Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Cuoc khang chien chong thuc dan Phap

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
I. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời
1. Tình hình Việt Nam sau Cách Mạng Tháng Tám


Sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành cơng, Chính phủ Lâm Thời ra mắt nhân dân. Vừa được thành
lập là Chính phủ Lâm Thời đã phải đương đầu với nhiều khó khăn về các mặt chính trị, xã hội, văn
hóa, kinh tế. Để đối phó với tình hình ấy, Chính phủ đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách phải giải quyết:
chống nạn đói, chống nạn mù chữ, tổ chức Tổng tuyển cử, giáo dục nhân dân thực hiện
cần-kiệm-liêm-chính, bỏ một số thuế, ra tuyên bố tự do tín ngưỡng và đồn kết lương giáo. Chính phủ phát
động chiến dịch tăng gia sản xuất, quyên góp gạo để cứu đói, phát động phong trào bình dân học vụ
để cấp tốc xóa nạn mù chữ trong nhân dân.


Chính phủ cịn phải đối phó với các mưu đồ xâm lược của các cường quốc. Tại Nam Bộ, quân đội
Anh vào giải giới quân Nhật đã giúp thực dân Pháp trở lại đánh chiếm Nam Bộ. ở miền Bắc quân đội
Tưởng Giới Thạch vào giải giới quân Nhật đem theo những tổ chức tay sai của chúng vào Việt Nam
để mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Trước tình hình ấy, Chính phủ Lâm thời phản đối việc quân
Pháp kéo vào Việt Nam và kêu gọi tồn dân sẵn sàng đợi lệnh Chính phủ để chiến đấu.


Ngày 6/1/1946, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được đổ chức trên khắp đất
nước. Tất cả cơng dân trai gái từ 18 tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu
nghèo, tơn giáo, dân tộc, dịng giống. Kết quả cuộc Tổng tuyển cử là 333 đại biểu được bầu vào Quốc
hội khóa I của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao
nhất là 98,4% phiếu bầu. Tổng tuyển cử thắng lợi biểu dương sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân,
quyết tâm xây dựng chế độ mới.


Sáng ngày 2/3/1946, Quốc hội khóa I họp kỳ họp đầu tiên tại Nhà hát thành phố Hà Nội, gần 300 đại
biểu đã về dự. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội bầu làm chủ tịch nước và danh sách chính phủ
chính thức được thơng qua.


2. Nam bộ kháng chiến



Mùa hè năm 1945, ngay sau khi Nhật đầu hàng phe Đồng Minh, chính phủ Pháp dùng nhiều biện
pháp để quay trở lại Đông Dương. Một đạo quân viễn chinh được thành lập do tướng Leclerc chỉ huy.
Đô đốc d'Argenlieu làm Cao ủy Pháp tại Đông Dương.


Vào những ngày đầu của tháng 9 năm 1945, quân Anh đổ bộ vào Sài Gòn với danh nghĩa Đồng Minh
để tước khí giới Nhật nhưng kỳ thật mở đường cho Pháp trở lại Việt Nam. Ngày 23/9/1945 với sự
giúp sức của quân Anh, quân Pháp chiếm được trụ sở UBND Nam Bộ rồi mở rộng chiến tranh ra toàn
Nam Bộ, Campuchia và miền Nam Trung Bộ. Nhân dân miền Nam lại bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Chính phủ phát động trên khắp cả nước phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến
của nhân dân miền Nam. trong một thời gian ngắn, những đoàn quân Nam tiến từ các miền của đất
nước lên đường vào Nam chiến đấu. Chiến tranh du kích diễn ra khắp Nam Bộ. Quân Pháp bị đánh
phá nhiều nơi.


3. Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946)


Sau khi đem quân đánh chiếm nhiều nơi ở Nam Bộ, để thực hiện việc chiếm lại toàn cõi Việt Nam,
thực dân Pháp ký với Tưởng Giới Thạch một hiệp ước cho phép quân Pháp thay thế quân Trung
Quốc ở Bắc Bộ. Tuy thế quân Trung Quốc vẫn chưa thi hành hiệp ước này. Trước tình hình đó, Hội
Nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí chủ trương "hịa để tiến" để có thời gian chuẩn bị lực
lượng đối phó, đồng thời loại bớy một kẻ thù là quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Ngày 6/3/1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đại diện cho Chính phủ Việt Nam và Sainteny, đại diện cho chính phủ Pháp, ký hiệp
định Sơ bộ, công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia tự do nằm trong khối Liên
Hiệp Pháp. Nước Việt Nam có chính phủ, nghị viện, tài chính và qn đội riêng. Sự thống nhất đất
nước sẽ do trưng cầu dân ý quyết định. Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào thay
thế quân Tưởng rút về nước. Số quân Pháp này phải đóng ở những nơi quy định và phải rút khỏi Việt
Nam trong 5 năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở ngun vị trí đóng qn. Hai bên thực hiện
ngừng bắn tại Nam Bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tháng 6 đến tháng 9 nhằm giải quyết việc quan hệ giữa hai nước và vấn đề Nam bộ nhưng không đi
đến kết quả. Để tỏ thiện chí hịa bình của Việt Nam và để có thêm thời gian chuẩn bị lực lượng cho


cuộc kháng chiến, Hồ Chủ tịch đã dàn xếp ký bản Tạm ước vào ngày 14/9/1946. Hai bên thỏa thuận
đình chỉ các cuộc xung đột; Pháp cam kết thi hành các quyền tự do dân chủ ở Nam Bộ và trả lại tự do
cho một số nhà yêu nước; Việt Nam đảm bảo cho Pháp một số quyền lợi kinh tế và văn hóa trên lãnh
thổ Việt Nam. Các điều khoản của bản Tạm ước chỉ có tính cách tạm thời.


II. Kháng chiến tồn quốc


1. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ


Việt Nam đã áp dụng biện pháp nhân nhượng với đối phương khi ký Hiệp ước sơ bộ và Tạm ước,
nhưng thực dân Pháp không tôn trọng các thỏa ước ấy, ngày càng lấn tới, ráo riết đánh chiếm nhiều
nơi. Đầu tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị "Cơng việc khẩn cấp bây giờ", nêu rõ phương
hướng cơ bản và nhiệm vụ chủ yếu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ngày 18/12/1946 thực dân
Pháp gửi tối hậu thư đòi tước vũ khí lực lượng Tự Vệ Thủ Đơ. Khả năng hịa hỗn với thực dân đã
chấm dứt. Đêm 19/12/1946 cuốc kháng chiến tồn quốc bùng nổ. Cơng nhân nhà máy điện Yên Phụ
phá máy, cho tắt điện cả thành phố Hà Nội làm hiệu lệnh chiến đấu trong tồn thành. Chủ tịch Hồ Chí
Minh phát "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" động viên toàn thể đồng bào đứng lên đánh đuổi thực
dân cứu nước.


Phương châm chiến lược của cuộc kháng chiến là lâu dài, phải dựa vào sức mình là chính và huy
động sức mạnh toàn dân. Sau khi tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận quân Pháp, quân Việt Nam rút ra
khỏi các thành phố, thị xã, thực hiện phương châm bảo toàn lực lượng, kháng chiến lâu dài. Một bộ
phận vũ trang nhỏ được gài lại để làm nòng cốt cho chiến tranh du kích trong vùng tạm chiếm. Nhân
dân triệt để áp dụng chiến thuật "vườn không nhà trống" và xây dựng làng chiến đấu.


2. Chiến dịch Việt Bắc (1947)


Sau khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chính phủ và Hồ Chủ tịch rút về căn cứ địa Việt Bắc
(Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc trung
du Bắc bộ) và lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ. Quân Pháp chiếm được các thành phố, thị trấn


và kiểm sốt các tuyến đường giao thơng quan trọng. Thực dân Pháp muốn tiến nhanh, đánh nhanh,
nhưng gặp phải sức kháng cự của nhân dân và quân đội Việt Nam, nên vẫn phải kéo dài cuộc chiến.
Tháng 3/1947 d'Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Emile Bollaert thay thế, xúc tiến việc lập chính phủ bù
nhìn Bảo Đại, cắt đứt mọi đàm phán với chính phủ Việt Nam và lập kế hoạch tấn công Việt Bắc.
Tháng 10/1947, 12.000 quân Pháp mở cuộc tiến công qui mô vào vùng giải phóng Việt Bắc. Một bộ
phận quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Bắc Cạn, Chợ Mới vào ngày 7/10. Đồng thời quân Pháp tiến
vây Việt Bắc từ nhiều phía. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Trên sơng Lơ, hải qn Pháp bị phục kích,
nhiều tàu chiến, ca nơ bị đánh chìm. Qn nhảy dù xuống Bắc Cạn bị bao vây, bắn tẻ. Sau hai tháng
kịch chiến, quân và dân ta loại khỏi vòng chiến hơn 6.000 địch, bắn hạ 16 máy bay, hàng trăm xe tăng
bị phá, 11 tàu chín và canơ bị đánh chìm. Cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến vẫn được an toàn.
Bộ đội chủ lực giành được nhiều vũ khí của địch. Quân Pháp phải rút khỏi Việt Bắc.


3. Chiến dịch Cao Bắc Lạng (1950)


Sau khi thất bại tại Việt Bắc, thực dân Pháp thực hiện chính sách "dùng người Việt đánh người Việt,
dùng chiến tranh ni chiến tranh". Chúng tăng cường đóng đồn bót ở nhiều nơi, tiến hành càn quét
các vùng giải phóng, sử dụng Việt gian để đánh phá lực lượng kháng chiến. Tuy thế, cơ sở kháng
chiến vẫn phát triển, vùng giải phóng ngày càng được mở rộng, các phong trào chống đi lính, chống
nộp thuế vẫn diễn ra quyết liệt. Để đối phó, quân Pháp thiết lập "hành lang Đông Tây" nhằm cắt đứt
liên lạc của căb cứ địa Việt Bắc với đồng bằng. Ban Thường vụ Trung ương Đảng quyết định phát
động chiến dịch Cao Bắc Lạng để tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch và củng cố căn cứ
địa Việt Bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thắng quyết định sau này.


4. Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
a. Kế hoạch Navarre


Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam tiếp tục một cách kiên cường. Lực lượng kháng chiến càng
ngày càng phát triển vì huy động được sức mạnh tồn dân. Các vùng giải phóng được mở rộng diện


tích khơng ngừng tạo được thế liên hoàn ở các vùng đồng bằng và trung du bắc bộ. Vùng Tây Bắc lại
được giải phóng vào năm 1952, phá tan ý đồ lập "xứ Thái tự trị" của Pháp. Đến năm 1953, bộ đội Việt
Nam đã lớn mạnh về chất cũng như về số lượng, có khả năng chủ động trên chiến trường.


Trong khi ấy lực lượng quân Pháp bị tiêu hao rõ rệt. Trên ba trăm nghìn quân Pháp bị diệt, vùng bị
Pháp chiếm càng ngày càng bị thu hẹp lại. Chính phủ Pháp bèn dựa vào viện trợ Mỹ để đối phó.
Tháng 5/1953 Đại tướng Henri Navarre được chính phủ Pháp cử làm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp tại Đông Dương với sự thỏa thuận của Mỹ. Henri Navarre nổi tiếng là có tài, đã từng được
đào tạo tại trường quân sự Saint Cyre từ năm 18 tuổi, là Trung đoàn trưởng của quân đội Pháp trong
Thế chiến thứ hai và là tham mưu trưởng Lục quân Trung Âu trong khối quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO). Navarre vạch kế hoạch bình định Đơng Dương trong vịng 18 tháng.


b. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ


Thực hiện kế hoạch này, quân Pháp ra sức càn quét tại miền Nam và xây dựng tập đoàn cứ điểm tại
Điện Biên Phủ để giữ thê 1phòng ngự tại miền Bắc. Điện Biên Phủ là một châu l��»§a châu Điện
Biên, tỉnh Lai Châu, cách Hà Nội 480km về phía Tây Bắc, nằm gần biên giới Việt Lào. Địa hình Điện
Biên Phủ rất hiểm trở. Vùng núi cao có diện tích 200.000 ha, chiếm 65% diện tích huyện Điện Biên
Phủ ngày nay. đỉnh cao nhất là Pú Huồi (2.178m). Điện Biên có một lịng chảo với các đồi nhỏ bao
quanh. Vùng lịng chảo này có diện tích 25.700 ha ruộng, đặc biệt có cánh đồng Mường Thanh, nổi
tiếng là vùng nơng nghiệp lúa nước giàu có của khu Tây Bắc.


Sau khi phát hiện Đại đoàn 316 của quân đội Việt Nam hành quân lên Tây Bắc, ngày 20.11.1953
Navarre mở cuộc hành quân Castor, cho 6 tiểu đồn tinh nhuệ lê dương nhảy dù chiếm đóng Điện
Biên. Sau bốn tháng chiếm đóng, Pháp biến Điện Biên thành một tập đồn cứ điểm mạnh nhất Đơng
Dương. Lực lượng của Pháp ở đây có đến 16.000 quân gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo
binh với 40 khẩu pháo 105 ly và 155 ly, 1 tiểu đồn cơng binh, 1 đại đội xe tăng 10 chiếc, 1 đại đội xe
vận tải hàng trăm chiếc, 1 phi đội không quân.


Navarre đưa ra những tuyên bố rất lạc quan: "Điện Biên Phủ là một pháo đài không thể công phá",


hoặc "Việc đánh bại Việt Minh, dĩ nhiên là điều chắc chắn". Còn De Castries, Tư lệnh trực tiếp chỉ huy
Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ lại cho rải truyền đơn thách thức tướng Võ Nguyên Giáp.


c. Các diễn tiến của chiến dịch Điện Biên Phủ


Ngay từ khi quân Pháp mới lập cứ điểm Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam cùng
Chủ tịch Hồ Chí Minh họp vào ngày 6.12.1953 quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, thành lập Bộ
chỉ huy và Đảng ủy mặt trận do tướng Võ Nguyên Giám làm Chỉ huy trưởng và Bí thư Đảng ủy mặt
trận. Một Hội đồng cung cấp mặt trận cũng được thành lập, do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm
chủ tịch.


Trên 200.000 dân công với hơn 10 triệu ngày công đã được huy động để phục vụ mặt trận Điện Biên.
Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh để mở đường, phá bom nổ chậm
của địch trên các tuyến giao thông. Hàng vạn xe đạp thồ, xe trâu, xe bò, xe ngựa, thuyền bè đã được
dùng để vận chuyển lương thực và vũ khí ra mặt trận.


Chiến dịch Điện Biên Phủ gồm ba đợt tấn công như sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trong 10 ngày tiếp theo chiến thắng đầu tiên ấy, dưới hỏa pháo ác liệt của đối phương, bộ đội Việt
Nam đào hơn 100km giao thông hào bao quanh khu trung tâm Mường Thanh để chuẩn bị cho đợt tấn
công thứ hai.


Đợt 2 (từ ngày 30.3 đến 26.4): bộ đội tấn công các cứ điểm phía Đơng. Đó là những cứ điểm cốt yếu
nên trận chiến xảy ra vô cùng ác liệt nhất là tại đồi A 1 (Eliane 2), ta chiếm, địch lại phản công chiếm
lại. Đến giữa tháng tư, bộ đội tiến đến được sân bay Mường Thanh, cắt đứt con đường tiếp tế bằng
hàng không của địch. Hầu hết đạn dược, thực phẩm được thả dù tiếp tế cho quân Pháp đều rơi về
phía bộ đội.


Đợt 3 (từ ngày 1.5 đến 7.5): bộ đội đánh chiếm các đồi cịn lại ở phía Đơng. Đồi A 1 và C 1 (Eliane 1)
bị tiêu diệt hoàn toàn. Đến chiều ngày 7.5 với đợt tấn công cuối cùng, bộ đội tiến vào khu trung tâm.


Một tiểu đội bộ binh thuộc Trung đồn 209 tấn cơng vào sở chỉ huy Pháp, De Castries phải đầu hàng.
Sau 55 này đêm anh dũng chiến đấu, bộ đội Việt Nam làm chủ hoàn toàn Điện Biên Phủ, diệt được
16.200 địch quân, trong đó có một tướng, 16 tá, 1.749 sĩ quan và hạ sĩ quan, 62 máy bay. Chính phủ
Pháp vội vã triệu hồi H. Navarre để thực hiện việ rút quân.


5. Hiệp định Genève


Hội nghị Genève khai mạc vào ngày 26.4.1954 vào lúc bộ đội Việt Nam chuẩn bị đợt tấn công thứ ba
của chiến dịch Điện Biên Phủ. Vào ngày 8.5 phái đồn Việt Nam do ơng Phạm Văn Đồng làm trưởng
đoàn đến hội nghị với tư thế của kẻ chiến thắng. Hội nghị có 9 phái đoàn tham dự. Ngoài phái đoàn
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hịa, cịn có đại diện nước Pháp, Liên Xô cũ, Anh, Trung Quốc,
Mỹ, Campuchia, Lào và Chính phủ Bảo Đại.


Sau gần ba tháng đàm phán, hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết vào ngày 20.7.1954 với
nội dung chủ yếu như sau:


Nước Pháp và các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ như Việt Nam, Lào và Campuchia.


Ngừng bắn, ngừng chuyển qn tại Việt Nam và trên tồn Đơng Dương. Lấy vĩ tuyến 17 làm giới
tuyến quân sự tạm thời.


Pháp rút khỏi Đông Dương và mỗi nước Đông Dương sẽ tuyển cử tự do


</div>

<!--links-->

×