Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.29 KB, 18 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1></div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>
Sáng tác: Lê Dinh
Ca sĩ: :: ::
Tơi nhớ hồi một chiều dừng chân ghé qua thăm miền ước mơ
Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi cịn nhớ
Nhớ ghi mn đời nước trời biển mơ
xanh xanh màu ánh mắt em gái chiều năm xưa
như vấn vương ai trên bến chiều xa vắng năm tháng còn ngẩn ngơ
Hà Tiên ơi, đây miền xinh tươi như hoa gấm trong đời
Hà Tiên ơi, đây những bóng dừa xanh mát biển khơi
Tơi qua lăng Mạc Cửu, nằm trên con voi cùn
Tôi vô thăm Thạch Động, trời bát ngát mênh mông
Nghe chuông ngân chiều vắng như tiếng nói cơ miên
xao xuyến tâm tư người ghé thăm Hà Tiên
Giây phút đẹp còn lại kỷ niệm khó phai trên bờ mắt ai
Hà Tiên đã ghi vào tâm trí tơi ơi luyến lưu làng mây
Nhớ thương với đầy hướng về Hà Tiên
Quê hương hùng vĩ hiên ngang ngắm mặt trùng dương
Đây bến Tô Châu khôn sánh niềm lưu luyến tôi hướng về Hà Tiên
ĐK:
Hà Tiên ơi, đây miền xinh tươi như hoa gấm trong đời
Tơi qua lăng Mạc Cửu, nằm trên con voi cùn
Tôi vô thăm Thạch Động, trời bát ngát mênh mông
Nghe chuông nghiêng chiều vắng, như tiếng nói cơ miên
xao xuyến tâm tư người ghé thăm Hà Tiên
Giây phút đẹp cịn lại kỷ niệm khó phai trên bờ mắt ai
<b>Anh trở lại Hà Tiên thăm em, người em dịu hiền </b>
<b>Đường cách trở hai nơi, xa xơi, thương thì tìm tới </b>
<b>Hà Tiên ơi sao vẫn không rời, bước chân gọi mời </b>
<b>Yêu dấu Hà Tiên với biển khơi, </b>
<b>gởi nhau mấy lời thương nhớ trong đời </b>
<b>Chuông Cô Tự </b>
<b>phù dung ngân vang, gội tan bụi trần </b>
<b>Chiều bóng ngả Tô Châu, </b>
<b>tương tư, hỏi người nào thấu </b>
<b>Hà Tiên ơi, em vẫn tuyệt vời, gió mưa giữa trời </b>
<b>Khơng ước thề xui khiến gặp nhau </b>
<b>Từ giây phút đầu nghe trái tim sầu </b>
<b>ĐK: </b>
<b>Hà Tiên, trông dáng em mỹ miều </b>
<b>Bên bướm hoa dập dìu, </b>
<b>em đưa anh về thăm lăng Mạc Cửu </b>
<b>Biển rộng bình an ơm hịn phụ tử </b>
<b>Mênh mơng gió lộng thạch động </b>
<b>Làm xao xuyến, </b>
<b>khi về lưu luyến thương quá Hà Tiên </b>
<b>Mai giã biệt Hà Tiên, </b>
<b>xa anh, lòng sao bùi ngùi </b>
<b>Đời gối mỏi bơn ba, </b>
<b>tha phương nhớ hồi người thương </b>
<b>Thuyền xa bến ôm ấp kỷ niệm với bao nỗi niềm </b>
một ngọn đồi cách thị xã Hà Tiên chừng 2 cây số về phía Tây cịn nhiều di tích lăng
mộ của dịng họ Mạc, xây dựng cách nay trên 300 năm.
<b>Nói đến cơng cuộc khai phá vùng đất trấn Hà Tiên trong giai đoạn ban đầu - vào những</b>
<b>thập kỷ cuối thể kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, một vấn đề đặt ra là nên đánh giá vai</b>
<b>trị và cơng lao của họ Mạc - Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích - như thế nào cho đúng.</b>
<b>Về vấn đề này trước nay đã có nhiều ý kiến nêu lên, tuy có khác nhau về sắc thái, nhưng</b>
<b>tựu trung đều nhấn mạnh hoặc ra sức đề cao vai trị và cơng lao của hai cha con họ Mạc,</b>
<b>coi đó là nhân tố quyết định đối với công cuộc khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên lúc</b>
Nổi bật nhất là Trần Kinh Hồ, một học giả nghiên cứu và giảng dạy Sử ở Đài Loan, trong diễn
văn “Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên” đọc tại trụ sở Hội Nghiên cứu liên lạc văn hố Á
châu của chính quyền Sài Gịn ngày 7-9-1958, đã khẳng định rằng “Hà Tiên dưới thiện chí của
Mạc Cửu ngày một thịnh vượng, nhân dân được an cư lạc nghiệp, xã hội Hà Tiên là một xã hội
văn nhã”(1). Trần Kinh Hồ cịn cho là về phương diện chính trị, họ Mạc ở Hà Tiên lúc nào
cũng giữ được thực quyền của một tiểu bang - một chính quyền tự chủ đã từng đóng vai trị
“nước hoãn xung” giữa ba nước Việt Nam - Xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, Xiêm La và
Chân Lạp.
Một vài người khác cũng có quan điểm đề cao vai trị của Mạc Cửu như Trần Kinh Hồ. Họ
cho rằng sau khi đến Hà Tiên, Mạc Cửu đã tổ chức chiêu mộ những người dân lưu tán từ khắp
nơi hoặc nông dân định cư tại chỗ tập trung vào việc khai thác. Không những thế, Mạc Cửu
cịn chia đất và mau sắm những nơng cụ cần thiết cho những lưu dân tiến hành khai thác ruộng
đất, nhờ đó mà vùng đất Hà Tiên vốn khắc nghiệt sớm trở thành một vùng đất trù phú. Sự thật
có phải thế khơng?
Khi đề cập đến cơng cuộc khai thác, cần có sự phân biệt rạch rịi giữa việc xây dựng và phát
triển về mặt kinh tế - chủ yếu là kinh doanh buôn bán - vùng phố thị Hà Tiên (tức thị xã Hà
Tiên ngày nay) với việc mở mang khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên nói chung. Đó là hai
cơng việc hồn tồn khác nhau về nội dung, quy mơ và địa bàn. Nói cách khác, cần có sự phân
biệt giữa việc đứng ra tổ chức xây dựng và phát triển vùng phố thị Hà Tiên của Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tích với việc mở mang khai phá cả vùng đất thuộc trấn Hà Tiên của những lưu dân
và cư dân địa phương.
Trước hết cần tìm hiểu việc xây dựng và mở mang vùng lỵ sở Hà Tiên mà sử cũ gọi là Mang
Khảm hay Phương Thành.
trên mặt biển(2), nhanh chóng chuyển từ Nông Pênh về phủ Sài Mạt để hoạt động. Và sau khi
đặt chân đến Hà Tiên, việc làm đầu tiên và chủ yếu của ông ta là mở tiệm hút, trưng mua việc
thu thuế hoa chi các sòng bạc lớn để làm giàu, mà điều này chỉ có thể làm được một khi Mang
Khảm đã là một trung tâm giao dịch bn bán lớn có nhiều thương nhân giàu có.
Sau khi trở nên giàu có nhờ việc mở tiệm hút, tổ chức sòng bạc thu hoa chi, đào được hầm bạc,
Mạc Cửu liền nghĩ tới và bắt tay ngay vào việc phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán của
Hà Tiên, nhất là việc buôn bán với nước ngoài, mở mang phố chợ, xây dựng thành qch, theo
Gia Định thành thơng chí là thành đất, cịn theo Văn hiến thơng khảo của nhà Thanh thì đó là
thành cây. Nhiều tài liệu cho thấy Mạc Cửu đã kêu gọi và đón nhận thuyền bn các nước đến
buôn bán(3), đồng thời cũng chủ động đặt quan hệ buôn bán với các nước. Năm 1728 và năm
1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang hai thương thuyền sang Nhật
Bản liên hệ việc mậu dịch, được chính phủ Nhật Bản - Mạc Phủ Đức Xuyên - cấp giấy phép
buôn bán. Năm 1731 và năm 1732, lại phái thương thuyền sang Nhật. Việc buôn bán với Trung
Quốc cũng được bắt đầu từ năm 1729, từ đó những thổ sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô,
tôm khô v.v… lục tục xuất cảng sang Trung Quốc(4).
Để khuyến khích tàu bn nước ngồi đến bn bán, Mạc Cửu đã cho thi hành một chính sách
thuế hàng hố khá ưu đãi. Hàng hố bn bán chỉ phải chịu một món thuế nhỏ mà thơi(5).
Đến thời Mạc Thiên Tích, kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Thiên Tích càng ra sức đẩy mạnh
việc thơng thương với nước ngồi. Năm 1740 và 1742, Thiên Tích hai lần phái hai thuyền chủ
Ngô Chiêu Viên và Lâm Thiên Trường cùng thuyền buôn sang Nagasaki để xúc tiến việc mậu
dịch với Nhật Bản. Đi đôi với việc mở rộng buôn bán với các nước, Thiên Tích cịn khuếch
trương việc xây dựng phố chợ, đường xá, xây cất dinh thự, đền miếu, trại quân, kho tàng, công
xưởng (xưởng sửa chữa tàu thuyền), thành luỹ v.v… làm cho bộ mặt của phố cảng Hà Tiên
càng được đổi mới, càng trở nên sầm uất với cảnh “đường lối tiếp giáp, phố xá liền lạc, người
Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông
biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đơ hội nơi góc biển vậy!”
Chúng ta biết rằng từ những thập niên cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, một số khá đông
những người nông dân nghèo lưu tán vùng Thuận Quảng đã lần lượt di chuyển vào vùng Đồng
Nai – Gia Định để trốn tránh sự áp bức bóc lột, nạn binh dịch, sưu thuế của giai cấp thống trị
phong kiến Đàng Trong. Trên con đường đi tìm đất sống, một số đã dừng chân ở vùng Mơ
Xồi, Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ Tho, Bến Tre…, một số theo đường biển dọc theo
vịnh Xiêm La. Điều đó có nghĩa là trước khi Mạc Cửu đặt chân đến Hà Tiên, những lưu dân
người Việt, người Hoa… đã đến định cư tại đây cùng với cư dân địa phương - người Khmer,
làm ăn sinh sống và Mạc Cửu chỉ là người có cơng đứng ra nhóm họp họ lập thành làng xóm
mà thơi. Về điểm này, chúng tơi cho rằng Trịnh Hoài Đức đã rất đúng khi viết: “…hựu chiêu
Việt Nam lưu dân ư (tôi nhấn mạnh - H.L) Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch
Giá, Càu Mau đẳng xứ, lập thất xã thôn dĩ sở cư”. (Tạm dịch là: lại nhóm họp - chữ “chiêu”
trong câu này phải hiểu là chiêu tập, có nghĩa là nhóm họp lưu dân người Việt ở Phú Quốc,
Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập làm bảy thôn để ở)(7). Rất tiếc đã có
khơng ít người có thể do qn mất chữ “cư”, mà ngộ nhận rằng Mạc Cửu đã đứng ra chiêu mộ
lưu dân người Việt từ các nơi khác đưa họ đến vùng dải đất ven biển và tổ chức công cuộc khai
phá ở đây, gắn cho Mạc Cửu một cơng lao to lớn mà ơng khơng hề có.
Rõ ràng là Mạc Cửu không hề đứng ra chiêu mộ những người lưu tán từ các nơi khác, đưa về
an sáp nơi đây, càng khơng có việc Mạc Cửu đứng ra tổ chức công cuộc khai phá vùng đất
hoang mạc này. Trái lại chính là những người dân tự mình đến đây định cư và họ cũng tự mình
đứng ra khai thác các nguồn lợi nơi đây, trong đó có việc khai phá đất đai để trồng trọt, giải
quyết cái ăn cái mặc cho mình.
Cơng cuộc khai phá khu vực trấn Hà Tiên bao gồm cả dải đất ven biển từ trấn lỵ Hà Tiên chạy
dài xuống Cà Mau và sang phía Hậu Giang trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu
thế kỷ XVIII, tức là dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã diễn ra khá chậm chạp và kết
quả đạt được còn rất hạn chế.
cảng Kiên Giang, những người ở cảng Đại Môn thuộc đạo Kiên Giang, ở cảng Đốc Huỳnh,
cảng Gành Hào, thuộc đạo Long Xuyên, những người ở dọc theo ven biển). Chỉ có số ít nơng
dân ở Rạch Giá và Cà Mau là chuyên sống về nghề nông trồng lúa, do đó đất đai ở đây được
khai phá tương đối chậm so với các vùng khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hồi Đức vẫn cịn
ghi nhận về trấn Hà Tiên như sau: “Trấn Hà Tiên phong tục tập qn theo Trung Hoa, mà ít có
hạng thân sĩ. Người Kinh (tức là người Việt - HL), người Thượng ở xen lộn, chuyên việc buôn
bán, người Trung Quốc, người Cao Miên (tức người Khơme - HL), người Đồ Bà (tức người
Giava - HL) phần đông ở theo bờ biển, địa lợi chưa khẩn trưng, nhân dân không có đất đai, nên
dời đổi chỗ ở bất thường. Duy có hai đạo Long Xuyên (tức Cà Mau - HL) và Kiên Giang (tức
Rạch Giá HL) có số nơng dân biết chăm lo căn bản, cho nên các địa hạt thuộc trấn này thường
nhờ lúa gạo của hai đạo ấy để cấp dưỡng”(10). “Và ruộng ở huyện Long Xuyên và huyện Kiên
Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tự ruộng (trấn) Vĩnh Thanh mà địa lợi chưa khẩn
hết”(11).
Mặc dù công cuộc khai phá đất đai ở trấn Hà Tiên trong nửa đầu thế kỷ XVIII chưa tiến triển
mấy, nhưng những kết quả khiêm tốn mà những người dân lưu tán đã thu lượm được bằng
chính cơng sức, mồ hơi nước mắt của mình đã đặt nền móng cho cơng cuộc khai thác vùng đất
đai rộng lớn phía Tây Nam của Tổ quốc trong các thời kỳ sau.
Tìm hiểu cơng cuộc khai phá và sự phát triển về kinh tế văn hoá của vùng đất Hà Tiên trong
những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, là một việc làm có ý nghĩa to lớn
trong việc khai thác và phát huy truyền thống của địa phương. Nhưng khi đề cập đề tài này thì
một vấn đề được đặt ra ngay tức khắc là xác định như thế nào cho đúng đắn vai trò của họ Mạc
cụ thể là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích trong sự nghiệp ấy. Đó là một vấn đề có tầm quan trọng
to lớn bởi vì nó là một vấn đề lịch sử nhưng lại mang ý nghĩa chính trị thực tiễn sâu sắc.
<b>Có thể nói vùng đất Hà Tiên - Kiên Giang hội tụ được hầu hết dáng vẻ của nhiều danh </b>
<b>Được khai mở vào đầu thế kỉ thứ 18, cách thành phố Rạch Giá 93 km, Hà Tiên từ lâu đã </b>
<b>nổi tiếng có nhiều thắng cảnh đẹp, thu hút nhiều lượt khách tham quan. Không ai nhớ </b>
<b>chính xác tên gọi này có từ bao giờ. Chỉ biết Hà Tiên xưa kia thuộc vùng đất Mang Khảm</b>
<b>(tục danh Trấn Phiên thành, còn gọi là Đồng Trụ trấn). Tương truyền rằng, ngày xưa vì </b>
<b>mến cảnh trần gian nơi đây có nhiều cảnh đẹp, non nước hữu tình, tiên nữ thường xuất </b>
<b>hiện, vậy là có tên Hà Tiên.</b>
<b>dâng biểu cầu thân với nhà Nguyễn. Kể từ ngày đó, Hà Tiên trở thành mảnh đất cuối </b>
<b>cùng của đất Việt về hướng Tây Nam.</b>
<i><b>Bãi biển Mũi Nai - Hà Tiên</b></i>
<b>Vào thế kỉ XVIII, Hà Tiên là một thị trấn buôn bán sầm uất, một hải cảng ln có mặt </b>
<b>các tàu bn phương Tây và các nước Nam Á, trong hải trình từ Tây sang Đông và </b>
<b>ngược lại. Những tàu này thường xuyên cập bến, những hiệu buôn của người Hoa lẫn </b>
<b>người Việt lần lượt mọc lên, buôn bán nhộn nhịp. Quán xá, hiệu ăn và các cửa hàng mỹ </b>
<b>nghệ bày bán mời gọi mọi người. Bãi biển quanh năm đông người. Những lưu dân từ các </b>
<b>tỉnh miền ngoài lũ lượt đi thuyền, vượt sóng gió vào Nam, tới đây vừa buôn bán, vừa </b>
<b>đánh bắt hải sản mà cũng để giao lưu với người nước ngồi. Một nền văn hóa, thi ca một </b>
<b>thời phát đạt, cực thịnh, còn lưu lại tiếng tăm của một thi đàn luôn luôn quyến rũ tao </b>
<b>nhân mặc khách từ nhiều địa phương tới ngâm vịnh, ngoạn cảnh.</b>
Còn bây giờ khi đến vùng đất này mới thấy Hà Tiên không ra dáng vẻ của một đô thị như
trong suy nghĩ của mọi người: khơng nhà cao tầng, khơng tiếng cịi xe rầm rập suốt ngày,
không ồn ào xô bồ... Nơi đây thật lặng lẽ, yên bình như một làng quê xưa với nét uy nghiêm
của những chứng tích lịch sử cùng nét hoang sơ của những tạo tác mà thiên nhiên đã ban tặng
cho mảnh đất này.
<b>Những mái ngói cổ rêu phong nghiêng nghiêng trong nắng chiều, trong cái gió hanh hao </b>
<b>mang theo vị mặn của biển đã tạo nét riêng cho xứ sở Hà Tiên. Hà Tiên nghèo nhưng </b>
<b>đẹp, nhiều người bảo vậy!</b>
<b>Bạn đã nghe chưa Hà Tiên Thập Vịnh, nơi Tao Đàn Chiêu Anh Cát, nơi vị tổng trấn Mạc</b>
<b>Thiên Tích tập hợp những anh tài trong thiên hạ. Hà Tiên đẹp lắm, nét đẹp tự ngàn xưa! </b>
<b>Hà Tiên thập vịnh là mười bài thơ làm để vịnh mười cảnh đẹp của Hà Tiên do Mạc Thiên</b>
<b>Tích đề xướng từ năm Bính Thìn 1736. Đó là: </b>
<b>Thạch động thơn vân</b>
<b>Châu nham lạc lộ</b>
<b>Đông hồ ấn nguyệt</b>
<b>Nam phố trừng ba</b>
<b>Lộc trĩ thôn cư</b>
<b>Lư khê ngư bạc</b>
<b>Mười bài thơ này khi đọc lên sẽ làm cho bạn càng thêm thích thú nhất là khi bạn đang ở </b>
<b>Hà Tiên. Và bạn sẽ tự hỏi mình sẽ đi thăm cảnh đẹp nào trong mười cảnh đẹp này đây? </b>
<b>Mười cảnh này nơi nào cũng đáng xem cả, mỗi nơi một vẻ nhưng “Bình san điệp thúy” là</b>
<b>nơi đáng đến, một nơi rất đáng xem. Bình là tấm bình phong, san là núi. Bình san là dãy </b>
<b>núi dựng như bức bình phong sau thành Hà Tiên. Điệp là trùng trùng điệp điệp, lớp lớp, </b>
<b>từng từng. Thúy là màu xanh chi trả. Bình san điệp thúy là ngọn núi như tấm bình phong</b>
<b>sắc xanh lớp lớp. Từ trên núi Bình San, Hà Tiên hiện ra thơ mộng đến vô cùng: một bên </b>
<b>là biển Đông mênh mông, một bên là núi Voi Phục, điểm xuyết là những núi đá vôi cô độc</b>
<b>càng tôn thêm vẻ đẹp riêng của xứ sở Hà Tiên mà không nơi nào có được! Đã đến Hà </b>
<b>Tiên khơng thể nào khơng ghé thăm từ đường của dịng họ Mạc được khởi đầu từ Tổng </b>
<b>binh Mạc Cửu. Khi ông qua đời, nhà Nguyễn đã phong tặng tước hiệu Khai trấn Thượng</b>
<b>trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công. Những bậc thang đá đưa du khách viếng thăm </b>
<b>Hà Tiên có Thạch Động còn gọi là Vân Sơn. Chẳng biết tự bao giờ mà người dân Hà Tiên</b>
<b>tự hào: Thạch động chính là nơi khởi nguồn của câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém </b>
<b>chằn thấm sâu trong ký ức tuổi thơ. Vào sâu trong Thạch Động, thạch nhũ lâu ngày đã </b>
<b>tạo những hình thù: con chằn, một cơ gái tóc dài mà dân gian quen gọi là Phật Bà Quan </b>
<b>Âm... Trí tưởng tượng con người được dịp bay bổng. Từ đây, đi bộ thêm vài bước chân là</b>
<b>tới cửa khẩu Xà Xía, bên kia là đất nước Chùa Tháp.</b>
<i><b>Thạch Động</b></i>
<b>diệt thủy quái; người cha cứ mỗi chiều dẫn đứa con bé bỏng ra trước biển ngóng về miền </b>
<b>quê xa với nỗi nhớ khôn nguôi...</b>
<b>Từ chùa Hang, chỉ vài phút bồng bềnh trên ca nơ vượt sóng sẽ đến hang Gia Long với </b>
<b>những hình thù do thạch nhũ tạo ra như ghế Gia Long, hình Đường Tăng, giếng Tiên, </b>
<b>tượng Phật Bà Quan Âm... để trí tưởng tượng của con người một lần nữa bay cao! Chỉ </b>
<b>thấy tiếc là khơng nghỉ lại tại Hịn Chơng để có dịp ngắm biển, hít thở khơng khí trong </b>
<b>lành mằn mặn vị biển và yên tĩnh đến vô cùng. Chính vì lẽ đó mà bây giờ Hịn Chơng </b>
<b>được xây dựng tiện nghi hơn để phục vụ khách đường xa.</b>
<i><b>Hịn Phụ Tử</b></i>
<b>Cịn nhiều lắm những di tích, thắng cảnh của xứ Hà Tiên: đình Nguyễn Trung Trực, mộ </b>
<b>Bà lớn tướng Lê Kim Định, đền Phó Cơ Điều, Sắc tứ Tam bảo tự, chùa Phù Dung (còn </b>
<b>gọi là am Phù Cừ)... mà người dân tự hào là Hà </b>
Lăng miếu Hà Tiên