Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

VẤN đề rút RA từ NHỮNG bài học THÀNH CÔNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ cứu nước (1954 – 1975) ý NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.11 KB, 29 trang )

1

VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ NHỮNG BÀI HỌC THÀNH CÔNG TRONG CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975) - Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY.

MỞ ĐẦU
Cuộc khỏng chiến chống Mỹ, cứu nước của dõn tộc Việt Nam đó trụi
qua hơn một phần ba thế kỷ nhưng tầm vúc lớn lao và ý nghĩa trọng đại của
thắng lợi đó vẫn cũn ghi đậm dấu ấn trong lịch sử dõn tộc ta và lịch sử phong
trào cách mạng thế giới. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã chỉ rõ: thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân
tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự
toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào
lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm
quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc” 1. Nguyên nhân thắng lợi
của nhân dân Việt Nam, nguyên nhân thất bại của đế quốc Mỹ đã được nhiều
nhà khoa học, chính trị, quân sự ở nhiều nước, trong đó có Mỹ, tìm hiểu,
nghiên cứu. Mắc Namara - cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, đã phải thừa
nhận sự thất bại của Mỹ chính vì: “Chúng ta (Mỹ - TG) đã nhìn thấy ở họ (Việt
Nam - TG) niềm khao khát và quyết tâm chiến đấu giành tự do và dân chủ.
Chúng ta đã đánh giá hồn tồn sai các lực lượng chính trị trong nước”2.
Rõ ràng Mỹ đã thua vì tinh thần, thua vì “niềm khát khao và quyết tâm”
chiến đấu, thua vì nền độc lập tự do của nhân dân Việt Nam. Việt Nam chiến
thắng đế quốc Mỹ không phải chỉ bằng lực lượng vật chất, mà còn bằng lòng
. Đảng Cộng sản Việt nam, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 5 - 6.
2
. Rơbớt .S. Mắc Namara: Nhìn lại q khứ - tấm thảm kịch và những bài học về chiến


tranh Việt Nam, Nxb, CTQG, H. 1995, tr. 316.
1


2

quyết tâm cao độ, ý chí sắt đá của cả một dân tộc “thà hy sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó chính là sức
mạnh tinh thần đã từng bước được chuyển hố thành sức mạnh vật chất.
Thành cơng ấy thuộc về năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tư tưởng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ, tạo nên sự đồng thuận giữa ý Đảng - lòng dân, sự nhất trí cao giữa miền
Nam anh dũng và miền Bắc thuỷ chung, “trên dưới một lòng”, quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước là 21 năm trường kỳ ác liệt
chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Chính tại thời kỳ nhiều cam go thử thách
ác liệt này, công tác tư tưởng - một mặt của cơng tác đảng, cơng tác chính trị,
một yếu tố chiếm vị trí quan trọng hàng đầu tạo nên sức mạnh chiến đấu của
quân đội nhân dân Việt Nam, đã có những đóng góp đáng kể, những thành
cơng rực rỡ khơng chỉ góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc
kháng chiến, mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị có thể vận
dụng vào sự nghiệp xây dựng quân đội ta hiện nay.
Những bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra sau 21 năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), bao gồm cả những bài học thành
công và bài học không thành công. Trong tổng số 7 bài học thành công được
Đảng ta đúc rút từ thực tiễn kháng chiến chống Mỹ:
Một là, quán triệt đường lối chính trị của Đảng, xây dựng quyết tâm
đánh thắng giặc mỹ xâm lược.
Hai là, làm rõ kẻ thù, đánh giá so sánh địch, ta.
Ba là, quán triệt đường lối quân sự của Đảng, phát động quần chúng

sáng tạo cách đánh, vừa chiến đấu, xây dựng vừa phát triển lực lượng.
Bốn là, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội vững mạnh có
sức chiến đấu cao và trình độ lãnh đạo về mọi mặt làm cơ sở xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.


3

Sáu là, thực hiện quân - dân một lòng, ra sức xây dựng và phát huy sức
mạnh hậu phương để đánh thắng Mỹ.
Bảy là, nâng cao tinh thần quốc tế vơ sản chân chính, đồn kết qn –
dân Lào, Campuchia.
Bảy bài học nêu trên là những kinh nghiệm quý báu có tính lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Tuy nhiên, do khn khổ của một bài tiểu luận có hạn, tác
giả khơng trình bày tồn bộ nội dung của 7 bài học, mà rút ra những vấn đề
chủ yếu từ nội dung của 7 bài học thành cơng, từ đó liên hệ đối với sự nghiệp
xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
1. Tính chất, đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước
Sau kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, cả nước chưa kịp hàn
gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, phát triển đất nước thì lại phải
đương đầu với một cuộc chiến tranh mới chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đó là
một cuộc chiến tranh chính nghĩa chống chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa
thực dân mới, của tên đế quốc đầu sỏ và bè lũ tay sai. Cuộc chiến tranh này
vừa mang tính chất giải phóng dân tộc, vừa mang tính chất bảo vệ Tổ quốc để
giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất đất nước, đưa cả
nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ tiến
hành khơng chỉ bó hẹp trên lãnh thổ Việt Nam, tiến hành kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước không chỉ riêng của quân và dân Việt Nam, mà còn diễn ra cả

với quân và dân hai nước Lào và Campuchia anh em. Việt Nam không chỉ có
trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc mình mà cịn phải có trách nhiệm
giúp đỡ, phối hợp, hiệp đồng trong mặt trận chung chống đế quốc xâm lược.
Vì vậy, cuộc chiến tranh của quân và dân ta vừa là sứ mệnh vẻ vang của dân
tộc, vừa là nghĩa vụ quốc tế cao cả. Do đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta vừa mang tính chất thời đại sâu sắc, vừa mang tính chất
liên minh quốc tế cao cả.


4

Nghiên cứu tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cho
phép ta khai thác, phát huy sức mạnh của toàn dân đánh giặc; sức mạnh của
dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại, sức mạnh của đấu tranh quân sự
với đấu tranh chính trị, ngoại giao; sức mạnh của liên minh đặc biệt đồn kết
gắn bó keo sơn Việt Nam - Lào - Campuchia. Từ đó xây dựng quyết tâm, lòng
tin, dám đánh và quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của quân và dân ta.
Nghiên cứu đặc điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để
thấy được đặc điểm chủ yếu chi phối trong suốt tiến trình của cuộc chiến
tranh đó là: sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc
nước ta được hồn tồn giải phóng, chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được
xây dựng và ngày càng phát huy tính ưu việt của nó. Hệ thống chun chính
vơ sản được thiết lập và củng cố. Con người mới xã hội chủ nghĩa với giá trị
đạo đức, văn hoá, lối sống xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng và
hồn thiện. Trong khi đó, miền Nam cịn nằm dưới ách thống trị của thực dân,
đế quốc. Nhân dân miền Nam đã được rèn luyện qua kháng chiến chống
Pháp, tiếp tục chiến đấu chống đế quốc Mỹ xâm lược để giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta là cuộc kháng chiến của cả nước, do một Đảng lãnh đạo, một dân tộc,
một quân đội tiến hành với một mục tiêu chung là bảo vệ miền Bắc, giải

phóng miền Nam, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Về tình hình thế giới: Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân ta diễn ra trong điều kiện có những thuận lợi lớn, đồng thời có nhiều khó
khăn, phức tạp. Cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh,
nhất là Liên Xô đã có những bước tiến vượt bậc về vũ khí chiến lược, cịn đế
quốc Mỹ thì đang bị sa lầy ở Việt Nam. Phong trào giải phóng dân tộc, vì hồ
bình dân chủ và tiến bộ xã hội dâng lên mạnh mẽ. Ba dòng thác cách mạng
thời đại ở thế tiến công liên tục. Tuy nhiên, trong phong trào cộng sản quốc tế
xuất hiện sự bất đồng, có khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc.


5

Bản thân cách mạng Trung Quốc có nhiều vấn đề. Đại cách mạng văn hố là
một thảm hoạ khơng chỉ đối với nhân dân Trung Quốc mà còn ảnh hưởng đến
sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt nam. Do đánh giá quá cao đế quốc
Mỹ, sợ Mỹ nên phát sinh những quan điểm xét lại, chung sống hoà bình bằng
bất cứ giá nào, ngại chiến tranh giải phóng dân tộc lan thành chiến tranh thế
giới, chiến tranh hạt nhân. Điều đó đã gây khó khăn cho ta trong việc xác định
đường lối, tập hợp lực lượng và kìm hãm phong trào giải phóng dân tộc.
Về kẻ thù xâm lược: Đế quốc Mỹ là một tên đế quốc đầu sỏ rất xảo
quyệt, hung ác và ngoan cố, có tiềm lực kinh tế quân sự rất mạnh, có mưu đồ
bá chủ thế giới. Chúng đã kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta
bằng tất cả những thủ đoạn thâm độc và nham hiểm. Mỹ đã huy động gần 60
vạn quân Viễn Chinh, sử dụng hầu hết các loại vũ khí trang bị hiện đại (trong
đó có cả vũ khí hố học - chất độc màu da cam mà các nạn nhân hiện nay
đang phải gánh chịu hậu quả rất nặng nề). Chúng tiến hành cuộc “chiến tranh
cục bộ” lớn nhất từ trước tới nay và mở rộng chiến tranh ra tồn cõi Đơng
Dương. Mỗi lần thay đổi chiến lược thì âm mưu, thủ đoạn lại thâm độc hơn,

quy mô huy động vật chất, kỹ thuật lớn hơn, hiện đại hơn và tính chất ác liệt
hơn. Đồng thời, chúng đã xây dựng, tổ chức trang bị cho hơn một triệu quân
Nguỵ đến “tận răng, tận tuỷ” và một hệ thống Nguỵ quyền hồn chỉnh từ
Trung ương đến Bn, Ấp để kìm kẹp nhân dân ta.
Quân đội ta từ sau kháng chiến chống Pháp đã từng bước phát triển
mạnh mẽ theo hướng chính quy, hiện đại. Về quy mơ và cơ cấu tổ chức có sự
phát triển, trang bị vũ khí được cải tiến, trình độ mọi mặt từng bước được
nâng lên rõ rệt, vừa chiến đấu kiện toàn, củng cố, vừa làm nhiệm vụ trọng đại
của dân tộc, vừa làm nhiệm vụ quốc tế với hai dân tộc Lào, Cămpuchia anh
em.
Về phát triển lực lượng: Trong chiến tranh quân đội ta đã phát triển từ
17 vạn lên đến hơn một triệu quân gồm nhiều quân binh chủng kỹ thuật,
nhiều sư đoàn, quân đoàn. Hệ thống tổ chức lãnh đạo, chỉ huy các cấp, các


6

đơn vị ln được củng cố, kiện tồn, phát triển từ những trận chiến đấu kết
hợp tiến công tiêu diệt địch với sự nổi dậy của quần chúng phá “ấp chiến
lược”, đến các chiến dịch tổng hợp, tiến lên thực hiện nhiều chiến dịch lớn
hiệp đồng quân binh chủng, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Thực tiễn trên đã đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ rất nặng nề đối với cơng tác
đảng, cơng tác chính trị nói chung và các cơng tác khác trong qn đội nói riêng.
Đó cũng là cơ sở mới, đối tượng mới để công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán
bộ, cơng tác chính sách… phát huy sức mạnh chính trị tinh thần, sức mạnh con
người, tổ chức trang bị vũ khí kỹ thuật, tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến đấu
và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược. Mà điều trước tiên là công tác tư tưởng phải
làm cho mọi người nhận rõ và quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhận thức rõ âm mưu,
thủ đoạn của kẻ thù, đề cao ý chí, quyết tâm đánh giặc. Công tác tổ chức phải

bám sát vào mọi nhiệm vụ quân đội, đi sâu vào đời sống chiến đấu, cơng việc
của bộ đội trong mọi hồn cảnh. Kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với
công tác tổ chức, giữa giáo dục chính trị, tư tưởng với bảo đảm các mặt công tác
quân sự, hậu cần, kỹ thuật nhằm xây dựng cho cán bộ chiến sỹ có ý chí, quyết
tâm chiến đấu, dám đánh và quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
2. Những vấn đề rút ra từ 7 bài học thành công trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng quân
đội ta hiện nay.
2.1. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ thành cơng đó là kết
quả của sự kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng, công tác tổ chức và
cơng tác chính sách trong Qn đội nhân dân Việt Nam.
Công tác tư tưởng, công tác tổ chức, cơng tác chính sách là những bộ
phận hợp thành của cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong Qn đội nhân dân
Việt Nam, có vai trị rất quan trọng trong tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối
với quân đội. Thông qua công tác này mà đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước được quán triệt tới mọi cán bộ, chiến sĩ trong quân đội


7

và được tổ chức thực hiện nghiêm túc. Mỗi mặt cơng tác có vai trị, vị trí khác
nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự không đồng bộ của bất cứ
mặt công tác nào, đều làm ảnh hưởng đến kết quả, thậm trí làm triệt tiêu tác
dụng của các mặt khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Quân đội
mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”1.
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, sự kết hợp giữa công tác tư
tưởng, cơng tác tổ chức, cơng tác chính sách được Đảng ta phát triển lên một
bước mới. Đảng rất quan tâm xây dựng tư tưởng cách mạng tiến công, chống
chủ nghĩa xét lại và giáo điều về “vũ khí luận”, về chiến tranh hiện đại, giác
ngộ lập trường giai cấp cơng nhân, hun đúc lịng u nước, khơi dậy tinh thần

“sẻ dọc Trường sơn đi cứu nước”, khơi dậy chí căm thù giặc sâu sắc, khắc
phục tư tưởng xem nhẹ vai trị lãnh đạo của Đảng và cơng tác đảng, cơng tác
chính trị; đồng thời tiếp tục chú trọng xây dựng quân đội chính quy, xây dựng
các quân chủng, binh chủng, kỹ thuật hiện đại; thường xuyên tiến hành các
cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt, gắn xây dựng trung, sư đoàn vững mạnh
với xây dựng tổ chức đảng vững mạnh toàn diện, quan tâm nâng cao tỷ lệ
lãnh đạo trong quân đội, thực hiện chi bộ đại đội có chi uỷ, trung đội có tổ
đảng. Đi theo sự phát triển của cuộc kháng chíên, cùng với cơng tác tư tưởng
và cơng tác tổ chức, các chính sách B, C, K của Đảng và Nhà nước đối với
các gia đình quân nhân đã thực sự làm yên lịng bộ đội ngồi tiền tuyến.
Ngày nay, cùng với việc tiếp tục giáo dục truyền thống “Bộ đội Cụ
Hồ”, giác ngộ tinh thần độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, củng cố
lòng tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chống sự dao động, “tự diễn
biến”; công tác tổ chức đã đi sâu vào nghiên cứu các giải pháp phát triển
đảng, xây dựng các chi bộ đại đội đủ quân có chi uỷ trong điều kiện mới, đẩy
mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn đảng trong sạch, vững mạnh.
Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đổi mới các chính sách tiền
lương, phụ cấp cho cán bộ, chiến sĩ quân đội, thúc đẩy giải quyết các tồn đọng
chiến tranh, đẩy mạnh các phong trào toàn dân tham gia cuộc vận động đền
1

. Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb CTQG, H. 2002, tr. 560.


8

ơn đáp nghĩa với các gia đình có cơng với cách mạng, với thương binh và gia
đình liệt sĩ, đẩy mạnh việc tìm kiếm và quy tập mộ liệt sĩ v.v… Tất cả đã tạo
nên những độc lực mới nâng cao hơn vị thế của quân đội, góp phần làm cho
đội ngũ sỹ quan yên tâm, tạo sức hút mạnh hơn đối với thanh niên khi lựa

chon con đường phục vụ lâu dài trong quân đội.
Vận dụng vấn đề này vào sự nghiệp xây dựng quân đội ta hiện nay cần
quan tâm một số vấn đề cơ bản sau:
Một là, trên cơ sở nắm vững mục tiêu của sự kết hợp ba mặt cơng tác
nói trên là hồn thành nhiệm vụ chính trị của quân đội, của các đơn vị, của
từng mặt cơng tác theo nhiệm vụ của mình. Nhiệm vụ chính trị của quân đội,
của đơn vị chính là phương hướng, là cơ sở cho các mặt công tác chủ động
kết hợp chặt chẽ với nhau. Bản thân việc hướng vào mục tiêu chung để chủ
động thực hiện nhiệm vụ của từng mặt công tác đã chứa đựng sự kết hợp tự
nhiên của các mặt cơng tác đó. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc
vạch ra nhiệm vụ của từng mặt công tác phải đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ
chung. Việc nắm vững mục tiêu của sự kết hợp ba mặt cơng tác nói trên địi
hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là lãnh đạo, chỉ huy phải luôn luôn nắm
vững nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị mình.
Hai là, phải xác định đúng và giải quyết tốt vị trí, vai trị, mối quan hệ
của các mặt công tác phù hợp với nhiệm vụ cách mạng và đặc thù của quân
đội. Theo hướng đó, phải trên cơ sở nắm vững vị trí, vai trị của từng mặt
công tác để thực hiện sự kết hợp một cách linh hoạt.
Quân đội ta là một lực lượng chính trị đặc biệt, là cơng cụ bạo lực sắc
bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Giáo dục chính trị tư tưỏng ln ln
có vai trị quan trọng hàng đầu. Động lực chính trị, tinh thần vẫn là động lực
chi phối chủ yếu các mặt hoạt động của quân đội. Tuy nhiên, cũng khơng nên
tuyệt đối hố vai trị của cơng tác tư tưởng, của động lực chính trị, tinh thần,
mà coi nhẹ công tác tổ chức và công tác chính sách. Trong điều kiện thời
bình, với cơ chế thị trường hiện nay, khi lợi ích vật chất cá nhân đã trở thành


9

động lực trực tiếp của người lao động trong xã hội, thì việc xem nhẹ các chính

sách ưu đãi đối với quân đội nhất định sẽ gây ra những hậu quả khôn lường,
làm suy giảm sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Điều đó cho thấy, việc
hoạch định chính sách cho quân đội phải rất quan tâm tới chính sách của hoạt
động qn sự. “Ni qn mười năm để dùng quân trong một giờ” là một sự
tổng kết kinh nghiệm quý báu của dân tộc ta về xây dựng quân đội. Trong mối
quan hệ của ba mặt công tác: tư tưởng, tổ chức, chính sách trong quân đội thì
giáo dục chính trị tư tưởng, giác ngộ lý tưởng cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ
vẫn được coi trọng hàng đầu trong bất cứ hồn cảnh, tình huống nào. Nắm
vững yêu cầu đó, chúng ta phải khéo kết hợp ba mặt công tác này trong giai
đoạn cách mạng mới. Nừu chỉ nhấn mạnh công tác tư tưởng và tổ chức,
khơng đưa cơng tác chính sách lên ngang tầm với địi hỏi của cơng tác tư
tưởng và tổ chức sẽ là duy ý chí. Nhưng nếu chỉ địi hỏi chỉ địi hỏi chính sách
đãi ngộ qn nhân mà khơng làm tốt cơng tác tư tưởng, cơng tác tổ chức thì
khơng phù hợp với yêu cầu xây dựng quân đội cách mạng.
2.2. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là kết quả của việc
thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh,
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta diễn ra trong
bối cảnh tình hình thế giới có những thuận lợi lớn, đồng thời có nhiều khó
khăn phức tạp. Cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa không ngừng lớn mạnh,
nhất là Liên Xô. Cao trào giải phóng dân tộc sơi sục ở châu Á, Phi, Mĩ La
tinh. Phong trào đấu tranh cho hồ bình dân chủ và tiến bộ xã hội dâng lên
mạnh mẽ. Ba dòng thác cách mạng của thời đại ở thế tiến công liên tục. Tuy
nhiên, trong phong trào cộng sản quốc tế đã xuất hiện sự bất đồng, có khuynh
hướng cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc.
Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, miền Bắc
nước ta được hồn tồn giải phóng, nhưng miền Nam cịn dưới ách thực dân


10


mới của đế quốc Mỹ. Đất nước tạm thời bị chia cắt làm 2 miền, cách mạng
Việt Nam phải tiến hành đồng thời hai chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Quân và dân ta trong cuộc đụng đầu lịch sử này phải chống lại một
tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự, kỹ thuật rất lớn. So sánh về
lực lượng vật chất, kỹ thuật thì ta kém rất xa kẻ địch. Đế quốc Mỹ lại rất xảo
quyệt, hung ác và ngoan cố. Chúng đã xây dựng một đội quân nguỵ đông trên
1triệu tên và một hệ thống nguỵ quyền hồn chỉnh từ trung ương đến bn, ấp
để kìm kẹp nhân dân.
Trong những điều kiện phức tạp đó, Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân
ta vượt qua mọi khó khăn, kiên quyết đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi
hoàn toàn. Quân đội ta đã vượt qua được những thử thách rất lớn trong chiến
tranh, thể hiện rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, bản chất cách mạng cao đẹp.
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong chiến tranh chẳng những đáp ứng
được những yêu cầu của nhiệm vụ quân sự mà còn làm cho Đảng bộ quân đội
thấu suốt quan điểm độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế của Đảng, trên cơ sở
đó đi sâu vào từng giai đoạn, từng nhiệm vụ, xây dựng được ý chí quyết tâm
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược cho bộ đội.
Từ năm 1955, quân đội ta bước vào xây dựng theo hướng chính quy,
hiện đại. Quy mơ và cơ cấu tổ chức phát triển, vũ khí, trang bị kỹ thuật được
cải tiến, trình độ mọi mặt: chính trị, qn sự, tổ chức chỉ huy, bảo đảm hậu
cần, kỹ thuật được nâng lên rõ rệt. Song thời gian xây dựng, củng cố chưa
được bao lâu đã lại bước vào cuộc chiến đấu mới, yêu cầu đặt ra là vừa phải
chiến đấu vừa tiếp tục củng cố, phát triển lực lượng.
Những tính chất, đặc điểm và tình hình nhiệm vụ kể trên đặt ra những
yêu cầu mới, rất nặng nề đối với công tác đảng, cơng tác chính trị nói chung,
đối với cơng tác xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức đảng trong quân đội nói



11

riêng. Đó cũng là những cơ sở mới, những đối tượng mới để các hoạt động
công tác đảng, công tác chính trị phát huy sức mạnh chính trị tinh thần, sức
mạnh con người, tổ chức, trang bị vũ khí - kỹ thuật trong điều kiện mới nhằm
bảo đảm cho quân đội ta hoàn thành sứ mệnh vẻ vang trong sự nghiệp chống
Mỹ, cứu nước mà Đảng và nhân dân giao phó.
Hoạt động cơng tác tổ chức xây dựng Đảng trong quân đội thời kỳ này
đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Ban chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
bí thư và Quân uỷ Trung ương. Trên các chiến trường miền Nam còn do sự chỉ
đạo trực tiếp của Trung ương Cục và Quân uỷ miền, của các Khu uỷ và Đảng uỷ
các quân khu, các đơn vị. Đồng thời hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị
nói chung, cơng tác xây dựng tổ chức Đảng nói riêng còn căn cứ vào các Nghị
quyết của Đại hội Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương, đặc biệt là các
Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 12 - khoá II (1957) về xây dựng quân
đội, củng cố quốc phòng; Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959) về
lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam; Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ III và các Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 9 - khoá III (1963) về
cách mạng miền Nam; Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 12 (1965) về cả
nước chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ; Nghị quyết hội nghị Trung
ương lần thứ 21 (1973) về tiến lên giải phóng hồn tồn miền Nam.
Những hoạt động của công tác xây dựng Đảng trong quân đội được
biểu hiện qua từng giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là:
Giai đoạn 1954 - 1959, công tác xây dựng Đảng tập trung vào việc
củng cố chi bộ, đảng uỷ và cơ quan chính trị, xây dựng nề nếp lãnh đạo của
Đảng, nề nếp công tác đảng, công tác chính trị, đây là những nội dung quan
trọng để tăng cường bản chất cách mạng của quân đội trong xây dựng chính
quy, hiện đại. Trong thời kỳ này việc xây dựng Đảng đã lấy việc củng cố chi
bộ, rèn luyện đảng viên là khâu mấu chốt và là cơ sở cho việc xây dựng quân



12

đội về chính trị. Đảng bộ quân đội đã tiến hành điều chỉnh đảng viên để đại đội
nào cũng có chi bộ; tích cực kết nạp đảng viên mới, tổ chức bồi dưỡng, kết nạp
lớp đảng viên nhân ngày thành lập Đảng (3/2), trung bình hàng năm phát triển
thêm được 10% tổng số đảng viên. Việc giáo dục, rèn luyện đảng viên được
đẩy mạnh và tiến hành có nề nếp, hiệu quả.
Đảng uỷ các cấp được kiện toàn về tổ chức, cả về số lượng và chất
lượng, đáp ứng kịp với tình hình và tổ chức của quân đội. Chế độ đảng uỷ tập
thể lãnh đạo, thủ trưởng phân công phụ trách được thực hiện ở tất cả các đơn
vị, vai trị lãnh đạo tồn diện, ngun tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo,
lấy việc lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ là chủ yếu được thực hiện nghiêm
chỉnh và ngày càng có nề nếp hơn. Tuy cịn có những hạn chế trong việc lãnh
đạo về khoa học kỹ thuật, nhưng các tổ chức đảng đã nắm vững khâu lãnh đạo
chính trị, tư tưởng, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, quan điểm của Đảng,
xác định chủ trương đúng đắn nên đã làm chỗ dựa vững chắc cho người chỉ
huy trong việc thực hiện các nhiệm vụ.
Giai đoạn 1960 - 1964, đi đơi với việc kiện tồn các Đảng uỷ, Đảng
bộ quân đội đã tập trung vào khâu then chốt là khâu xây dựng chi bộ, nhất là
chi bộ đại đội, từng bước khắc phục những nhược điểm, khuyết điểm trước
đây. Do thực hiện nghĩa vụ quân sự, số đảng viên xuất ngũ hàng năm đông
hơn số đảng viên nhập ngũ, công tác phát triển đảng lại chưa được chú trọng,
ở một số đơn vị có đến 21% số chi bộ từ 6 - 16 tháng liền không kết nạp được
đảng viên mới. Tỷ lệ đảng viên trong quân đội giảm mạnh: Năm 1960, tỷ lệ
lãnh đạo từ 21 - 31,5%, năm 1961 chỉ còn 12 - 18%, số tiểu đội khơng có
đảng viên là 51%. Số chi bộ khơng có chi uỷ là 44%,… Để cải thiện tình hình
đó, Đảng bộ quân đội đã đề ra mục tiêu phấn đấu là: Chi bộ đại đội có chi uỷ,
trung đội có tổ đảng, tiểu đội, khẩu đội và bộ phận kỹ thuật có đảng viên. Việc
kết nạp đảng viên mới được chú trọng, bình qn có thêm 8.000 đảng viên



13

mới mỗi năm, nâng tỷ lệ lãnh đạo trong toàn quân lên xấp xỉ 30%. Ở các đơn
vị quân chủng, binh chủng kỹ thuật đã thực hiện được tỷ lệ lãnh đạo cao hơn
các đơn vị bộ binh. Cuối năm 1962 đảng bộ quân đội mở cuộc vận động xây
dựng chi bộ bốn tốt: “Lãnh đạo công tác tốt, học tập tốt, đoàn kết nội bộ tốt,
phát triển Đảng tốt”, triển khai cuộc vận động bảo vệ Đảng theo chỉ thị của
Ban chấp hành Trung ương đã nâng cao được tính nguyên tắc trong xây dựng
Đảng, bảo đảm tổ chức Đảng trong sạch, đưa ra khỏi đảng những người
không đủ tiêu chuẩn, những người cố tình che dấu lý lịch, có những vấn đề
chính trị nghiêm trọng, chống đối. Một số khá đơng đồn viên thanh niên
được đứng vào hàng ngũ của Đảng (trong 5 năm có 27.850 đồn viên được
kết nạp vào đảng, bằng 80% số đảng viên mới). Đồng thời mở rất nhiều lớp
huấn luyện cho đảng viên mới, với nội dung chương trình được chỉ đạo thống
nhất. Giai đoạn này cũng đã mở nhiều lớp bồi dưỡng, nhiều hội nghị trao đổi
kinh nghiệm cho các đảng uỷ viên, các bí thư chi bộ, bí thư đảng uỷ.
Do tổ chức được củng cố, số lượng và chất lượng được tăng lên,
phương pháp lãnh đạo được cải tiến, nên số đơng chi bộ đã hồn thành tốt
nhiệm vụ, ngày càng đi sâu lãnh đạo tốt hơn nhiệm vụ trung tâm là huấn
luyện bộ đội sẵn sàng chiến đấu. Ở những đơn vị chiến đấu trên chiến trường,
những đơn vị đi sâu vào vùng địch, các chi bộ đã lãnh đạo hoàn thành tốt
nhiệm vụ, rèn luyện được nhiều cán bộ, đảng viên tốt, kiên cường, dũng cảm
và mưu trí đánh địch. Nhưng so với yêu cầu nhiệm vụ thì trình độ lãnh đạo
của chi bộ cịn có những mặt yếu như: khi tập trung làm tốt mặt này thì mặt
khác chưa giữ được thường xuyên, đều đặn; lãnh đạo tư tưởng, lãnh đạo huấn
luyện quân sự có kinh nghiệm nhưng lãnh đạo quản lý bộ đội, quản lý cơ sở
vật chất, kỹ thuật còn yếu, sinh hoạt đều nhưng chất lượng chưa cao; Nghị
quyết đề ra đúng nhưng khâu tổ chức, kiểm tra đôn đốc kém, hiệu lực lãnh

đạo hạn chế.


14

Giai đoạn 1965 - 1968, công tác xây dựng Đảng đã tập trung vào việc
kiện toàn các cấp uỷ Đảng, công tác xây dựng các tổ chức Đảng đã gắn với
xây dựng đơn vị vững mạnh, đơn vị quyết thắng; xây dựng chi bộ bốn tốt gắn
với xây dựng cán bộ bốn tốt, đảng viên bốn tốt. Đặc biệt chú ý nâng cao chất
lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng, nhất là lãnh đạo chính trị, tư tưởng, lãnh
đạo hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, giữ vững các nguyên tắc lãnh đạo và sinh
hoạt của Đảng theo những quy định phù hợp.
Công tác phát triển đảng cũng được coi trọng. Để đáp ứng yêu cầu
củng cố và tăng cường sự lãnh đạo ở cơ sở một cách thường xuyên, từ 1965
đến 1968 đã kết nạp thêm 166.711 đảng viên mới. Tuy số quân tăng nhanh và
sự tiêu hao trong chiến tranh tương đối lớn, nhưng vẫn giữ vững tỷ lệ lãnh
đạo lúc đầu ở khoảng 30%, số lượng chi bộ tăng từ 3.365 (1964) lên 15.459
(1968). Thời kỳ này, đảng bộ quân đội đã đề nghị với Ban chấp hành Trung
ương ra một số quy định về phát triển đảng ở các đơn vị quân đội cho phù hợp
với hồn cảnh chiến tranh. Nhờ đó, cơng tác phát triển đảng có thêm nhiều
thuận lợi. Trong hồn cảnh chiến đấu khẩn trương, ác liệt nhưng đã căn bản
đạt mục tiêu đề ra: 91,6% đại đội có chi bộ, 96,3% chi bộ có chi uỷ, 96,3%
trung đội có tổ đảng, 85% tiểu đội có đảng viên. Trong cuộc vận động xây
dựng “chi bộ bốn tốt” đã gắn chặt việc rèn luyện đảng viên với rèn luyện cán
bộ. Các cấp uỷ được củng cố kịp thời, trình độ lãnh đạo được nâng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, việc khắc phục những nhược điểm về lãnh đạo và quản lý cơ sở
vật chất, kỹ thuật, việc hiệp đồng binh chủng trong đánh lớn còn chuyển biến
chậm và chưa đồng đều.
Giai đoạn từ năm 1969 đến năm 1972, đây là giai đoạn chiến tranh
bước vào thời kỳ ác liệt, khó khăn, phức tạp nhất. Để lãnh đạo sát tình hình,

nhiệm vụ, cơng tác xây dựng Đảng tập trung vào việc nâng cao năng lực lãnh
đạo, khắc phục các nhược điểm về vận dụng tư tưởng chỉ đạo tác chiến, về


15

xây dựng và sử dụng lực lượng, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Nhiều hình thức,
biện pháp được triển khai nhằm củng cố việc rèn luyện mọi mặt để tiến lên
đánh lớn và ra sức chuẩn bị bộ đội, chuẩn bị chiến trường, tạo thời cơ.
Đảng uỷ các đơn vị đã chủ động lãnh đạo tổ chức việc báo cáo kinh
nghiệm hội nghị “kíp trắc thủ giỏi”, “sĩ quan điều khiển giỏi”,…Những hoạt
động tỉ mỉ, cụ thể, có mục đích rõ ràng như vậy đã xua tan khơng khí phân
vân, lo ngại lúc đầu, thay vào đó là lịng tin nhất định sẽ bắn rơi tại chỗ được
máy bay B52 của Mỹ. Các đơn vị còn chú trọng rèn luyện ý thức tổ chức kỷ
luật, tinh thần đoàn kết hiệp đồng, thực hiện ăn khớp về thời gian, không gian,
cách đánh.
Cuộc vận động xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh để hoàn
thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được đẩy mạnh, việc rèn luyện đảng viên theo
“bảy yêu cầu” nhằm nâng cao ý chí, quyết tâm chiến đấu, tính tiên phong
gương mẫu, khắc phục mọi tư tưởng tiêu cực, dao động được coi trọng. Trong
giai đoạn này công tác phát triển đảng viên mới được tiếp tục chú ý, hàng vạn
đảng viên mới được kết nạp, tỷ lệ lãnh đạo từ 33,6% năm 1968 lên 40,3%
năm 1971. Đã kịp thời bố trí lực lượng đảng viên phù hợp với nhiệm vụ, nhất
là cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy ở các cấp, các đơn vị trọng yếu. Tuy nhiên,
do yêu cầu quá lớn về số lượng cán bộ đảng viên cho chiến trường nên mới
đáp ứng được khoảng 87% u cầu, về trình độ năng lực cơng tác thì mới đạt
cấp nào biết làm chức trách của cấp ấy, nên khi thực hiện nhiệm vụ khó khăn,
phức tạp còn lúng túng.
Giai đoạn từ năm 1973 đến năm 1975, đây là giai đoạn cuối của cuộc
chiến tranh, sự khẩn trương, ác liệt và tình hình diễn biến trên chiến trường

diễn ra nhanh chóng. Dưới ánh sáng Nghị quyết 21(7/1973) của Ban Chấp
hành Trung ương và nghị quyết các hội nghị tiếp theo của Bộ Chính trị đã hạ
quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, động


16

viên quân dân cả nước nỗ lực vượt bậc, giữ vững đường lối chiến lược tiến
công, thúc đẩy thời cơ và nắm vững thời cơ giành toàn thắng cho sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước. Thời cơ lúc này “một ngày bằng 20 năm”, Đảng uỷ các
cấp đặc biệt chú trọng làm thông suốt phương châm tư tưởng chỉ đạo: “tranh
thủ thời gian cao độ, hành động táo bạo bất ngờ” làm cho địch không kịp trở
tay, khắc phục các tư tưởng do dự, chần trừ, chờ đợi, bỏ lỡ thời cơ diệt địch.
Các cấp lãnh đạo đã phát huy được tốt việc tập thể dân chủ bàn bạc
nên đã tạo sự thống nhất cao với nhận định và quyết tâm của trên. Đảng uỷ
các cấp trên các mặt trận đã làm thông suốt quyết tâm lịch sử, tư tưởng chỉ
đạo “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, lãnh đạo, tổ chức và vận động
các lực lượng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Các cấp uỷ, tổ chức
Đảng được kiện toàn về số lượng và chất lượng trước và trong suốt quá trình
chiến dịch. Việc kết nạp đảng viên mới trong chiến đấu được chú trọng
nhằm ổn định và tăng tỷ lệ lãnh đạo ở những nơi xung yếu. Mặc dù tình hình
phát triển của chiến dịch nhanh nhưng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong
mọi tình huống vẫn được chấp hành nghiêm chỉnh; những tác phong lãnh
đạo, phương thức, biện pháp công tác tư tưởng, công tác tổ chức lúc này
cũng được cải tiến phù hợp với yêu cầu chiến đấu khẩn trương, liên tục, quy
mô lớn như: tiến hành các cuộc họp ngắn gọn, thiết thực ngay cả trên xe
hành quân hoặc ở một chặng nghỉ…Để duy trì vững chắc sự lãnh đạo, chỉ
huy, đảm bảo khơng bị gián đoạn và có hiệu lực cao trong suốt chiến dịch,
các quân đoàn đã tổ chức tập huấn cho cán bộ trước khi mở chiến dịch và
ngay giữa các đợt của chiến dịch.

Tuy nhiên, sau chiến thắng, khuyết điểm chủ yếu của các cấp uỷ đảng
là công tác lãnh đạo cịn đơn giản, có nơi bng lỏng lãnh đạo, chỉ huy nên có
những vụ vi phạm chiến lợi phẩm, kỷ luật không nghiêm, kể cả ở cán bộ cao
cấp. Chưa phát huy vai trò chủ động của các cấp uỷ đảng trong những vấn đề


17

mới nảy sinh để chỉ đạo kịp thời, sắc bén. Mặt khác, một số cán bộ, đảng viên
do trình độ hạn chế, thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu gương mẫu, nên để kỷ
luật của bộ đội trong đơn vị không nghiêm, đó là những “hạt sạn” trong thắng
lợi cực kỳ to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Những hoạt động của công tác xây dựng Đảng trong quân đội được
biểu hiện qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nêu
trên có cả ưu điểm và những hạn chế, khuyết điểm nhưng nó đã khẳng định sự
lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là nhất quán, là nhân tố cơ bản nhất,
quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội. Công tác đảng, cơng
tác chính trị trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã kế tục và phát triển
những kinh nghiệm của cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong các thời kỳ
trước vào những điều kiện mới.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu chiến lược xây dựng đất nước là:
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và phấn đấu “từ
nay tới năm 2020 xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp phát triển
theo hướng hiện đại”. Vì vậy, một vấn đề có tính ngun tắc rút ra từ những
bài học kinh nghiệm cách mạng 77 năm qua đó là: Mọi chủ trương, đường
lối, chiến lược, sách lược của Đảng đề ra phải phù hợp với lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tổ chức thực hiện những chủ trương, đường lối, sách
lược đó càng phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc, để dân biết, dân bàn, dân làm
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Dân biết, dân bàn, dân làm là vấn đề

không thể thiếu để chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng biến thành hiện
thực trong cuộc sống hàng ngày và là một nguyên nhân bảo đảm thắng lợi của
cách mạng.
Để có đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược cách mạng phù hợp
với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cần phải bảo đảm những yêu cầu:


18

Một là, đường lối, chủ trương, chiến lược, sách lược của Đảng đề ta ra
cho từng giai đoạn cách mạng phải xuất từ lợi ích của nhân dân, bao gồm lợi
ích chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội. Tuỳ theo mục tiêu đặt ra cho từng giai
đoạn phát triển của cách mạng mà xác định lợi ích nào trong các lợi ích trên
giữ vị trí trung tâm chi phối.
Hai là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra phải mang
tính chiến lược, tồn cục.
Ba là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra phải phù hợp
với quyền lợi chính đáng của mọi người dân.
Bốn là, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đề ra phải có mục
tiêu rõ ràng, cụ thể, sát với nguyện vọng chính đáng của nhân dân và có tính
khả thi.
2.3. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ là kết quả của việc
chăm lo xây dựng và rèn luyện đội ngũ cán bộ quân đội có đủ phẩm chất,
năng lực làm nòng cốt xây dựng quân đội và thực hiện nhiệm vụ chính trị
trong mọi hồn cảnh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cán bộ là cái gốc của mọi việc,
mọi việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay xấu. Thông qua đội ngũ
cán bộ do Đảng xây dựng và rèn luyện, các quan điểm, đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, lý tưởng cách mạng của Đảng được mọi quân nhân
quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Vì vậy, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ

là cơng việc gốc của Đảng, có ý nghĩa quyết định đế sự lãnh đạo của Đảng và
sự trưởng thành, chiến thắng của quân đội.
Nắm vững vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ và kế thừa những kinh
nghiệm quý báu trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nên trong suốt cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các tổ chức đảng trong quân đội đã thường
xuyên lãnh đạo chặt chẽ và phát huy trách nhiệm của các cấp, các ngành thực
hiện theo chức trách. Đã xây dựng được đội ngũ cán bộ đảm bảo được số


19

lượng, chất lượng, cơ cấu hợp lý đáp ứng được yêu cầu xây dựng và chiến
đấu của quân đội ta.
Từ sau kháng chiến chống Pháp, đội ngũ cán bộ quân đội chủ yếu là
binh chủng bộ binh. Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, do thực tế yêu
cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của quân đội đòi hỏi. Quân đội ta vừa
chiến đấu vừa xây dựng, đào tạo qua nhiều hình thức tại trường, tại chiến
trường. Hệ thống nhà trường đã được phát triển mạnh, với 2 học viện, 8
trường đào tạo sỹ quan, 1 trường văn hoá, 5 trường quân chính quân khu, và
lưu lượng hàng năm lên tới 15.000 học viên (không kể các trường trung cấp
kỹ thuật); ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ của quân đội tương đối
chính quy và hiện đại, có nhiều quân, binh chủng, có đủ các ngành nghề kỹ
thuật gồm cán bộ chính trị, quân sự, chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ và cán bộ
làm công tác nghiên cứu, giảng dạy, đáp ứng được yêu cầu của quân đội, bảo
đảm cho quân đội hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước
giao cho.
Ngày nay, chúng ta xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ Tổ quốc
trong điều kiện cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn biến rất
phức tạp. Nhiệm vụ cách mạng nước ta và nhiệm vụ của quân đội có bước
phát triển mới. Qn đội phải khơng ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu một

cách toàn diện theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại. Phải sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược bằng vũ trang và phi vũ
trang của kẻ thù giữ vững thể chế chính trị, bảo vững vững chắc Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa. Hiện nay nước ta đang mở rộng hội nhập với thế giới và khu
vực. Vì vậy, phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực của cán bộ phải
được nâng cao hơn một bước mới đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ của quân
đội.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội trong giai đoạn hiện nay, cần có
chiến lược trong việc đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ chủ trì (cả chính trị và


20

quân sự), cán bộ đầu ngành và nguồn tài năng quân sự, cả về phẩm chất chính
trị, đạo đức cách mạng, trình độ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và khả năng ứng
xử với các tình huống phức tạp chưa phải là chiến tranh, nâng cao khả năng
chiến đấu về chính trị tư tưởng và chính trị lý luận. Trong chương trình đào
tạo, cần tăng cường khối lượng kiến thức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt về lịch sử, lý luận
và kỹ năng tiến hành công tác đảng, cơng tác chính trị, trình độ ngoại ngữ.
Phải thấy đặc thù đào tạo ra một cán bộ quân sự phải qua từng bước, gắn rất
chặt với việc học cơ bản ở trường và việc rèn luyện trong thực tiễn lãnh đạo,
chỉ huy, quản lý ở đơn vị từ thấp đến cao.
Đảng, nhà nước và quân đội cần có những chính sách hợp lý về xây
dựng quân đội trong thời bình, trong tình hình cơ chế thị trường tác động sâu
sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội, nhằm giữ gìn và thu hút những người có
tài, có đức vào qn đội. Đồng thời, có các chính sách cụ thể để đảm bảo đời
sống vật chất và tinh thần cho đội ngũ cán bộ, sĩ quan quân đội và gia đình họ
để họ n tâm gắn bó xây dựng quân đội.
Công tác cán bộ trong quân đội những năm vừa qua, đã thực hiện có

hiệu quả nhiều chủ trương, biện pháp, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là về điều chỉnh thế bố trí chiến lược
bảo vệ Tổ quốc. Giảm được số lượng lớn và ổn định đội ngũ cán bộ, giữ được
những cán bộ đã trải qua chiến đấu và nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ
cán bộ, thực hiện một số chính sách phù hợp với tình hình mới. Đã từng bước
tiêu chuẩn hố cán bộ, gắn quy hoạch tạo nguồn cán bộ chủ trì với việc kiện
tồn cấp uỷ các cấp và tạo nên sự chuyển tiếp liên tục, tương đối vững chắc
giữa các thế hệ cán bộ. Đã đào tạo bồi dưỡng, nâng cao được trình độ kiến
thức tồn diện và năng lực thực hành của cán bộ. Giải quyết có lý, có tình
những tồn đọng của chiến tranh, quan tâm tới sự cống hiến của các thế hệ cán
bộ, có chính sách bước đầu tạo ra sức thu hút mới vào đội ngũ sĩ quan,


21

khuyến khích cán bộ phấn đấu vươn lên. Đã hồn thiện một bước các quy chế,
quy trình quản lý đánh giá, tuyển chọn, đề bạt, bổ nhiệm, điều động cán bộ.
Đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung thống nhất về mọi mặt của các cấp
uỷ đảng, phát huy được trách nhiệm của người chỉ huy và các cơ quan, các
ngành đối với công tác cán bộ.
Tuy nhiên bên cạnh đó cịn những vướng mắc tồn tại và khuyết điểm là:
Chưa chủ động đổi mới cơ cấu, nhất là diện bố trí, cấp bậc quân hàm các chức
danh cán bộ, dẫn đến lúng túng, bị động trong việc xác định và thực hiện quy
trình đào tạo, sử dụng, luân chuyển cán bộ, chậm cụ thể hoá tiêu chuẩn cán
bộ, mục tiêu yêu cầu, nội dung chương trình đào tạo các cấp học, ngành học,
giữa đào tạo theo chức vụ và trình độ học vấn, khó cân đối đội ngũ cán bộ
giữa lực lượng thường trực và dự bị, giữa các cấp, các quân binh chủng, các
ngành, các địa bàn chiến lược. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ có đơn
vị chưa nghiêm, cơng tác quản lý cán bộ chưa chặt chẽ.
Để kế thừa những kinh nghiệm qúy báu của công tác xây dựng đội ngũ

cán bộ đáp ứng yêu cầu của chiến tranh trong cuộc kháng chống Mỹ cứu
nước. Trong giai đoạn hiện nay, công tác cán bộ trong quân đội cần nghiên
cứu sâu hơn tình hình thực tế hiện nay để xác định phương hướng đường lối
công tác cán bộ một cách phù hợp. Trước hết phải nắm vững các quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta
về vấn đề cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Phải nắm vững mục tiêu của
cơng tác cán bộ đó là: Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo
và quản lý ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở vững mạnh về chính trị, gương
mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt
động thực tiễn, gắn bó với nhân dân. Phải đủ về số lượng, nâng cao chất
lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa
các thế hệ. Để thực hiện mục tiêu đó, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần


22

thứ X xác định: “Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, khơng quan liêu, tham
nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí;
có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chun mơn, nghiệp vụ đáp ứng u
cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố; có tinh thần đồn
kết, hợp tác, ý thức tổ chức, kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tơn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ
cấu hợp lý... Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch
trong công tác cán bộ... Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: Đánh
giá, qui hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và
thực hiện chính sách cán bộ”1.
2.4. Vận dụng sáng tạo những bài học thành công của Đảng trong
kháng chiến chống Mỹ vào xây dựng quân đội ta hiện nay, cần dự báo

chính xác những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến việc xây dựng quân đội.
Việt Nam cũng như mọi quốc gia, dân tộc khác, chúng ta đang ở trong
thời kỳ lịch sử có nhiều biến động phức tạp. Vấn đề chủ quyền quốc gia trong
thế giới tồn cầu hố đang chi phối tất cả các nước trong hoạch định chính
sách của mình. Cách mạnh khoa học và cơng nghệ cùng xu thế tồn cầu hố
kinh tế đang là các nhân tố cơ bản tác động mạnh mẽ và toàn diện đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, kể cả sự nghiệp xây dựng quốc phòng, quân
sự của các nước. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng khố IX trình
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Trong những năm sắp tới, trên thế giới, hồ bình
và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực phục hồi và phát
triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Tồn cầu hố kinh

1

Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2006, Tr 292, 293,294,295.


23

tế tạo ra cơ hội nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó
khăn, thách thức cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển”2
Cách mạng khoa học và cơng nghệ cùng với q trình tồn cầu hố
kinh tế đem lại cho nước ta những cơ hội đi tắt, đón đầu, đẩy mạnh q trình
cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá, thức đẩy giao lưu, hợp tác quốc tế. Song điều
đó cũng làm tăng thêm tính phức tạp, khó khăn cho cơng cuộc bảo vệ Tổ
quốc. Các nội dung bảo vệ Tổ quốc trở nên toàn diện và rộng lớn hơn, nhiệm
vụ quốc phòng và an ninh không thể tách rời nhau. Bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân…đan xen
với bảo vệ an ninh quốc gia trên tất cả các lĩnh vực. Hiện nay chủ nghĩa đế

quốc và các thế lực thù địch đang lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế để tăng cường
chống phá cách mạng nước ta. Các hành động chống phá của chúng được che
giấu trong các quan hệ kinh tế, thương mại làm cho chúng ta vừa khó nhận
mặt, chỉ tên các thế lực thù địch một cách cụ thể, vừa cảm thấy sự chống phá
của chúng diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trên mọi lĩnh vực. Chúng ta vừa hợp tác
trong phát triển kinh tế, văn hố vừa phải đối phó với những âm mưu thủ
đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Trên lĩnh vực quân sự, sự phát triển về vũ khí, trang bị, phương tiện
chiến tranh vẫn được gia tăng tốc độ trong thế kỷ này. Sự thay đổi có tính chất
nhảy vọt về vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự dẫn đến những thay đổi về nghệ
thuật và phương thức tiến hành chiến tranh. Chiến tranh điện tử, chiến tranh
công nghệ cao, chiến tranh thông tin, chiến tranh kỹ thuật số… được các nhà
quân sự nói đến như là những đặc trưng của chiến tranh tương lai. Trong điều
kiện đó, việc tổ chức, biên chế của quân đội ta có những biến đổi, phát triển
phù hợp với những phương thức tác chiến mới. Những tư tưởng mơ hồ, lẫn
lộn trong việc xem xét bản chất chính trị của chiến tranh; vai trị của nhân tố
con người trong chiến tranh có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao cũng dễ làm nảy
sinh những lệch lạc trong xem xét vai trị của nhân tố chính trị tinh thần, của
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội. Tình hình đó dễ dẫn đến suy
2

. Tạp chí Xây dựng đảng, số 5 năm 2006, tr. 8.


24

giảm sức mạnh tổng hợp của quân đội, đòi hỏi phải giữ vững và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội.
Mặt khác, đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trên thế giới trong
những năm đầu thế kỷ XXI vẫn diễn ra phức tạp. Đảng ta nhận định: Trong

một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố cịn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất phức
tạp ngày càng tăng. Khu vực châu á – Thái Bình Dương nói chung và Đơng
Nam á nói riêng, xu thế hồ bình và phát triển tiếp tục tăng, nhưng luôn tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Tất cả những điều đó đã và đang đặt ra
những vấn đề mới đối với nhiệm vụ quốc phòng- an ninh, địi hỏi qn đội
phải ln nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng nâng cao sức
mạnh chiến đấu, thực sự là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin
cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng trước những biến động thử thách của tình
hình. Tính phức tạp của đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong điều kiện
các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hồ bình” chống phá
nước ta đang tác động một cách trực tiếp, hoặc gián tiếp đến Đảng, quân đội
và sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, dễ làm nảy sinh những nhân tố bất
lợi đối với việc xây dựng quân đội; đồng thời cũng đặt ra những nội dung mới
đối với chức năng, nhiệm vụ mới của quân đội. Trong bối cảnh đó, vấn đề
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng bản chất giai cấp cơng nhân, xây
dựng qn đội về chính trị càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết; việc đổi
mới nội dung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với quân đội
càng đòi hỏi phải được thực hiện một cách khoa học, dứt khoát và cụ thể hơn.
Mặt khác, tình hình kinh tế - xã hội đất nước cũng đã có sự khởi sắc:
Sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được đẩy mạnh đã từng
bước tạo cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường sức
mạnh quốc gia, cũng như tiềm lực vật chất cho nền quốc phòng toàn dân, cho
sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng qn đội. Mỗi bước phát triển của tình
hình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một bước tạo thêm tiền đề vật
chất, điều kiện thuận lợi để hiện đại hố nền quốc phịng tồn dân, hiện đại


25


hố qn đội. Vũ khí, trang bị kỹ thuật qn sự sẽ được đổi mới theo phương
châm “từng bước hiện đại”; trình độ văn hố, khoa học kỹ thuật của cán bộ,
chiến sĩ quân đội sẽ ngày càng cao đáp ứng yêu cầu đánh thắng chiến tranh
công nghệ cao của chủ nghĩa đế quốc. Trong điều kiện ấy, sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc đòi hỏi ở người chiến sĩ sự vững vàng về bản lĩnh chính trị; tinh
thơng về kỹ thuật, chiến thuật; vững vàng về tâm lý, có khả năng thính ứng
cao trong mọi điều kiện khốc liệt của chiến tranh cơng nghệ cao; có ý chí và
quyết tâm chiến đấu cao, dám đánh, biết đáng và quyết thắng mọi kẻ thù xâm
lược. Yêu cầu mới về sức mạnh quân đội, về chất lượng tổng hợp của cán bộ,
chiến sĩ trong điều kiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố là một đòi hỏi khách
quan phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đó là
biện chứng của sự phát triển mối quan hệ giữa đối tượng lãnh đạo và chủ thể
lãnh đạo.
Cùng với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, kinh tế thị trường
đang khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, trực tiếp
và gián tiếp tăng cường tiềm lực quốc phòng. Lòng tin của cán bộ, chiến sĩ
vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố có cơ sở vững chắc từ hiện thực cuộc
sống. Từ đó mà ý thức trách nhiệm xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc của họ cũng được nâng lên. Tuy nhiên, tác động mặt trái của
kinh tế thị trường đã và đang hàng ngày, hàng giờ ảnh hưởng đến tư tưởng,
tình cảm của cán bộ, chiến sĩ trong qn đội. Thực tế khơng ít cán bộ, chiến sĩ
do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không vững vàng về bản lĩnh chính trị đã thối
hố về phẩm chất đạo đức lối sống. Một số cán bộ, chiến sĩ vì lợi ích vật chất
cá nhân, chạy theo lối sống thực dụng và đồng tiền mà có những hành động
sai trái, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc, của quân
đội làm hoen ố hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong lịng nhân dân. Tình hình đó
địi hỏi phải tăng cường hiệu lực hoạt động của Cơng tác đảng, cơng tác chính
trị và sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Mặt khác tình trạng quan liêu,
tham nhũng đang là một nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta. Đảng và

Nhà nước ta đã thực hiện nhiều biện pháp đấu tranh chống tệ nạn này, nhưng
tình hình vẫn chưa được ngăn chặn kịp thời. Sự hoành hành của tệ quan liêu,


×