luận án tiến sĩ của Đinh Thị Dung (Quan hệ ngoại giao của triều Nguyễn
nửa đầu thế kỷ 19, bảo vệ năm 2001 tại trƣờng Đại học Sƣ phạm Thành phố Hồ Chí
Minh); Nguyễn Mạnh Dũng (Quá trình xâm nhập của Pháp vào Việt Nam từ cuối thế
kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX: nguyên nhân và hệ quả, bảo vệ năm 2011 tại trƣờng Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội), Nguyễn Ngọc Quỳnh
(Chính sách tơn giáo thời Tự Đức (1848-1883), bảo vệ năm 2011 tại trƣờng Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội)…
Một nguồn tƣ liệu khác có giá trị tham khảo ngồi các cơng trình sách trên đây là
báo chí... Về mảng tiếng Pháp, báo chí viết về thời kỳ tiền thực dân chƣa có nhiều cơng
trình nghiên cứu. Tuy nhiên nguồn tƣ liệu từ B.A.V.H (tạp chí Bulletin des Amis du
Vieux Huế) là nguồn tƣ liệu rất phong phú (từ thƣ viện Quốc gia Pháp, thƣ viện Hội
Thừa sai Paris, Kho lƣu trữ tòa thánh Roma...), đa dạng (từ chữ Hán, Nôm, Ấn - Âu,
La tinh, Ý, Tây Ban Nha...) và có giá trị về nhiều mặt. Bên cạnh đó, các tạp chí
B.E.F.E.O (tạp chí Bulletin de l'ẫcole franỗaise d'Extrờme-Orient ca Vin Vin ụng

Bỏc c), B.S.E.I (Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises)... cũng có nhiều bài
viết đáng chú ý tuy số lƣợng không nhiều. Trong khi đó, các bài khảo cứu bằng tiếng
Việt phần nhiều đƣợc cơng bố trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu quốc tế,
Nghiên cứu tôn giáo, Tuần báo Công giáo và dân tộc, Nghiên cứu Huế… với số lƣợng
khá lớn nhƣng chủ yếu dƣới góc nhìn hẹp.
Nhìn chung, các cơng trình và bài viết trên đã đề cập đến hoạt động của ngƣời
pháp trong khoảng hơn 200 năm ngƣời Pháp có mặt ở Việt Nam cho đến khi thực dân
Pháp tiến hành chiến tranh xâm lƣợc ở nhiều khía cạnh, mức độ khác nhau. Tuy nhiên,
hầu nhƣ chƣa có chuyên khảo nào nghiên cứu về những hoạt động của ngƣời Pháp ở
Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XIX cùng với những hệ
quả tác động của chúng đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa Việt Nam nhƣ là
một q trình xun suốt, có chủ đích và đặt trong bối cảnh đan xen một cách phức tạp
của nhiều vấn đề cùng tồn tại, để đi đến kết quả là cuộc viễn chinh xâm lƣợc của thực
dân pháp vào nƣớc ta nửa sau thế kỷ XIX. Những cơng trình này là những nguồn tƣ
liệu quan trọng và cần thiết, đã đƣợc chúng tơi tham khảo, khai thác, sử dụng trong q
trình thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định, chủ yếu là điều kiện
tiếp cận tƣ liệu lƣu trữ ở nƣớc ngoài và năng lực ngoại ngữ, nên chúng tôi đã không thể
tham khảo trực tiếp, đầy đủ một số tƣ liệu, cơng trình nghiên cứu quan trọng.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Luận văn nghiên cứu những hoạt động của những cá nhân, tổ chức mang quốc
tịch Pháp (sau đây gọi chung là ngƣời Pháp) trên cƣơng vực lãnh thổ nƣớc ta trong
khoảng thời gian từ thế kỷ XVII cho đến năm 1858, trƣớc khi thực dân Pháp nổ súng
tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lƣợc. Những hoạt động của ngƣời Pháp trải
rộng trên khá nhiều lĩnh vực. Trong đó, luận văn tập trung vào một số hoạt động nhƣ


18

truyền giáo (Thiên Chúa giáo1), ngoại giao, thƣơng mại và qn sự. Ngồi ra, luận văn
cịn tìm hiểu trong chừng mực nhất định một số hoạt động mang tính thăm dò, thám

hiểm, nghiên cứu, khảo sát của một số nhà khoa học, nhà hàng hải ngƣời Pháp, chủ yếu
là trong các thế kỷ XVII-XVIII.
Nhƣ vậy, phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
- Về phạm vi thời gian: luận văn nghiên cứu giai đoạn lịch sử từ thế kỷ XVII đến
năm 1858. Khoảng thời gian này trải dài trong khoảng hơn 2 thế kỷ, chứng khiến nhiều
hoạt động của ngƣời Pháp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kì thể hiện
rõ dấu ấn, tác động của ngƣời Pháp đối với tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội
của nƣớc ta; đồng thời cũng là thời gian xâm nhập và chuẩn bị cho một cuộc can thiệp
bằng quân sự của chủ nghĩa thực dân Pháp vào Việt Nam vào năm 1858.
- Về phạm vi không gian: luận văn nghiên cứu những hoạt động của ngƣời Pháp
trong không gian tƣơng ứng với cƣơng vực lãnh thổ nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam ngày nay. Suốt hơn hai thế kỷ, tên gọi của lãnh thổ đất nƣớc có sự thay đổi,
phân chia (Đại Việt, Đàng Trong, Đàng Ngoài, Đại Nam, Việt Nam), do đó trong luận
văn này, tác giả sử dụng các tên gọi tƣơng ứng với từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Tuy
nhiên, xuyên suốt phạm vi thời gian của luận văn, tác giả dùng tên gọi Việt Nam để chỉ
chung cho phạm vi khơng gian của cơng trình này.
4. MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Tác giả luận văn xác định cần tập trung thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Phác dựng lại một cách có hệ thống và tƣơng đối đầy đủ những hoạt động của
ngƣời Pháp trên lãnh thổ nƣớc ta từ thế kỷ XVII đến năm 1858.
- Lý giải động cơ, mục tiêu và mối quan hệ giữa các hoạt động này với sự phát
triển của chủ nghĩa tƣ bản Pháp và cuộc chiến tranh xâm lƣợc thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân Pháp vào giữa thế kỷ XIX.
- Đánh giá các chính sách và vai trị của các chủ thể chính quyền nhà nƣớc (vua
Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, triều đại Tây Sơn và
vƣơng triều Nguyễn) đối với các hoạt động của ngƣời phƣơng Tây nói chung, ngƣời
Pháp nói riêng trong giai đoạn lịch sử này.
- Đánh giá tác động, hệ quả của các hoạt động của ngƣời Pháp đối với tình hình
chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội của nƣớc ta trong giai đoạn này.


1

Trong cơng trình này, chúng tơi thống nhất sử dụng danh từ “Thiên Chúa giáo” hay “đạo Thiên Chúa” để
thay cho các tên gọi khác nhau của tôn giáo “Catholica” trong những giai đoạn lịch sử hoặc trong các tài liệu,
cơng trình, sách báo (đạo Đức Chúa Trời, đạo Gia tô, đạo Hoa Lang, đạo Kitô, Công giáo…).


19

5. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa Mác – Lênin với
hai bộ phận chính là phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nghiên cứu đề tài
này từ góc độ sử học, tác giả luận văn đã vận dụng chủ yếu hai phƣơng pháp nghiên
cứu cơ bản của khoa học lịch sử, đó là phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic:
- Phương pháp lịch sử nghiên cứu và trình bày các hoạt động của ngƣời Pháp trên
lãnh thổ Việt Nam qua các thời kỳ và giai đoạn cụ thể, gắn với bối cảnh tình hình của
mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn; làm rõ các sự kiện và vấn đề lịch sử một cách tơn trọng sự
thật, chính xác trên cơ sở so sánh, xác minh, đối chiếu tƣ liệu; nhìn nhận sự kiện trong
mối liên hệ sâu chuỗi, theo diễn trình lịch sử.
- Kết hợp phương pháp logic với phương pháp lịch sử, luận văn lý giải, đánh giá
và đúc kết làm rõ những động cơ, mục đích, mối quan hệ cũng nhƣ những tác động hệ
quả của những hoạt động đó trong mối quan hệ toàn diện, khách quan và biện chứng.
Bên cạnh đó, tác giả luận văn cũng chú trọng sử dụng phƣơng pháp liên ngành
(còn gọi là phƣơng pháp sử học đa khoa học), sử dụng một số kết quả và thao tác
nghiên cứu của một số ngành khoa học khác (nhƣ khoa học chính trị, tơn giáo học, luật
học, kinh tế học, xã hội học…) để làm rõ một số nội dung hoạt động của của ngƣời
Pháp trên các lĩnh vực: chính trị, tơn giáo, kinh tế, văn hóa - xã hội…
Về hướng tiếp cận tài liệu thực hiện đề tài:
- Tiếp cận theo nội dung tài liệu (đối tƣợng, thời gian, không gian).

- Nhân thân tác giả tài liệu.
- So sánh, đối chiếu tài liệu.
- Đánh giá tài liệu.
- Sử dụng, trích dẫn các nguồn tài liệu vào các nhận định của tác giả đề tài.
Nguồn tài liệu: Các cơng trình, sách, bài viết, hồi ký, chun khảo… đã cơng bố.
6. ĐĨNG GĨP CỦA LUẬN VĂN
Trên cơ sở tổng kết kết quả nghiên cứu của các công trình trƣớc đây, tác giả luận
văn nhận thấy cơng trình này có những đóng góp sau đây:
- Trƣớc hết, luận văn đã nghiên cứu những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam
từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX với tƣ cách là một chủ thể nghiên cứu độc lập.
- Thứ hai, cơng trình đã tổng hợp các nguồn tƣ liệu về những hoạt động của ngƣời
Pháp ở Việt Nam từ thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XIX, vốn còn khá rải rác ở nhiều tài
liệu khác nhau.


20

- Thứ ba, luận văn đã nhìn nhận và đánh giá những hệ quả tác động (dƣới cả hai
khía cạnh đóng góp tích cực và hệ lụy tiêu cực) từ những hoạt động của ngƣời Pháp
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam lúc bấy giờ.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung
chính của luận văn gồm 3 chƣơng, cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam trong các thế kỷ XVII,
XVIII
Chƣơng 2: Những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ
XIX (1802 – 1858)
Chƣơng 3: Động cơ và tác động từ những hoạt động của ngƣời Pháp ở Việt Nam
trƣớc khi thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lƣợc.



21

Chƣơng 1

HOẠT ĐỘNG CỦA NGƢỜI PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG
THẾ KỶ XVII, XVIII
1.1. VIỆT NAM TRONG NHỮNG THẾ KỶ XVII, XVIII
1.1.1. Tình hình chính trị
“Dịng chảy” lịch sử chính trị Việt Nam trong những thế kỷ XVII-XVIII chứng
kiến sự “hợp lƣu” của ba “dòng chảy” quan trọng: các cuộc chiến tranh phong kiến,
khởi nghĩa nơng dân và q trình khai phá, mở rộng lãnh thổ.
Năm 1527, lợi dụng nhà Lê suy yếu, Mạc Đăng Dung (1483-1541) cƣớp ngôi
vua, lập ra nhà Mạc (1527-1677). Việc làm này vấp phải những phản ứng mạnh mẽ của
giới sĩ phu trong nƣớc, nhất là các cựu thần nhà Lê. Gƣơng cao ngọn cờ “Phù Lê diệt
Mạc”, từ năm 1539 đến 1543, Nguyễn Kim (1468-1545) – một cựu thần của nhà Lê –
đã tập hợp lực lƣợng đánh chiếm vùng Thanh - Nghệ và xây dựng khu vực này thành
vùng kiểm sốt của chính quyền triều Lê trung hưng, hình thành nên cục diện chiến
tranh Nam triều (chính quyề vua Lê ở vùng Thanh - Nghệ) - Bắc triều (chính quyền
nhà Mạc ở Thăng Long). Năm 1545, khi chƣa hoàn thành đƣợc sự nghiệp, Nguyễn
Kim mất, binh quyền trao cho con rễ là Trịnh Kiểm (1503-1570). Cũng bắt đầu từ đây,
họ Trịnh kế tục nhau nắm quyền chi phối triều Lê. Năm 1592, quân Nam triều tấn công
ra Thăng Long, giành thắng lợi quyết định, chấm dứt cục diện chiến tranh Bắc triều –
Nam triều.
Nhƣng ngay từ khi cuộc chiến Nam – Bắc triều cịn đang tiếp diễn, Trịnh Kiểm
đã tìm cách thâu tóm quyền hành và loại bỏ dần ảnh hƣởng của họ Nguyễn. Để tránh bị
ám hại, ngƣời con thứ hai của Nguyễn Kim là Nguyễn Hồng (1525-1623) đã tìm cách
để đƣợc vào trấn thủ đất Thuận Hố. Tháng 10-1658, Nguyễn Hồng đƣợc vua Lê lệnh
vào trấn thủ đất Thuận Hoá - vùng đất từ phía Nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân dân cƣ
vẫn còn rất thƣa thớt, kinh tế kém phát triển. Tại đây, Nguyễn Hoàng cho thi hành chế

độ cai trị khoan hịa, khuyến khích sản xuất. Năm 1570, Nguyễn Hoàng đƣợc giao
kiêm lĩnh trấn thủ cả xứ Quảng Nam (vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông ngày
nay). Họ Nguyễn vừa chăm lo phát triển kinh tế vùng Thuận Quảng, vừa xây dựng
lƣợng để thoát ly dần sự lệ thuộc đối với triều đình trung ƣơng và trở thành một lực
lƣợng đối địch với họ Trịnh.
Từ năm 1600 trở đi, mâu thuẫn Trịnh – Nguyễn ngày càng gay gắt. Năm 1627,
dƣới thời Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635), chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ, kéo
dài đến năm 1672. Trong 45 năm, hai họ Trịnh – Nguyễn đã đánh nhau 7 lần với những
trận chiến ác liệt, có khi kéo dài năm này qua năm khác. Cuộc chiến tranh dẫn đến việc


22

chia đôi lãnh thổ nƣớc Đại Việt thống nhất thành giang sơn riêng của hai dịng họ.
Vùng đất từ sơng Gianh, Luỹ Thầy (Quảng Bình) trở ra Bắc nằm dƣới quyền cai trị của
chính quyền Lê – Trịnh gọi là Đàng Ngồi. Vùng Thuận Quảng ở phía Nam, đƣợc gọi
là Đàng Trong, thuộc quyền cai quản của chính quyền họ Nguyễn.
Cùng lúc đó, ngƣời Việt vẫn tiếp tục q trình mở rộng lãnh thổ, khai phá và xác
lập chủ quyền ở các vùng đất phía Nam Thuận - Quảng. Cho đến khi Nguyễn Hồng
vào trấn thủ đất Thuận Hố thì biên giới lãnh thổ của Đại Việt với vƣơng quốc Chiêm
Thành ở phía Nam đã đƣợc xác định đến đèo Cù Mông. Trong những năm từ 1611 đến
1697, về cơ bản, các Chúa Nguyễn đã làm chủ đƣợc vùng đất rộng lớn vùng duyên hải
Nam Trung Bộ2. Tại khu vực thuộc vùng Nam bộ ngày nay, đến năm 1757, những
phần đất cịn lại ở Nam Bộ đã chính thức thuộc chủ quyền của Việt Nam3.
2

Năm Tân Hợi 1611, quân Chiêm Thành đánh vào đất Hoa Anh (vùng đất ở khoảng vùng Đèo Cả và Bình
Định). Nguyễn Hồng sai thuộc tƣớng đi đánh lại, buộc quân Chiêm Thành phải rút về phía Nam Đèo Cả. Quân
họ Nguyễn làm chủ đƣợc vùng đất tiếp giáp với Quảng Nam kéo dài từ Nam đèo Cù Mơng đến núi Thạch Bi.
Nguyễn Hồng nhân đó cho đặt làm phủ Phú Yên gồm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoà [104 (1): 36; 85: 187].

Năm 1653, vua Chiêm Thành là Po Nraup (1651-1653, tức Bà Tấm) đem quân đánh chiếm phủ Phú Yến.
Chúa Nguyễn Phúc Tần phải cử quan quân đi đánh, giành lại đất Phú n và đẩy lùi qn Chiêm Thành về phía
Nam sơng Phan Rang (Ninh Thuận ngày nay). Vua Po Nraup phải xin hàng, dâng đất Kauthara cho Chúa
Nguyễn, lấy sông Phan Rang làm giới hạn. Chúa Nguyễn đem đất này (từ nam phủ Phú Yên đến bắc sông Phan
Rang) lập thành hai phủ mới là Thái Khang (sau đổi là Ninh Hoà) và Diên Ninh (sau đổi là Diên Khánh)2. [85:
215; 104(1): 62]
Năm 1692, vua Chiêm Thành là Po Sout (1659-1692, tức Bà Tranh) khởi binh đòi lại các vùng đất đã dâng
cho chúa Nguyễn nhƣng thất bại. Một năm sau đó, Po Sout bị bắt đƣa về Phú Xuân. Chúa Nguyễn cho đổi phần
đất còn lại của Chiêm Thành ở phía tây sơng Phan Rang đến sơng Dinh làm trấn Thuận Thành 2. Năm 1697, Chúa
Nguyễn Phúc Chu bỏ tên trấn Thuận Thành và đặt thành phủ Bình Thuận, đồng thời đem đất đai từ Phan Rang,
Phan Rí trở về phía tây chia thành hai huyện An Phúc, Hồ Đa cho lệ thuộc vào [104(1): 111].
3
Từ đầu thế kỷ XVII, đã có nhiều lƣu dân ngƣời Việt ở vùng đất Thuận – Quảng của Chúa Nguyễn đến Mơ
Xồi (Bà Rịa), Đồng Nai (Biên Hòa) khai khẩn đất hoang, lập ra những làng ngƣời Việt đầu tiên ở Nam Bộ3.
Năm 1620, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Công chúa Ngọc Vạn cho Quốc vƣơng Chân Lạp Chey
Chettha II, đặt cơ sở thuận lợi cho chính quyền của Chúa Nguyễn từng bƣớc hợp pháp hóa chủ quyền của mình
một cách hồ bình đối với vùng đất đã đƣợc ngƣời Việt khai khẩn từ trƣớc đó. Cũng nhờ mối quan hệ này, năm
1623, vua Chey Chettha II đã chấp thuận cho Chúa Nguyễn lập các trạm thu thuế tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas
Krobei (Bến Nghé).
Năm Kỷ Mùi 1679, tƣớng nhà Minh là Dƣơng Ngạn Địch, Trần Thƣợng Xuyên dẫn đầu, vì khơng thần phục
nhà Thanh, đã đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tƣ Dung và Đà Nẵng để xin làm tôi
chúa Nguyễn. Chúa liền trao cho họ quan chức và sai đến ở đất Đơng Phố (Nhóm Trần Thƣợng Xun đã đến
Biên Hồ, cịn nhóm Dƣơng Ngạn Địch đến Mỹ Tho) [98: 84-85]. Cùng thời gian này, Mạc Cửu là ngƣời tỉnh
Quảng Đơng (Trung Quốc) cũng vì khơng chịu làm tơi nhà Thanh mà “để tóc chạy sang phương Nam, đến nước
Chân Lạp làm chức Ốc Nha…” Sau đó, Mạc Cửu đã xây dựng toàn bộ vùng đất Hà Tiên - Long Xuyên - Bạc
Liêu - Cà Mau (đƣợc gọi chung là Hà Tiên) thành khu vực cát cứ của dòng họ mình, khơng cịn lệ thuộc vào
chính quyền Chân Lạp. [104(1): 122].
Năm 1698, Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) sai Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) vào kinh
lƣợc xứ Đồng Nai. Tại đây, Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành “chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc
Long (nay thăng làm phủ) dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hoà ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Binh

(nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiến Trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lộ thủ, cai bạ, ký
lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất đai được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ,


23

Từ đầu thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài và Đàng Trong bƣớc vào
giai đoạn suy yếu và khủng hoảng4. Các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên dữ dội,
ban đầu ở Đàng Ngoài rồi lan rộng ra cả nƣớc, tiêu biểu nhất là phong trào nông dân
Tây Sơn5.
Bùng nổ từ năm 1771, trong suốt 18 năm (1771-1789), anh em Tây Sơn (Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ) đã lật đổ các chính quyền phong kiến Nguyễn (1777),
Lê - Trịnh (1786); xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nƣớc, đặt nền tảng thống nhất quốc gia;
đồng thời, đánh tan các cuộc xâm lƣợc của Xiêm (1785), Thanh (1789), bảo vệ nền độc
lập và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Sau khi lên ngôi (1788), Quang Trung cho thi hành hàng loạt chính sách cải cách
tiến bộ để bảo vệ và phát huy những thành quả mà phong trào Tây Sơn vừa giành
đƣợc6. Những biện pháp đó đã có tác dụng nhất định trong việc khôi phục và phát triển
bèn chiêu mộ những người dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn, phường
ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến
buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn lập làm xã Minh Hương. Từ đó người Thanh ở bn
bán đều thành dân hộ” [104(1): 111].
Năm 1708, Mạc Cửu đem toàn bộ vùng đất đang cai quản về dâng cho Chúa Nguyễn. Năm 1744, Chúa
Nguyễn Phúc Khoát tổ chức lại bộ máy hành chính thống nhất. Nam Bộ lúc ấy gồm 3 dinh là Trấn Biên, Phiên
Trấn, Long Hồ và trấn Hà Tiên [104 (1): 153].
Năm 1756, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên muốn dựa vào Chúa Nguyễn để làm đối trọng với nƣớc Xiêm nên
hiến đất hai phủ Tầm Bồn, Lôi Lạp cho Chúa Nguyễn. Năm sau, 1757, vua Chân Lạp là Nặc Tôn (Outey II),
dâng đất Tầm Phong Long, cắt năm phủ Hƣơng Úc, Cần Bột, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh để tạ ơn mạc
Thiên Tứ, Thiên Tứ hiến cho Chúa Nguyễn. [104 (1): 166].
4

Ở Đàng Ngoài, từ đầu thế kỷ XVIII, nạn chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ ngày càng tăng; tình hình
nơng nghiệp đình trệ, cơng thƣơng nghiệp sa sút, ngƣời dân đói khổ phai lƣu tán khắp nơi. Bên cạnh đó, bộ máy
quan liêu của chính quyền Lê - Trịnh ngày càng mục nát; nạn cƣờng hào, tham nhũng, nhất là ở các cấp địa
phƣơng ngày càng nghiêm trọng… Trong khi đó, ở Đàng Trong, từ giữa thế kỷ XVIII, chính quyền họ Nguyễn
suy yếu dần. Việc mua bán quan tƣớc phổ biến. Số quan lại ngày càng tăng, nhất là quan thu thuế. Quan lại,
cƣờng hào kết thành bè cánh, bóc lột nhân dân thậm tệ và đua nhau ăn chơi xa xỉ. Trong triều đình Phú Xuân,
Trƣơng Phúc Loan nắm hết quyền hành, tự xƣng “quốc phó”, khét tiếng tham nhũng. Nông dân bị địa chủ cƣờng
hào lấn chiếm ruộng đất, lại phải nộp hàng trăm thứ thuế, cuộc sống ngƣời dân ngày càng cơ cực. Nỗi bất bình
ốn giận của các tầng lớp xã hội đối với chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngồi, chính quyền họ Nguyễn ở Đàng
Trong ngày càng dâng cao.
5
Trong khoảng 30 năm giữa thế kỷ XVIII, phong trào nơng dân ở Đàng Ngồi bùng lên khắp các trấn đồng
bằng và Thanh, Nghệ. Tiêu biểu nhất là những cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Dƣơng Hƣng (1737), khởi nghĩa Lê
Duy Mật (1738 – 1770), khởi nghĩa Nguyễn Danh Phƣơng (1740 – 1751), khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu (1741 –
1751) và khởi nghĩa Hồng Cơng Chất (1739 – 1769). Ở Đàng Trong, nổi bật nhất là phong trào nông dân Tây
Sơn (1771-1789).
6
Bộ máy tổ chức nhà nƣớc theo mơ hình qn chủ phong kiến đƣợc tổ chức quy củ. Quang Trung qn
phong cho những ngƣời có cơng trong cuộc khởi nghĩa, đồng thời sử dụng triệt để những cựu thần triều Lê và
nhân sĩ khắp nơi để xây dựng chính quyền mới. Quân đội đƣợc củng cố và kiện toàn bao gồm bộ binh, thủy binh,
tƣợng binh, kỵ binh, pháo binh. Đối với các vấn đề đối nội, Quang Trung thực hiện nhiều biện pháp ổn định tình
hình trong nƣớc, đồng thời phát triển kinh tế, xây dựng sức mạnh nội tại của đất nƣớc. Một mặt ông ra sức thu
phục lòng dân, mặt khác kiên quyết trấn áp các thế lực chống đối. Về kinh tế, Quang Trung ban hành “chiếu
khuyến nông” để phục hồi nền sản xuất nơng nghiệp, thực hiện chính sách thuế và ruộng đất mới, có lợi cho


24

nền kinh tế đất nƣớc, ổn định tình hình chính trị, đồng thời củng cố và phát huy các giá
trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc vốn đã bị tổn thƣơng và suy sụp trong nhiều thế kỷ

khủng hoảng của chế độ phong kiến từ đầu thế kỷ XVI. Tuy nhiên, chỉ cầm quyền
trong một thời gian ngắn (1789-1793), lại bị hạn chế bởi những cơ sở tiền đề của xã
hội, nên những chính sách của Quang Trung chƣa thật sự tác động, làm thay đổi đƣợc
nhiều nền kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.
1.1.2. Tình hình kinh tế
Ở các thế kỷ XVI, XVII, XVIII, tuy đất nƣớc bị chia cắt, chiến tranh liên miên,
nhƣng trong lĩnh vực kinh tế lại có những biến đổi quan trọng. Đất nƣớc đƣợc mở rộng
về phía Nam tới vùng Thuận – Quảng và sau đó là khai phá vùng đất Nam Trung Bộ và
Nam Bộ.
Về nông nghiệp, đến đầu thế kỷ XVIII, không chỉ ở Đàng Trong mà cả ở khu vực
Đàng Ngồi, tình hình nơng nghiệp vẫn có dấu hiệu tƣơng đối ổn định và phát triển.
Tuy nhiên, từ những năm 30 của thế kỷ XVIII, những dấu hiệu khủng hoảng của chế
độ phong kiến bắt đầu từ nơng thơn, nơng nghiệp đã lộ rõ.
Ở Đàng Ngồi, ngay từ đầu thế kỷ XVI, chính sách ruộng đất thời Lê Sơ về cơ
bản đã bị phá sản. Nguyên nhân chính dẫn đến sự phá sản này là sự phát triển nhanh
chóng của ruộng đất tƣ hữu. Mặc dù về hình thức, nhà nƣớc vẫn ngăn cấm việc biến
ruộng cơng thành ruộng tƣ, nhƣng trên thực tế, q trình đó vẫn khơng ngừng diễn ra
tại các làng q. Ngƣời nông dân đã bị chiếm đoạt phần ruộng đất tƣ, lại hết hy vọng ở
phần ruộng đất công của làng xã. Trong khi đó, nhà nƣớc Lê - Trịnh ngày càng tăng
cƣờng tô thuế, lao dịch, binh dịch đối với nông dân. Nạn hạn hán, lụt lội, vỡ đê thƣờng
xuyên xảy ra. Những nông dân nghèo khổ, thiếu đất canh tác, phải rời bỏ đồng ruộng,
xóm làng đi lang thang kiếm sống ngày càng đông đảo.
Ở Đàng Trong, vùng Thuận – Quảng có các dải đồng bằng nhỏ hẹp và cơ bản đã
đƣợc khai phá từ thời Lê trở về trƣớc, nên cơ cấu tổ chức xã hội có nhiều điểm giống
với Đàng Ngồi. Ở đây, ruộng đất cơng làng xã cịn tồn tại khá phổ biến. Bên cạnh đó,
cịn có một diện tích đáng kể thuộc quyền sở hữu nhà nƣớc.

ngƣời dân. Đối với công thƣơng nghiệp, Quang Trung chủ trƣơng khuyến khích và phục hồi các làng nghề thủ
công cũng nhƣ việc trao đổi buôn bán trong nƣớc và với nƣớc ngoài. Đối với thƣơng nhân nƣớc ngoài, Vua
khuyến khích họ chở hàng hố đến trao đổi. Bn bán trong nƣớc và với các nƣớc láng giềng đƣợc khuyến khích.

Đi đối với đó, Quang Trung cũng cho đúc tiền mới, áp dụng chế độ thuế khoá mới… Trên lĩnh vực văn hóa giáo
dục, Quang Trung vẫn coi Nho giáo là nền tảng tƣ tƣởng nhƣng vẫn rộng rãi đối với các tôn giáo khác. Chữ Nôm
đƣợc đề cao lên hàng chữ viết chính thức của dân tộc, đƣa chữ Nôm vào hệ thống giáo dục, khoa cử, và văn bản
hành chính… Trong quan hệ ngoại giao, chính quyền thời Quang Trung tỏ ra khôn khéo đối với nhà Thanh, các
mối quan hệ đƣợc nối lại và tỏ ra hòa hiếu. Các nƣớc lân cận (Vạn Tƣợng, Miến Điện) đều có quan hệ tốt. Đối
với các nƣớc phƣơng Tây, Quang Trung chú trọng đến phát triển quan hệ buôn bán nhƣng chƣa có biểu hiện của
quan hệ ngoại giao cấp nhà nƣớc với bất kì quốc gia phƣơng Tây nào.


25

Vùng đất phía Nam, nhất là vùng đồng bằng sơng Cửu Long, đất đai nhiều, dân
cƣ thƣa thớt, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khai hoang, cho phép biến ruộng đất
khai phá thành ruộng đất tƣ nhân. Chúa Nguyễn cịn khuyến khích những địa chủ giàu
có vùng Thuận – Quảng chiêu mộ những ngƣời dân nghèo vào khai hoang ở vùng
Đồng Nai, Gia Định. Thế kỷ XVII – XVIII. Vùng Đồng Nai, Gia Định đã trở thành
khu vực sản xuất nông nghiệp phát triển.
Về thủ công nghiệp và thương nghiệp, đối với nền thủ cơng nghiệp nhà nước, cả
chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngồi và chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều
chú trọng xây dựng các quan xƣởng. Lực lƣợng lao động trong các xƣởng thủ công
nghiệp của nhà nƣớc đều là những thợ thủ công giỏi, đƣợc trƣng tập từ các địa phƣơng
theo chế độ cơng tƣợng. Nhìn chung, thủ cơng nghiệp của nhà nƣớc tuy có mở rộng về
quy mơ sản xuất và trình độ kĩ thuật, nhƣng vẫn bị ràng buộc chặt chẽ trong những tổ
chức sản xuất với những quan hệ cƣỡng bức và lao dịch, ít có tác dụng đến sự phát
triển của kinh tế hàng hố.
Đối với thủ cơng nghiệp nhân dân, bộ phận thủ công chuyên nghiệp ở thành thị
và nơng thơn ngày càng phát triển và có xu hƣớng trở thành bộ phận sản xuất chính.
Những làng thủ công chuyên nghiệp ở nông thôn và phƣờng thủ công chuyên nghiệp ở
thành thị xuất hiện ngày càng nhiều7.
Cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, hoạt động bn bán,

trao đổi hàng hóa giữa các địa phương được mở rộng hơn trước. Hầu hết các làng, các
xã lớn ở vùng đồng bằng đều có chợ. Tại các chợ, ngƣời ta mua bán đủ các thứ hàng
hoá, trong đó hàng nơng phẩm, hàng thủ cơng do ngƣời sản xuất trực tiếp mua bán,
trao đổi. Ngƣời buôn bán lớn ở các của hàng, cửa hiệu cố định không nhiều.
Trên đà phát triển của kinh tế hàng hoá, dần hình thành các luồng bn bán, trao
đổi thƣờng xun giữa miền ngƣợc với miền xuôi, miền duyên hải, hải đảo với nội địa,
giữa các trung tâm kinh tế, thƣơng mại lớn với các vùng nông thôn phụ cận. Đặc biệt,
mối quan hệ buôn bán giữa nhân dân Đàng Trong và Đàng Ngồi vẫn đƣợc duy trì và
mở rộng.
Về ngoại thương, mối quan hệ buôn bán truyền thống với các nƣớc phƣơng Đơng,
đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản, có xu hƣớng phát triển. Thế kỷ XVII – XVIII,
trên đất nƣớc ta xuất hiện một lực lƣợng khá đông các kiều dân Trung Quốc và Nhật
Bản định cƣ lâu dài và hoạt động buôn bán.

7

Nhƣ: Bát Tràng, Thổ Hà, Phù Lãng, Hƣơng Canh, Lò Chum, Thanh Hà… chuyên nghề đồ gốm; Vạn Phúc,
La Khê, Bƣởi, Trích Sài, Sơn Điền, Vạn Xuân… chuyên nghề dệt vải lụa; làng Vân Chàng, Nho Lâm, Trung
Lƣơng, Hiền Lƣơng, Tam Thái… chuyên nghề rèn… Ngoài ra cịn có nhiều làng, phƣờng nghề mộc, chạm khắc,
khảm trai, đúc đồng, dệt chiếu, làm nón, giấy, sơn…


×