Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

GDNK : LỊCH SỬ TÂY NAM BỘ - LỊCH SỬ VỀ HÀ TIÊN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.96 KB, 18 trang )

BÀI SƯU TẦM NGOẠI KHÓA : LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG TÂY NAM BỘ -
LỊCH SỬ HÀ TIÊN

Bài hát : Hà Tiên
Sáng tác: Lê Dinh
Ca sĩ: :: ::
Tôi nhớ hoài một chiều dừng chân ghé qua thăm miền ước mơ
Hà Tiên mến yêu đẹp như xứ thơ xa cách tôi còn nhớ
Nhớ ghi muôn đời nước trời biển mơ
xanh xanh màu ánh mắt em gái chiều năm xưa
như vấn vương ai trên bến chiều xa vắng năm tháng còn ngẩn ngơ
Hà Tiên ơi, đây miền xinh tươi như hoa gấm trong đời
Hà Tiên ơi, đây những bóng dừa xanh mát biển khơi
Tôi qua lăng Mạc Cửu, nằm trên con voi cùn
Tôi vô thăm Thạch Động, trời bát ngát mênh mông
Nghe chuông ngân chiều vắng như tiếng nói cô miên
xao xuyến tâm tư người ghé thăm Hà Tiên
Giây phút đẹp còn lại kỷ niệm khó phai trên bờ mắt ai
Hà Tiên đã ghi vào tâm trí tôi ôi luyến lưu làng mây
Nhớ thương với đầy hướng về Hà Tiên
Quê hương hùng vĩ hiên ngang ngắm mặt trùng dương
Đây bến Tô Châu khôn sánh niềm lưu luyến tôi hướng về Hà Tiên
ĐK:
Hà Tiên ơi, đây miền xinh tươi như hoa gấm trong đời
Hà Tiên ơi, đây những bóng dừa xanh mát biển khơi
Tôi qua lăng Mạc Cửu, nằm trên con voi cùn
Tôi vô thăm Thạch Động, trời bát ngát mênh mông
Nghe chuông nghiêng chiều vắng, như tiếng nói cô miên
xao xuyến tâm tư người ghé thăm Hà Tiên
Giây phút đẹp còn lại kỷ niệm khó phai trên bờ mắt ai
Hà Tiên đã ghi vào tâm trí tôi ơi luyến lưu làn mây


Nhớ thương với đầy hướng về Hà Tiên
Quê hương hùng vĩ hiên ngang ngắm mặt trùng dương
Đây bến Tô Châu khôn sánh niềm lưu luyến tôi hướng về Hà Tiên
Bài hát :Yêu dấu Hà Tiên
Anh trở lại Hà Tiên thăm em, người em dịu hiền
Đường cách trở hai nơi, xa xôi, thương thì tìm tới
Hà Tiên ơi sao vẫn không rời, bước chân gọi mời
Yêu dấu Hà Tiên với biển khơi,
gởi nhau mấy lời thương nhớ trong đời
Chuông Cô Tự
phù dung ngân vang, gội tan bụi trần
Chiều bóng ngả Tô Châu,
tương tư, hỏi người nào thấu
Hà Tiên ơi, em vẫn tuyệt vời, gió mưa giữa trời
Không ước thề xui khiến gặp nhau
Từ giây phút đầu nghe trái tim sầu
ĐK:
Hà Tiên, trông dáng em mỹ miều
Bên bướm hoa dập dìu,
em đưa anh về thăm lăng Mạc Cửu
Biển rộng bình an ôm hòn phụ tử
Mênh mông gió lộng thạch động
Làm xao xuyến,
khi về lưu luyến thương quá Hà Tiên
Mai giã biệt Hà Tiên,
xa anh, lòng sao bùi ngùi
Đời gối mỏi bôn ba,
tha phương nhớ hoài người thương
Thuyền xa bến ôm ấp kỷ niệm với bao nỗi niềm
Năm tháng buồn hiu hắt chờ mong

Hà Tiên vẫn đẹp yêu dấu bên lòng ./.


HÀ TIÊN THƠ MỘNG
Về phía Tây của ba tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Châu Đốc là vùng Rạch Giá Hà
Tiên. Dới thời các chúa Nguyễn, đồng bằng Nam bộ có 3 dinh (Biên Hòa, Gia Định và
Long Hồ) và trấn Hà Tiên. Thuở ấy Hà Tiên trấn bao gồm một vùng bạt ngàn từ Hà
Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ, Bạc Liêu, và Long Xuyên (Cà Mau ngày nay). Đến khi Nam
kỳ chia làm 6 tỉnh thì tỉnh Hà Tiên vẫn bao gồm những vùng đất trên. Về vị trí (của Hà
Tiên trong Nam Kỳ Lục Tỉnh), phía Đông và Tây Nam của Hà Tiên giáp An Giang, Tây
giáp Vịnh Thái Lan và Tây Nam giáp biển Đông, phía Bắc giáp Cao Miên. Đất Hà Tiên
do Mạc Cửu, một trung thần của nhà Minh, không phục nhà Thanh, nên di cư sang
khai khẩn lập nghiệp. Đến năm 1714 thì xin nội thuộc nhà Nguyễn.


Năm 1735, sau khi Mạc Cửu qua đời, con là Mạc Thiên Tứ lên thay làm Tổng Trấn Hà
Tiên. Năm 1757, sau khi ông xin Chúa Nguyễn được hỗ trợ giúp đưa vua Miên là Nặc
Tôn về xứ và đánh dẹp bọn loạn thần, Nặc Tôn nhớ ơn bèn dâng 5 phủ là Châu Sum,
Sài Mạt, Linh Quỳnh, Cần Bọt và Vũng Thơm cho Thiên Tứ, ông bèn đem năm phủ ấy
xin nội thuộc vào chúa Nguyễn. Chúa cho lập ra 5 đạo gồm Kiên Giang (Rạch Giá),
Long Xuyên (Cà Mau ngày nay), Trấn Giang (Cần Thơ ngày nay), Ba Xuyên (Sóc
Trăng) và Bạc Liêu. Như vậy tính đến năm 1757 thì toàn bộ Nam Kỳ đã nội thuộc Việt
Nam. Về sông ngòi thì Hà Tiên trong Nam Kỳ Lục Tỉnh, vùng Rạch Giá và Chương
Thiện có hai con sông lớn là Đại Giang (sông Cái Lớn) và Tiểu Giang (sông Cái Bé),
riêng vùng Cà Mau thì có sông Bồ Đề. Sau khi Pháp chiếm xong Nam Kỳ, chúng chia
Hà Tiên ra thành năm tỉnh là Hà Tiên, Rạch Giá, Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng. Một
phần của Trấn Giang (Cần Thơ) được sáp nhập vào tỉnh Tam Cần (tỉnh lỵ đặt tại quận
Trà Ôn). Trước khi Pháp chiếm Nam Kỳ, thì Hà Tiên hãy còn là một tỉnh rộng lớn có
hạng trong sáu tỉnh của Nam Kỳ Lục Tỉnh. Công nghiệp khai khẩn, xây dựng và phát
triển vùng Hà Tiên gắn liền với dòng họ Mạc di dân từ Trung Quốc hơn 300 năm về

trớc, từ thời Mạc Cửu, đến Mạc Thiên Tứ và Mạc Tử Sanh Thuở ấy dù Mạc Cửu đã
dâng đất Hà Tiên cho các chúa Nguyễn, nhưng các chúa vẫn tiếp tục cho ông cha
truyền con nối làm Tổng Trấn, và dòng họ Mạc đã liên tục ba đời đem hết công sức
của mình biến vùng đất hoang sơ ấy thành một vùng phì nhiêu trù phú. Điều khó khăn
nhất cho vùng Hà Tiên chính là nơi khai sanh ra Chiêu Anh Các, một thi văn đàn sớm
nhất của miền Nam do Mạc Thiên Tích sáng lập. Đồng thời Hà Tiên cũng là nơi sinh
trưởng của cố thi sĩ Đông Hồ, một nhà thơ và nhà văn hóa lớn của Việt Nam vào thế
kỷ 20. Vì nước ngọt rất khan hiếm, nên thời Mạc Cửu ông đã khuyến khích nhà nhà
đào ao trồng sen để giữ nước ngọt đủ xài cho cả năm. Hà Tiên là một vùng hết sức
đặc biệt, vì nằm ngay trong vùng châu thổ sông Cửu Long nhưng lại có nhiều hang
động đẹp chỉ sau có Hạ Long. Về phía Đông thị xã Hà Tiên là Đông Hồ, dài chừng 3
cây số, rộng gần 2 cây số, hữu ngạn bờ hồ có núi Ngũ Hổ, tả ngạn là núi Tô Châu
sừng sững như thách đố cùng tuế nguyệt, về phía Đông của hồ là sông Giang Thành
và phía Tây là sông Hà Tiên. Đông Hồ là một hồ nước rộng gần 6 cây số vuông, mặt
nước phẳng lặng giữa bốn bề sông núi hùng vĩ, tạo ra thắng cảnh thật tự nhiên và thơ
mộng. Cách Hà Tiên chừng 4 cây số về phía Tây là mũi Nai, một mỏm đá cao khoảng
100 mét nằm nhô ra biển, tại đây người ta có thể trông thấy bờ Đông Bắc đảo Phú
Quốc dễ dàng. Trên đỉnh mũi Nai là ngọn hải đăng được Pháp xây hồi thế kỷ thứ 19.
Tuy mỏm đá của Mũi Nai nhô cao ra ngoài, nhưng bãi biển tại đây lại bằng phẳng, rất
thích hợp cho việc tắm biển. Đi trên quốc lộ 17 về phía biên giới Miên Việt, cách thị xã
Hà Tiên chừng 3 cây số chúng ta sẽ đến Thạch Động hay "Thạch Động Thôn Vân"
(động đá nuốt mây). Từ trên phi cơ nhìn xuống từ xa xa, Thạch Động như một tảng
đá thật to nằm cheo leo một mình giữa một vùng bình nguyên bằng phẳng, cửa động
nằm trên cao độ 50 mét, không riêng gì buổi sáng và chiều mà hầu như lúc nào mây
cũng vắt ngang qua động, dù động không cao lắm. Trong động có nhiều hang khá
rộng, được tạo nên bởi sự xâm thực đá từ cuộc nước rút (khoảng 4 hay 5 mét) sau
cùng cách nay khoảng 1 .200 năm. Rồi những dòng nước theo ngàn năm xâm thực
đá đã tích tụ vô số những thạch nhũ tuyệt đẹp và độc đáo trong hang. Ngoài ra, trên
một ngọn đồi cách thị xã Hà Tiên chừng 2 cây số về phía Tây còn nhiều di tích lăng
mộ của dòng họ Mạc, xây dựng cách nay trên 300 năm.


Chính giữa là lăng Mạc Cửu, hai bên là lăng mộ của con cháu như quan Tổng Binh
Mạc Thiên Tích, Tham Tướng Mạc Tử Hoàng, lăng bà Mạc Thiên Tích, Mạc Công Du,
Mạc Công Tây, v.v. Dưới chân đồi là nhà thờ dòng họ Mạc, luôn mở rộng cửa đón
khách đến thăm viếng. Hiện tại Hà Tiên vẫn còn dấu tích một chiến lũy là một bờ
thành trồng toàn tre gai dài gần 2 cây số, rộng khoảng 1 cây số do Mạc Thiên Tích
xây dựng để ngăn giặc Xiêm và Miên. Tại chân núi Bình Sơn, gần thị xã Hà Tiên có
chùa Phù Dung, còn gọi là Phù Cừ Am Tự, do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tích
dựng lên vào khoảng giữa thế kỷ 18. Tục truyền rằng ông Mạc Thiên Tích đã dựng
chùa này bà Ai Cơ Phù Cừ Nguyễn thị Xuân, vợ thứ hai của ông đến tu. Trong khuôn
chùa hãy còn khu mộ của bà Nguyễn thị Xuân và bốn vị sư truyền thừa sau này.
Trong thị xã Hà Tiên còn có chùa Tam Bảo do Mạc Cửu xây dựng vào năm 1730 và
được trùng tu lại vào năm 1930. Cách Hà Tiên khoảng 30 cây số về phía Nam dọc
theo bờ biển là khu vực đồi núi Hòn Chông (nằm trong xã Bình An, quận Kiên Lơng).
Hòn Chông là một hang động sát bờ biển, đã từng là nơi trú ẩn của Nguyễn ánh khi bị
Tây Sơn truy lùng. Hiện nay, thỉnh thoảng người ta còn tìm gặp một số tiền kẽm mà
Nguyễn ánh đã cho đút trong hang động này. Bãi biển Hòn Chông hãy còn hoang sơ,
yên tĩnh và đẹp. Nằm sát biển là những hàng dương liễu, người ta gọi là Bãi Dương,
dài khoảng 2 cây số, là một trong những bãi tắm tốt nhất của vùng Hà Tiên.Núi Tô
Châu
Sau Bãi Dương là một mỏm đất pha đá nằm nhô ra biển, trên một ngọn đồi nhỏ, đó là
Hòn Trẹm. Từ Hòn Trẹm đi khoảng 1 cây số là chùa Hang, chùa nằm sâu trong hang
đá khoảng 40 mét, mặt hướng về đất liền. Trong hang, những thạch nhũ thõng xuống
tạo ra một thứ ánh sáng lờ mờ huyền ảo như một cảnh trong truyện thần tiên. Hang đi
luồn ra phía sau ngó thẳng ra một vùng biển trong xanh. Ngoài khơi chùa Hang là
Hòn Phụ Tử nằm sừng sững giữa khoảng trời, mây, nước bao la như một góc nhỏ
của Vịnh Hạ Long (cố thi sĩ Đông Hồ đã có bài vịnh về Hà Tiên như vậy). Xa xa phía
trên là những hàng cây thốt nốt nhớ hình ảnh xa xưa của đất nước Chân Lạp hay Phù
Nam một thời vang bóng. Về phía Tây Nam của hòn Phụ Tử là Hòn Nghệ cách bờ
khoảng 2 giờ đi thuyền máy. Hòn Nghệ tuy nhỏ với những đá lông chông, nhưng lại

có những bãi tắm nước xanh ngắt. Đây là một trong những bãi tắm đẹp nhất trong
vùng. Hòn Chông còn là một khu thiên nhiên biển, núi, rừng pha lẫn, và hãy còn nhiều
loại động vật hiếm quý trú ngụ. Đây là một vùng tài nguyên vô tận về đá vôi trong khu
vực Kiên Lương. Ngoài đường bộ đi về Rạch Giá, Hà Tiên còn có cả đường bộ lẫn
đường thủy đi về Châu Đốc dọc theo kinh Vĩnh Tế. Ngoài khơi của Hà Tiên là đảo
Phú Quốc, rộng trên 50.000 mẫu Tây, nơi chẳng những nổi tiếng về nước mắm, cá
khô, tôm khô, mà còn nổi tiếng về du lịch với những thắng cảnh thiên nhiên trên đảo.
Trong những năm đầu của thời Đệ nhứt Cộng Hòa, tỉnh Hà Tiên trở thành quận và
sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá cho tới ngày hôm nay. Ngoài ra, ngoài khơi Hà Tiên, còn
rất nhiều hòn nhỏ rất đẹp khác.


TÌM HIỂU LỊCH SỬ HÌNH THÀNH HÀ TIÊN
Nói đến công cuộc khai phá vùng đất trấn Hà Tiên trong giai đoạn ban đầu - vào những
thập kỷ cuối thể kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, một vấn đề đặt ra là nên đánh giá vai
trò và công lao của họ Mạc - Mạc Cửu và con là Mạc Thiên Tích - như thế nào cho đúng.
Về vấn đề này trước nay đã có nhiều ý kiến nêu lên, tuy có khác nhau về sắc thái, nhưng
tựu trung đều nhấn mạnh hoặc ra sức đề cao vai trò và công lao của hai cha con họ Mạc,
coi đó là nhân tố quyết định đối với công cuộc khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên lúc
mới bắt đầu, quy kết tất cả công lao khai phá Hà Tiên về cho Mạc Cửu và con là Mạc
Thiên Tích.

Nổi bật nhất là Trần Kinh Hoà, một học giả nghiên cứu và giảng dạy Sử ở Đài Loan, trong diễn
văn “Họ Mạc và chúa Nguyễn ở Hà Tiên” đọc tại trụ sở Hội Nghiên cứu liên lạc văn hoá Á
châu của chính quyền Sài Gòn ngày 7-9-1958, đã khẳng định rằng “Hà Tiên dưới thiện chí của
Mạc Cửu ngày một thịnh vượng, nhân dân được an cư lạc nghiệp, xã hội Hà Tiên là một xã hội
văn nhã”(1). Trần Kinh Hoà còn cho là về phương diện chính trị, họ Mạc ở Hà Tiên lúc nào
cũng giữ được thực quyền của một tiểu bang - một chính quyền tự chủ đã từng đóng vai trò
“nước hoãn xung” giữa ba nước Việt Nam - Xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn, Xiêm La và
Chân Lạp.

Một vài người khác cũng có quan điểm đề cao vai trò của Mạc Cửu như Trần Kinh Hoà. Họ
cho rằng sau khi đến Hà Tiên, Mạc Cửu đã tổ chức chiêu mộ những người dân lưu tán từ khắp
nơi hoặc nông dân định cư tại chỗ tập trung vào việc khai thác. Không những thế, Mạc Cửu
còn chia đất và mau sắm những nông cụ cần thiết cho những lưu dân tiến hành khai thác ruộng
đất, nhờ đó mà vùng đất Hà Tiên vốn khắc nghiệt sớm trở thành một vùng đất trù phú. Sự thật
có phải thế không?
Khi đề cập đến công cuộc khai thác, cần có sự phân biệt rạch ròi giữa việc xây dựng và phát
triển về mặt kinh tế - chủ yếu là kinh doanh buôn bán - vùng phố thị Hà Tiên (tức thị xã Hà
Tiên ngày nay) với việc mở mang khai phá vùng đất thuộc trấn Hà Tiên nói chung. Đó là hai
công việc hoàn toàn khác nhau về nội dung, quy mô và địa bàn. Nói cách khác, cần có sự phân
biệt giữa việc đứng ra tổ chức xây dựng và phát triển vùng phố thị Hà Tiên của Mạc Cửu và
Mạc Thiên Tích với việc mở mang khai phá cả vùng đất thuộc trấn Hà Tiên của những lưu dân
và cư dân địa phương.
Trước hết cần tìm hiểu việc xây dựng và mở mang vùng lỵ sở Hà Tiên mà sử cũ gọi là Mang
Khảm hay Phương Thành.

Theo sử cũ thì vùng lỵ sở Hà Tiên tục xưng là Mang Khảm, tiếng Trung Quốc gọi là Phương
Thành, trước khi Mạc Cửu đến ở và kinh dinh, đã là một cảng khẩu có tàu bè nước ngoài đến
buôn bán hoặc ghé qua trên đường di chuyển. Việc buôn bán ở đây đã có sự tấp nập ở một mức
độ nhất định. Chính yếu tố này đã kích thích Mạc Cửu, vốn là một thương nhân buôn bán lớn
trên mặt biển(2), nhanh chóng chuyển từ Nông Pênh về phủ Sài Mạt để hoạt động. Và sau khi
đặt chân đến Hà Tiên, việc làm đầu tiên và chủ yếu của ông ta là mở tiệm hút, trưng mua việc
thu thuế hoa chi các sòng bạc lớn để làm giàu, mà điều này chỉ có thể làm được một khi Mang
Khảm đã là một trung tâm giao dịch buôn bán lớn có nhiều thương nhân giàu có.

Sau khi trở nên giàu có nhờ việc mở tiệm hút, tổ chức sòng bạc thu hoa chi, đào được hầm bạc,
Mạc Cửu liền nghĩ tới và bắt tay ngay vào việc phát triển công cuộc kinh doanh buôn bán của
Hà Tiên, nhất là việc buôn bán với nước ngoài, mở mang phố chợ, xây dựng thành quách, theo
Gia Định thành thông chí là thành đất, còn theo Văn hiến thông khảo của nhà Thanh thì đó là
thành cây. Nhiều tài liệu cho thấy Mạc Cửu đã kêu gọi và đón nhận thuyền buôn các nước đến

buôn bán(3), đồng thời cũng chủ động đặt quan hệ buôn bán với các nước. Năm 1728 và năm
1729, Mạc Cửu phái Lưu Vệ Quân và Huỳnh Tập Quan mang hai thương thuyền sang Nhật
Bản liên hệ việc mậu dịch, được chính phủ Nhật Bản - Mạc Phủ Đức Xuyên - cấp giấy phép
buôn bán. Năm 1731 và năm 1732, lại phái thương thuyền sang Nhật. Việc buôn bán với Trung
Quốc cũng được bắt đầu từ năm 1729, từ đó những thổ sản của Hà Tiên như hải sâm, cá khô,
tôm khô v.v… lục tục xuất cảng sang Trung Quốc(4).

Để khuyến khích tàu buôn nước ngoài đến buôn bán, Mạc Cửu đã cho thi hành một chính sách
thuế hàng hoá khá ưu đãi. Hàng hoá buôn bán chỉ phải chịu một món thuế nhỏ mà thôi(5).

Đến thời Mạc Thiên Tích, kế tục sự nghiệp của Mạc Cửu, Thiên Tích càng ra sức đẩy mạnh
việc thông thương với nước ngoài. Năm 1740 và 1742, Thiên Tích hai lần phái hai thuyền chủ
Ngô Chiêu Viên và Lâm Thiên Trường cùng thuyền buôn sang Nagasaki để xúc tiến việc mậu
dịch với Nhật Bản. Đi đôi với việc mở rộng buôn bán với các nước, Thiên Tích còn khuếch
trương việc xây dựng phố chợ, đường xá, xây cất dinh thự, đền miếu, trại quân, kho tàng, công
xưởng (xưởng sửa chữa tàu thuyền), thành luỹ v.v… làm cho bộ mặt của phố cảng Hà Tiên
càng được đổi mới, càng trở nên sầm uất với cảnh “đường lối tiếp giáp, phố xá liền lạc, người
Việt, người Tàu, người Cao Miên, người Đồ Bà đều theo chủng loại cư trú, ghe thuyền ở sông
biển qua lại nơi đây không dứt, thật là một đại đô hội nơi góc biển vậy!”

Toàn bộ những hoạt động nói trên của Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã nhanh chóng mang lại
sự mua bán sầm uất, trù mật cho phố cảng Hà Tiên, từ đó đã thu hút thêm nhiều lưu dân đến ở
trong đó có người Việt, người Hoa, người Giava và dân cư Khơme gần bên. Chúng ta có thể
coi đó làm một sự đóng góp trực tiếp và to lớn của hai cha con Mạc Cửu vào sự thịnh vượng
của phố cảng Hà Tiên vào những thập niên đầu thế kỷ XVIII. Đó là điều cần được khẳng định
và không phải bàn cãi. Song, ngoài việc mở mang phố cảng Hà Tiên, điều chúng ta muốn biết
nhiều hơn, đó là tình hình khai phá trên toàn địa bàn trấn Hà Tiên nói chung đã diễn ra như thế
nào dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích và vai trò của cha con họ Mạc ở đây ra sao?

Mở mang trấn Hà Tiên


Chúng ta biết rằng từ những thập niên cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII, một số khá đông
những người nông dân nghèo lưu tán vùng Thuận Quảng đã lần lượt di chuyển vào vùng Đồng
Nai – Gia Định để trốn tránh sự áp bức bóc lột, nạn binh dịch, sưu thuế của giai cấp thống trị
phong kiến Đàng Trong. Trên con đường đi tìm đất sống, một số đã dừng chân ở vùng Mô
Xoài, Bà Rịa, Đồng Nai, Bến Nghé, Mỹ Tho, Bến Tre…, một số theo đường biển dọc theo
vịnh Xiêm La. Điều đó có nghĩa là trước khi Mạc Cửu đặt chân đến Hà Tiên, những lưu dân
người Việt, người Hoa… đã đến định cư tại đây cùng với cư dân địa phương - người Khmer,
làm ăn sinh sống và Mạc Cửu chỉ là người có công đứng ra nhóm họp họ lập thành làng xóm
mà thôi. Về điểm này, chúng tôi cho rằng Trịnh Hoài Đức đã rất đúng khi viết: “…hựu chiêu
Việt Nam lưu dân ư (tôi nhấn mạnh - H.L) Phú Quốc, Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch
Giá, Càu Mau đẳng xứ, lập thất xã thôn dĩ sở cư”. (Tạm dịch là: lại nhóm họp - chữ “chiêu”
trong câu này phải hiểu là chiêu tập, có nghĩa là nhóm họp lưu dân người Việt ở Phú Quốc,
Lũng Ký, Cần Bột, Vũng Thơm, Rạch Giá, Cà Mau lập làm bảy thôn để ở)(7). Rất tiếc đã có
không ít người có thể do quên mất chữ “cư”, mà ngộ nhận rằng Mạc Cửu đã đứng ra chiêu mộ
lưu dân người Việt từ các nơi khác đưa họ đến vùng dải đất ven biển và tổ chức công cuộc khai
phá ở đây, gắn cho Mạc Cửu một công lao to lớn mà ông không hề có.

Rõ ràng là Mạc Cửu không hề đứng ra chiêu mộ những người lưu tán từ các nơi khác, đưa về
an sáp nơi đây, càng không có việc Mạc Cửu đứng ra tổ chức công cuộc khai phá vùng đất
hoang mạc này. Trái lại chính là những người dân tự mình đến đây định cư và họ cũng tự mình
đứng ra khai thác các nguồn lợi nơi đây, trong đó có việc khai phá đất đai để trồng trọt, giải
quyết cái ăn cái mặc cho mình.

Công cuộc khai phá khu vực trấn Hà Tiên bao gồm cả dải đất ven biển từ trấn lỵ Hà Tiên chạy
dài xuống Cà Mau và sang phía Hậu Giang trong những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu
thế kỷ XVIII, tức là dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích đã diễn ra khá chậm chạp và kết
quả đạt được còn rất hạn chế.

Tóm lại, dưới thời Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, cả một vùng rộng lớn thuộc trấn Hà Tiên,

công cuộc khai phá mở mang đất đai nông nghiệp trồng lúa chưa tiến triển mấy do môi trường
tự nhiên nhiều khó khăn, nhưng cái chính vẫn là do trình độ kỹ thuật khai thác đất đai còn bị
hạn chế. Những người dân lưu tán Việt, người Hoa, người Giava… và cư dân địa phương mà
dân số hãy còn quá ít ỏi, phần lớn hoặc sống bằng nghề buôn bán hoặc sống bằng nghề chài
lưới (những người ở phố chợ Hà Tiên và cảng Hà Tiên, những người ở phố chợ Rạch Giá và
cảng Kiên Giang, những người ở cảng Đại Môn thuộc đạo Kiên Giang, ở cảng Đốc Huỳnh,
cảng Gành Hào, thuộc đạo Long Xuyên, những người ở dọc theo ven biển). Chỉ có số ít nông
dân ở Rạch Giá và Cà Mau là chuyên sống về nghề nông trồng lúa, do đó đất đai ở đây được
khai phá tương đối chậm so với các vùng khác. Đến đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức vẫn còn
ghi nhận về trấn Hà Tiên như sau: “Trấn Hà Tiên phong tục tập quán theo Trung Hoa, mà ít có
hạng thân sĩ. Người Kinh (tức là người Việt - HL), người Thượng ở xen lộn, chuyên việc buôn
bán, người Trung Quốc, người Cao Miên (tức người Khơme - HL), người Đồ Bà (tức người
Giava - HL) phần đông ở theo bờ biển, địa lợi chưa khẩn trưng, nhân dân không có đất đai, nên
dời đổi chỗ ở bất thường. Duy có hai đạo Long Xuyên (tức Cà Mau - HL) và Kiên Giang (tức
Rạch Giá HL) có số nông dân biết chăm lo căn bản, cho nên các địa hạt thuộc trấn này thường
nhờ lúa gạo của hai đạo ấy để cấp dưỡng”(10). “Và ruộng ở huyện Long Xuyên và huyện Kiên
Giang thuộc trấn Hà Tiên cũng tương tự ruộng (trấn) Vĩnh Thanh mà địa lợi chưa khẩn
hết”(11).

Mặc dù công cuộc khai phá đất đai ở trấn Hà Tiên trong nửa đầu thế kỷ XVIII chưa tiến triển
mấy, nhưng những kết quả khiêm tốn mà những người dân lưu tán đã thu lượm được bằng
chính công sức, mồ hôi nước mắt của mình đã đặt nền móng cho công cuộc khai thác vùng đất
đai rộng lớn phía Tây Nam của Tổ quốc trong các thời kỳ sau.
Tìm hiểu công cuộc khai phá và sự phát triển về kinh tế văn hoá của vùng đất Hà Tiên trong
những thập niên cuối thế kỷ XVII và nửa đầu thế kỷ XVIII, là một việc làm có ý nghĩa to lớn
trong việc khai thác và phát huy truyền thống của địa phương. Nhưng khi đề cập đề tài này thì
một vấn đề được đặt ra ngay tức khắc là xác định như thế nào cho đúng đắn vai trò của họ Mạc
cụ thể là Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích trong sự nghiệp ấy. Đó là một vấn đề có tầm quan trọng
to lớn bởi vì nó là một vấn đề lịch sử nhưng lại mang ý nghĩa chính trị thực tiễn sâu sắc.
THÊM TƯ LIỆU VỀ LỊCH SỬ HÀ TIÊN

Có thể nói vùng đất Hà Tiên - Kiên Giang hội tụ được hầu hết dáng vẻ của nhiều danh
lam thắng cảnh nổi tiếng trong nước. Hãy đến Hà Tiên một lần để hiểu và yêu hơn mảnh
đất đầu sóng ngọn gió.
Được khai mở vào đầu thế kỉ thứ 18, cách thành phố Rạch Giá 93 km, Hà Tiên từ lâu đã
nổi tiếng có nhiều thắng cảnh đẹp, thu hút nhiều lượt khách tham quan. Không ai nhớ
chính xác tên gọi này có từ bao giờ. Chỉ biết Hà Tiên xưa kia thuộc vùng đất Mang Khảm
(tục danh Trấn Phiên thành, còn gọi là Đồng Trụ trấn). Tương truyền rằng, ngày xưa vì
mến cảnh trần gian nơi đây có nhiều cảnh đẹp, non nước hữu tình, tiên nữ thường xuất
hiện, vậy là có tên Hà Tiên.

Năm 1679, Mạc Cửu (quê quán Lôi Châu, Quảng Đông, Trung Quốc) vì bất mãn với chế
độ nhà Thanh, lưu lạc đến vùng đất Hà Tiên, chiêu tập lưu dân lập nên xứ Hà Tiên. Năm
Hiển Tông đời thứ 7, nghe lời mưu sĩ Tô Quân cùng các thuộc hạ Trường Cầu, Lý Xá
dâng biểu cầu thân với nhà Nguyễn. Kể từ ngày đó, Hà Tiên trở thành mảnh đất cuối
cùng của đất Việt về hướng Tây Nam.

Bãi biển Mũi Nai - Hà Tiên
Vào thế kỉ XVIII, Hà Tiên là một thị trấn buôn bán sầm uất, một hải cảng luôn có mặt
các tàu buôn phương Tây và các nước Nam Á, trong hải trình từ Tây sang Đông và
ngược lại. Những tàu này thường xuyên cập bến, những hiệu buôn của người Hoa lẫn
người Việt lần lượt mọc lên, buôn bán nhộn nhịp. Quán xá, hiệu ăn và các cửa hàng mỹ
nghệ bày bán mời gọi mọi người. Bãi biển quanh năm đông người. Những lưu dân từ các
tỉnh miền ngoài lũ lượt đi thuyền, vượt sóng gió vào Nam, tới đây vừa buôn bán, vừa
đánh bắt hải sản mà cũng để giao lưu với người nước ngoài. Một nền văn hóa, thi ca một
thời phát đạt, cực thịnh, còn lưu lại tiếng tăm của một thi đàn luôn luôn quyến rũ tao
nhân mặc khách từ nhiều địa phương tới ngâm vịnh, ngoạn cảnh.
Còn bây giờ khi đến vùng đất này mới thấy Hà Tiên không ra dáng vẻ của một đô thị như
trong suy nghĩ của mọi người: không nhà cao tầng, không tiếng còi xe rầm rập suốt ngày,
không ồn ào xô bồ Nơi đây thật lặng lẽ, yên bình như một làng quê xưa với nét uy nghiêm
của những chứng tích lịch sử cùng nét hoang sơ của những tạo tác mà thiên nhiên đã ban tặng

cho mảnh đất này.

Những mái ngói cổ rêu phong nghiêng nghiêng trong nắng chiều, trong cái gió hanh hao
mang theo vị mặn của biển đã tạo nét riêng cho xứ sở Hà Tiên. Hà Tiên nghèo nhưng
đẹp, nhiều người bảo vậy!

Bạn đã nghe chưa Hà Tiên Thập Vịnh, nơi Tao Đàn Chiêu Anh Cát, nơi vị tổng trấn Mạc
Thiên Tích tập hợp những anh tài trong thiên hạ. Hà Tiên đẹp lắm, nét đẹp tự ngàn xưa!
Hà Tiên thập vịnh là mười bài thơ làm để vịnh mười cảnh đẹp của Hà Tiên do Mạc Thiên
Tích đề xướng từ năm Bính Thìn 1736. Đó là:

Kim dự lan đào
Bình san điệp thuý
Tiêu tự thần chung
Gianh thành dạ cổ
Thạch động thôn vân
Châu nham lạc lộ
Đông hồ ấn nguyệt
Nam phố trừng ba
Lộc trĩ thôn cư
Lư khê ngư bạc

Mười bài thơ này khi đọc lên sẽ làm cho bạn càng thêm thích thú nhất là khi bạn đang ở
Hà Tiên. Và bạn sẽ tự hỏi mình sẽ đi thăm cảnh đẹp nào trong mười cảnh đẹp này đây?
Mười cảnh này nơi nào cũng đáng xem cả, mỗi nơi một vẻ nhưng “Bình san điệp thúy” là
nơi đáng đến, một nơi rất đáng xem. Bình là tấm bình phong, san là núi. Bình san là dãy
núi dựng như bức bình phong sau thành Hà Tiên. Điệp là trùng trùng điệp điệp, lớp lớp,
từng từng. Thúy là màu xanh chi trả. Bình san điệp thúy là ngọn núi như tấm bình phong
sắc xanh lớp lớp. Từ trên núi Bình San, Hà Tiên hiện ra thơ mộng đến vô cùng: một bên
là biển Đông mênh mông, một bên là núi Voi Phục, điểm xuyết là những núi đá vôi cô độc

càng tôn thêm vẻ đẹp riêng của xứ sở Hà Tiên mà không nơi nào có được! Đã đến Hà
Tiên không thể nào không ghé thăm từ đường của dòng họ Mạc được khởi đầu từ Tổng
binh Mạc Cửu. Khi ông qua đời, nhà Nguyễn đã phong tặng tước hiệu Khai trấn Thượng
trụ quốc Đại tướng quân Vũ Nghị công. Những bậc thang đá đưa du khách viếng thăm
nơi an nghỉ của những người đã có công khai phá xứ Hà Tiên hơn 300 năm trước. Mạc
Cửu giỏi tài dụng binh, Mạc Thiên Tích giỏi văn, người có công lập ra tao đàn Chiêu Anh
Các để mỗi mùa trăng tròn ngắm trăng làm thơ tại Bảo nguyệt liên trì (đối diện đền thờ
Mạc Công)

Hà Tiên có Thạch Động còn gọi là Vân Sơn. Chẳng biết tự bao giờ mà người dân Hà Tiên
tự hào: Thạch động chính là nơi khởi nguồn của câu chuyện cổ tích Thạch Sanh chém
chằn thấm sâu trong ký ức tuổi thơ. Vào sâu trong Thạch Động, thạch nhũ lâu ngày đã
tạo những hình thù: con chằn, một cô gái tóc dài mà dân gian quen gọi là Phật Bà Quan
Âm Trí tưởng tượng con người được dịp bay bổng. Từ đây, đi bộ thêm vài bước chân là
tới cửa khẩu Xà Xía, bên kia là đất nước Chùa Tháp.
Thạch Động
Dọc theo biển, xuôi về hướng Nam, du khách sẽ đến một cụm thắng cảnh nổi tiếng của
Hà Tiên là Hòn Chông. Nước biển ở đây xanh ngắt, không thua kém gì biển miền Trung.
Điểm nhấn khi đến Hòn Chông là được ngắm nhìn hòn Phụ Tử ngày đêm sóng vỗ của
những huyền thoại thắm đượm tính nhân văn của người dân Việt: hai cha con đã tiêu
diệt thủy quái; người cha cứ mỗi chiều dẫn đứa con bé bỏng ra trước biển ngóng về miền
quê xa với nỗi nhớ khôn nguôi

Từ chùa Hang, chỉ vài phút bồng bềnh trên ca nô vượt sóng sẽ đến hang Gia Long với
những hình thù do thạch nhũ tạo ra như ghế Gia Long, hình Đường Tăng, giếng Tiên,
tượng Phật Bà Quan Âm để trí tưởng tượng của con người một lần nữa bay cao! Chỉ
thấy tiếc là không nghỉ lại tại Hòn Chông để có dịp ngắm biển, hít thở không khí trong
lành mằn mặn vị biển và yên tĩnh đến vô cùng. Chính vì lẽ đó mà bây giờ Hòn Chông
được xây dựng tiện nghi hơn để phục vụ khách đường xa.


Hòn Phụ Tử
Còn nhiều lắm những di tích, thắng cảnh của xứ Hà Tiên: đình Nguyễn Trung Trực, mộ
Bà lớn tướng Lê Kim Định, đền Phó Cơ Điều, Sắc tứ Tam bảo tự, chùa Phù Dung (còn
gọi là am Phù Cừ) mà người dân tự hào là Hà
Tiên thập cảnh. Có thể nói vùng đất Hà Tiên hội tụ
được hầu hết dáng vẻ của nhiều danh lam thắng
cảnh nổi tiếng trong nước. Hãy đến Hà Tiên một
lần để hiểu và yêu hơn mảnh đất đầu sóng ngọn gió.


Lăng miếu Hà Tiên
Hà Tiên, vùng đất tận cùng Tổ quốc là nơi có nhiều danh thắng văn hóa lâu
đời. Du khách đến đây không thể không ghé thăm nhiều đền, chùa, miếu
cổ đã ra đời cách đây gần 300 năm.
Hà Tiên gắn liền với thi ca, nổi tiếng với Tao đàn Chiêu anh các, ra đời
cách đây 300 năm, sau Tao đàn Nhị thập bát tú của vua Lê Thánh Tông
(năm 1495). Chiêu anh các do Mạc Thiên Tích, lúc bấy giờ là đô đốc trấn
Hà Tiên, sáng lập vào thế kỷ 18 (năm 1736), có 32 thi sĩ. Tao đàn tồn tại
trên 40 năm, xuất bản được 6 thi tập, trong đó nổi tiếng có Hà Tiên thập
cảnh toàn tập tả 10 cảnh đẹp của đất Hà Tiên.
Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình
Non non nước nước gẫm nên xinh
Đông Hồ, Lộc Trĩ luôn dòng chảy
Nam Phố, Lưu Khê một mạch xanh
Tiên Tự, Giang Thành chuông trống ỏi
Châu Nam, Kim Dự cá chim quanh
Bình San, Thạch Động là rừng cột
Sừng sững muôn năm vẫn để dành
Con đường dẫn vào khu vực núi Bình San có hai hồ chứa nước ngọt có cách
đây trên 200 năm.Từ xưa cho đến nay, hồ là nguồn nước dự trữ cho sinh

hoạt của người dân Hà Tiên trong mùa khô hạn.
Cạnh chân núi là đền thờ Mạc Lệnh Công (di tích lịch sử được Bộ Văn hóa-
Thông tin xếp hạng). Năm 1818, đời vua Gia Long thứ 17, trấn thủ Mạc
Công Du, cháu 4 đời của Mạc Cửu, thừa lệnh vua thiết lập đền thờ Trung
Nghĩa Từ, lúc ban sơ đền được xây bằng gỗ lợp lá. Năm 1846 (Thiệu Trị
thứ 6) quan tỉnh sở tại xin vua chuyển đền thờ ra phía tây chân núi và đổi
tên là Tam Mạc Công Từ. Đến năm Thành Thái thứ 9 (1897), hội Lạc Thiên
vận động nhân dân đóng góp tiền công trùng tu lại đền và khánh thành vào
ngày 22-1-1902 rồi giữ nguyên đến nay.
Chốn tôn nghiêm này phụng từ ba vị công thần, với phần giữa chính điện là
Khai trấn Thượng trụ Quốc đại tướng quân, Vũ Nghị Công Trung Đăng
thần Mạc Cửu (giỗ ngày 27-5 âm lịch hằng năm), bên tả là Đạt nghĩa Tống
binh Đại Đô đốc Quốc lão, Quận công Mạc Thiên Tích (giỗ ngày 5-10 âm
lịch). Bên hữu là Tham tướng coi cơ đạt Tân trụ, Quốc cẩm y vệ Đô đốc
trưởng cơ Lý chính hầu Mạc Tử Sanh. Tại khu vực này còn có tấm bia ghi
danh những bậc tiền bối sáng lập nên đất Hà Tiên, và bia ghi danh những
người có công xây dựng đền thờ, lăng tẩm các vị công thần. Sân trước chính
điện còn có một tấm bản đồ chỉ các vị trí các ngôi mộ trên núi Bình San.
Ngoài những tường rào bằng đá rêu phong dày được xây dựng cách đây gần
250 năm, còn có một con đường lên xuống lăng Mạc Cửu với hơn 500 bậc
thang. Trước lăng Mạc Cửu là sân rộng với những tượng kỳ lân, voi được
tạc bằng đá cổ rất công phu, trấn giữ quanh mộ. Nơi đây từng là nơi Mạc
Thiên Tích cùng các thi sĩ ngắm trăng làm thơ. Còn du khách có thể ngắm
cảnh đẹp Hà Tiên bốn phía. Xa xa là Thạch Động, thôn Vân, biển Đông Hồ,
núi Cô Tô.
Hà Tiên còn nổi tiếng với chùa Phù Dung, còn gọi là "Tiêu Tự", được xem
là ngôi chùa cổ nhất Hà Tiên. Trong quá trình tìm hiểu nền nhà Chiêu anh
các của Mạc Thiện Tích, người ta phát hiện có hai ngôi chùa Phù Dung:
ngôi chùa cổ ngày nay chỉ còn lại nền chùa, và cái tháp nằm ở hướng Tây
Nam núi Phù Dung. Còn ngôi chùa mới ở đầu bắc núi Bình San (gọi là Tiêu

Tự) chùa có trước năm 1820 - 1833. Những tường thành được xây bằng vật
liệu phức hợp (vôi cát trộn với ô đước và đường ngào), xây cất vào thế kỷ
18 (tường cao 5m, dày 1 m, nét cổ kính rêu phong. Còn tháp cổ hình bát
giác, có bia đá còn nguyên vẹn khắc dòng chữ Hán: "Lâm tế tam thập lục
Thế ấn đàm Lão hòa thượng chi tháp". Kế đó là di chỉ chùa, nền chùa xưa
còn nguyên những phiến đá làm chân tán cột gỗ nền dài 12m, rộng 9m.
Năm 1969, nhiều vật dụng được đào lên từ lớp đất đá sâu: những lư đồng,
lọ sành sứ, chum đựng gạo, đôn ngồi bằng đá tất cả còn được cất giữ tại
chùa Phù Dung. Chùa ngày nay được xây trên nền nhà Chiêu anh các cũ, ở
phía trước và bên hông đều có 7 bậc thang. Đến chùa Phù Dung, du khách
như bước vào một bảo tàng cổ, những gì còn lại của dòng họ Mạc, đã khai
sáng Hà Tiên.
Đi tiếp về hướng biên giới Tây Nam, sẽ gặp Thạch Động nằm bên thôn
Vân, cũng là thắng cảnh xưa nay hấp dẫn du khách. Con đường nhựa chạy
thẳng lên Thạch Động cách thị xã khoảng ba cây số. Bước lên 10 bậc thang
đá vào trong động, du khách gặp một ngôi chùa nằm trong lòng núi, bên
trong có nhiều tượng Phật lớn nhỏ. Lần theo các bậc đá lên trên lại gặp một
bàn thờ Phật lớn, trong hang lồng lộng gió mát lạnh. Luồn ra phía sau động,
du khách sẽ choáng ngợp với cảnh vách đá cheo leo và toàn cảnh thôn Vân,
cửa khẩu Xà Xía, xa xa là mũi Nai. Trong hang Thạch Động, nay còn
những thạch nhũ hình thù lạ mắt.

×