Tải bản đầy đủ (.pdf) (149 trang)

Quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 149 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỖ THỊ KIỀU VÂN

QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ VĂN HÓA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



ĐỖ THỊ KIỀU VÂN

QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VÀ VĂN HÓA TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở
TỈNH ĐẮK LẮK

Chuyên ngành: TRIẾT HỌC



Mã số: 60.22.03.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. VŨ ĐỨC KHIỂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận văn là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Vũ Đức Khiển, và chưa từng được
công bố trên một cơng trình khoa học nào. Các số liệu, tài liêu, trích
dẫn trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn gốc rõ ràng.
TP. Hồ Chí Minh tháng 11 năm 2015
Tác giả

Đỗ Thị Kiều Vân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG ......................................................................................... 13
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA, QUAN HỆ
GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA .............. 13
1.1. KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ ........................................................... 13
1.1.1. Khái niệm kinh tế........................................................................... 13
1.1.2. Khái niệm phát triển kinh tế ........................................................ 17


1.2. VĂN HÓA VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HĨA ...................................................... 26
1.2.1. Khái niệm văn hóa ....................................................................... 26
1.2.2. Khái niệm phát triển văn hóa ..................................................... 35
1.3. QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA .......................................................................................................... 42

1.3.1. Vai trò của phát triển kinh tế đối với phát triển văn hóa .......... 43
1.3.2. Vai trị của phát triển văn hóa đối với phát triển kinh tế ......... 46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................................... 59
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẲM THỰC HIỆN
HIỆU QUẢ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ VĂN HÓA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY .......... 61
2.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN
HÓA CỦA TỈNH ĐẮK LẮK ........................................................................ 61

2.1.1 Điều kiện tự nhiên của tỉnh Đắk Lắk ......................................... 61
2.1.2 Đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk.............................. 64
2.1.3 Đặc điểm văn hóa của tỉnh Đắk Lắk......................................... 68
2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA Ở TỈNH ĐẮK LẮK TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY ................ 71


2.2.1. Tác động của phát triển kinh tế đối với phát triển văn hóa ở
tỉnh Đắk Lắk hiện nay ................................................................ 73
2.2.2. Tác động của phát triển văn hóa đối với phát triển kinh tế ở
tỉnh Đắk Lắk hiện nay ................................................................ 83
2.2.3. Nguyên nhân của những tác động tích cực và tiêu cực trong
quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở tỉnh
Đắk Lắk trong sự nghiệp đổi mới hiện nay............................... 96

2.3. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THỰC
HIỆN HIỆU QUẢ QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ VĂN HÓA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI Ở TỈNH ĐẮK LẮK HIỆN NAY .................... 107

2.3.1. Một số phƣơng hƣớng cơ bản nhằm thực hiện hiệu quả quan hệ
giữa phát triển kinh tế và văn hóa ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay .... 107
2.3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả quan hệ giữa phát
triển kinh tế và văn hóa ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay ................. 111
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................................. 126
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................... 129
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................... 133


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào những năm giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, đất nước ta rơi vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, sản xuất tăng chậm, kinh tế mất cân đối
nghiêm trọng, lưu thông phân phối rối ren, chủ nghĩa bình qn xác lập các
chuẩn mực giá trị văn hóa. Các hiện tượng tiêu cực phát triển, văn hóa đạo
đức sa sút, văn hóa pháp luật yếu kém, kỷ cương khơng nghiêm, cơng bằng xã
hội bị vi phạm. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương xây
dựng một hình thái kinh tế - xã hội mới phát triển toàn diện, đồng bộ trên mọi
lĩnh vực, chú trọng phát triển quan hệ phát triển kinh tế gắn bó chặt chẽ với
phát triển văn hóa, trong đó phát triển kinh tế là điều kiện, là cơ sở vật chất
quyết định sự phát triển văn hóa, cịn phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần
của xã hội, là nhân tố động lực bên trong của phát triển kinh tế - xã hội. Quan
hệ mang tính quy luật này trước đó đã được các nhà mácxít khái qt lên
thành phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Theo C. Mác “Toàn bộ những quan

hệ sản xuất xã hội tạo thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực,
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý chính trị và hình thái ý
thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất
đời sống vật chất quyết định các q trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh
thần nói chung.” [18, 15]. “Sự phát triển văn hóa tinh thần bị quy định bởi
những nhân tố kinh tế, nhưng sự phát triển văn hóa tinh thần lại ảnh hưởng
đến cơ sở kinh tế” [54, 50]. Như vậy, mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa là
sự biểu hiện của quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội,
trong đó kinh tế thuộc cơ sở hạ tầng, văn hóa thuộc kiến trúc thượng tầng.
Kế thừa quan điểm của các nhà mácxít, Hồ Chí Minh đã ln nhấn mạnh
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa: Xây dựng kinh tế để tạo điều
kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa. Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội


2

thì phải phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân. Và trong thời kỳ đổi mới, Nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
(trong Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII) cũng đã
chỉ ra rằng: “Hai vấn đề văn hóa và kinh tế - xã hội gắn chặt với nhau, vừa là
những vấn đề cơ bản lâu dài, vừa cấp bách trước mắt. Nếu nhận thức đúng và
giải quyết sẽ thúc đẩy đất nước vượt qua khó khăn, phát triển mạnh mẽ bền
vững; nhưng nếu nhận thức khơng đúng, giải quyết khơng tốt thì tình hình sẽ
trở nên phức tạp hơn nhiều” [52, 17].
Nhận thức được tầm quan trọng của quan hệ phát triển kinh tế và văn
hóa trong sự nghiệp đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương,
chính sách nhằm nâng cao, cải thiện đời sống vật chất cũng như tinh thần của
nhân dân, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (2006) đã xác nhận:
“Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt và phát triển văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội” [ 42, 213]. Và sau

gần 30 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu cơ bản: Kinh tế
tăng trưởng khá, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được củng cố,
quan hệ đối ngoại được rộng mở. Đời sống vật chất của nhân dân ngày được
cải thiện. Mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân từng bước tăng lên. Lòng tin
của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ngày càng tăng. Những thành tựu đạt
được trên tất cả lĩnh vực của đời sống văn hóa – chính trị, kinh tế - xã hội đã
đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng; đồng thời tạo tiền đề cần thiết để bước
vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Qn triệt tinh thần Nghị quyết các kỳ đại hội, tất cả các địa phương
trong cả nước cũng như tại Đắk Lắk, quan hệ phát triển kinh tế và văn hóa
ln được coi trọng, bởi nó tác động rất lớn đến nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân, ảnh hưởng đến q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa


3

Đắk Lắk trở thành một trong những địa phương có nhịp độ phát triển nhanh
và bền vững của vùng Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Đắk Lắk là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc, có trình độ phát triển kinh
tế - xã hội tự thân khác nhau, có nhiều tiềm năng phát triển với những thuận
lợi và thách thức đặc thù, lại là vùng đất đa dạng về bản sắc văn hóa, có
chiến lược về kinh tế, mơi trường sinh thái và quốc phịng – an ninh của Tổ
quốc. Tuy nhiên, Đắk Lắk cũng có những hạn chế từ hoàn cảnh lịch sử như:
cơ cấu dân cư, thành phần dân tộc, trình độ văn hóa… ảnh hưởng đến sự
phát triển bền vững. Trong những năm vừa qua, việc xuất hiện những bất ổn
về kinh tế, văn hóa – xã hội, chính trị và an ninh ở Đắk Lắk đã bộc lộ những
yếu kém, hạn chế của chính quyền các cấp trong quá trình vận dụng tổ chức
thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước nhằm kết hợp hài hịa giữa kinh tế
và văn hóa. Điều đó địi hỏi trong chính sách của Đảng, trong sự quản lý của
Nhà nước cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn trên các vấn

đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đồng thời, chính quyền địa phương cần
phải vận dụng tốt chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của
địa phương mình đúng đắn trong việc phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây
dựng Đắk Lắk thành một tỉnh giàu về kinh tế, bảo tồn được bản sắc văn hóa,
vững về chính trị, mạnh về quốc phịng. Vì vậy, với những yêu cầu nảy sinh
trong sự nghiệp đổi mới của đất nước thì việc nghiên cứu và xây dựng quan
hệ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói
giảm nghèo của tỉnh Đắk Lắk là một vấn đề cấp thiết góp phần khai thác
mạnh mẽ tiềm năng và vị trí chiến lược quan trọng, phát triển toàn diện và
bền vững kinh tế - xã hội của Đắk Lắk cũng như nước ta hiện nay.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn đã phân tích ở trên, tác giả chọn
đề tài: “Quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp đổi mới
ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.


4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa ở
tỉnh Đắk Lắk trong sự nghiệp đổi mới là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng,
góp phần giải quyết những vấn đề cần thiết đặt ra trong tiến trình cách mạng
và trong kinh tế - xã hội, đặc biệt là thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế ở tỉnh Đắk Lắk.
Hiện nay có rất nhiều tác phẩm, cơng trình khoa học nghiên cứu của tác
giả, các nhà khoa học bàn luận và nêu lên những quan điểm của mình về vấn
đề phát triển kinh tế và phát triển văn hóa dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng
theo ba hướng chủ yếu sau:
Hướng thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận
chung về kinh tế, văn hóa.
Theo hướng nghiên cứu này có một số tác phẩm, cơng trình nghiên cứu

về kinh tế của một số tác giả tiêu biểu như:
Tác phẩm “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá
trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” do Nguyễn Phú Trọng chủ
biên, (Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011). Nội dung tác phẩm
đề cập nhiều vấn đề phong phú về lý luận và thực tiễn, có giá trị tham khảo
quý trong việc làm rõ một số mối quan hệ cơ bản cần nắm vững và giải quyết
trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta như: quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, quan hệ giữa phát triển, ổn định và đổi
mới, quan hệ phát triển kinh tế và phát triển văn hóa cơng bằng xã hội, quan
hệ giữa Đảng và nhân dân… đồng thời gợi mở những nội dung cần được tiếp
tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, cụ thể hóa trên các mối quan hệ này.
GS.TS. Nguyễn Kế Tuấn với tác phẩm “Kinh tế Việt Nam năm 2010
nhìn lại mơ hình tăng trưởng giai đoạn 2001 – 2010” (Nxb. Đại học Kinh tế
Quốc dân, 2011). Trong tác phẩm này, tác giả đã đưa ra tình hình thực hiện


5

nhiệm vụ kinh tế, mơ hình tăng trưởng, định hướng mơ hình tăng trưởng kinh
tế của nước ta cụ thể, chi tiết và tầm quan trọng của kinh tế trong thời kỳ đổi
mới của nước ta hiện nay.
Bên cạnh đó, cịn có một số tác phẩm về phát triển kinh tế như: Bàn về
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ mới 2011 –
2020, (Nxb. Hà Nội, 2007), Bộ Kế hoạch và Đầu tư; tác phẩm “Học thuyết
Mác về hình thái kinh tế - xã hội và lý luận về con đường phát triển xã hội
chủ nghĩa ở nước ta”, Phạm Văn Chung, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2006); “Cơ sở khoa học của đổi mới kinh tế ở Việt Nam” của Lê Đăng Doanh
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997); “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do GS.TS.
Hồng Trọng Hịa chủ biên, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007); Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa kinh tế phát triển có “Giáo trình kinh
tế phát triển” (dùng cho hệ cao cấp lý luận chính trị), (Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2002); “Thuật ngữ thiết yếu về kinh tế thị trường” của PGS.PTS.
Nguyễn Đình Hương (Nxb. Khoa học xã hội, 1993); “Những vấn đề cơ bản về
kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam” do Phan Thanh Phố chủ biên, (Nxb.
Giáo dục, 1996); “Chính sách kinh tế mới của Lênin với công cuộc đổi mới ở
Việt Nam” của TS. Lê Thanh Sinh (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000) …
Nghiên cứu dưới góc độ văn hóa có các cơng trình tiêu biểu như:
Tác phẩm“Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng
Cộng sản Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Và: “Đề cương
bài giảng mơn học lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản
Việt Nam”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007. Cả hai tác phẩm được viết
dưới dạng chun đề, trong đó trình bày sự liên kết chặt chẽ lý luận, quan
điểm, đường lối văn hóa của Đảng với những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong
đời sống văn hóa dân tộc thời kỳ hội nhập.


6

Tác phẩm “Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ
đổi mới” của TS. Nguyễn Danh Tiên, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2012). Tác giả đã làm rõ vai trò lãnh đạo và xây dựng văn hóa của Đảng từ
thời kỳ đổi mới (1986) đến nay. Từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế, kinh
nghiệm của Đảng ta trong xây dựng và phát triển văn hóa thời kỳ đổi mới.
Cùng về mảng này có tác phẩm: “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”,
của đồng chí Trường Chinh, (Nxb. Sự thật – Hà Nội, 1974). Đây là những ý
kiến của đồng chí Trường Chinh về quan hệ văn hóa - xã hội, về lập trường văn
hóa mácxít, về ưu điểm, nhược điểm của văn hóa dân tộc, về tính chất và
nhiệm vụ văn hóa dân chủ mới Việt Nam, về mặt trận văn hóa thống nhất…
Tác phẩm“Phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã

hội”của TS. Trần Thị Minh, (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004). Tác giả
tập trung nghiên cứu, làm rõ nội dung phát triển văn hóa với tư cách là nền
tảng tinh thần của xã hội, khẳng định tính đúng đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo
của Đảng, trong đó phân tích thực trạng, đặt ra các phương hướng giải pháp
trong phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tác phẩm “Văn hóa vì phát triển”của GS.TS Phạm Xuân Nam, (Nxb.
Khoa học xã hội, 2005). Tác giả đã làm rõ vị trí, vai trị và mối quan hệ của
văn hóa trong sự phát triển nói chung, một số lĩnh vực của đời sống xã hội và
giao lưu, hợp tác quốc tế nói riêng, được tác giả sắp xếp logíc, hợp lý tạo
thành một cơng trình khoa học có chất lượng cao. Tác phẩm “Văn hóa với
phát triển bền vững” của TS.Hồ Bá Thâm, (Nxb.Văn hóa - Thông tin, 2012).
Tác phẩm là kết quả nghiên cứu tổng hợp nội dung lý luận xuất phát từ thực
tiễn, phân tích phát triển văn hóa trong quan hệ với phát triển kinh tế trên thế
giới và nước ta, từ việc phân tích thực tiễn, yêu cầu, thách thức, tác giả đã đưa
ra những giải pháp phát triển cụ thể trên lĩnh vực văn hóa.


7

Tác phẩm “Văn hóa Việt Nam trên con đường đổi mới những thời cơ và
thách thức” của GS.TS Trần Văn Bính, (Nxb. Khoa học xã hội, 2010). Tác
phẩm là cơng trình khoa học có chất lượng cao của tác giả, được tác giả sắp
xếp lơgích, hợp lý những vấn đề như quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,
Hồ Chí Minh, và Đảng ta về văn hóa, thấy được những thời cơ và thách thức
của quá trình hội nhập quốc tế, đồng thời chỉ ra được vấn đề then chốt của sự
phát triển kinh tế và văn hóa ở nước ta hiện nay.
Tác phẩm “Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề văn hóa trong phát triển”
của TS. Đỗ Thị Minh Thùy (chủ biên), (Nxb. Văn hóa – Thơng tin và Viện
văn hóa, 2006). Tác giả đã phân tích, làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về

văn hóa như văn hóa trong phát triển, văn hóa phát triển, tiếp biến văn hóa,
động lực văn hóa. Tư tưởng của Người được thể hiện qua đường lối và chủ
trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, từ giải phóng
dân tộc cho đến xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Tác phẩm “Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu
hóa hiện nay” của TS. Phạm Thanh Hà, (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2012). Tác giả đã phân tích cơ sở hình thành, những đặc điểm và nhấn mạnh
vai trò tác động của bản sắc dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa. Từ đó đề ra
những định hướng, giải pháp nhằm gìn giữ, phát huy bản sắc dân tộc, phát
triển lành mạnh con người, xã hội, và sự phát triển bền vững của đất nước…
Hướng thứ hai, nghiên cứu lý luận chung về quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa, trong đó có các tác phẩm, cơng trình tiêu biểu:
Tác phẩm “Phát triển đồng bộ và tương xứng văn hóa với kinh tế”, của
TS. Hồ Bá Thâm (chủ biên), (Nxb. Chính trị Quốc gia - Hà Nội, 2011), đã
nêu một cách khái quát quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, làm rõ cả về lý luận
và phương pháp, khái quát thực tiễn thông qua sự phát triển chưa đồng bộ,


8

cũng như nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên, đồng thời đề xuất những mục
tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về phát triển kinh tế và văn hóa mang tính bền vững.
Ngồi ra cịn một số tác phẩm khác viết về quan hệ phát triển kinh tế và
văn hóa như: “Văn hóa vì phát triển” (Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1998)
của GS. TS. Đỗ Huy, “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội – Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung”, (Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội) do TS. Phạm Hào, TS. Võ Xuân Tiến và TS. Mai Đức Lộc (đồng
chủ biên); “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam”,
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010) do GS.TS. Hoàng Đức Thân, TS.
Đinh Quang Ty (chủ biên). Và một số đề tài nghiên cứu về quan hệ kinh tế và

văn hóa đó là luận văn thạc sĩ “Quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển
văn hóa ở Tiền Giang hiện nay” của Phạm Thị Mỹ Phượng, 2011, trường
KHXHVNV.TPHCM; “Quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, luận văn thạc sĩ triết học của Vũ
Đức Khiển (1996), trường Đại học KHXHVNV. ĐHQG. TPHCM.
Ngồi những tác phẩm trên, Đảng và Nhà nước cịn đưa ra nhiều Văn
kiện, nghị quyết để làm rõ quan hệ phát triển kinh tế và văn hóa như: Văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, VIII, X, Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
và hội nhập, Nghị quyết Trung ương khóa 10 (khóa IX), Nghị quyết Trung
ương 4 (khóa VIII), Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI….Và những Hội thảo,
tham luận, bài báo…cũng nhằm làm rõ vấn đề phát triển kinh tế và văn hóa
như: “Vai trị của triết học đối với phát triển kinh tế”, của Trần Văn Phòng,
số 9 năm 2009 của Viện triết học; “Công bằng xã hội trong kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa”, của Nguyễn Duy Quý, số 03, năm 2008 của
Viện Triết học; “Một số vấn đề cần quan tâm trong việc giải quyết mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội” của GS. TS Đỗ Huy, số 12 năm 2009, Viện Triết học …


9

Hướng thứ ba, các cơng trình nghiên cứu về kinh tế, văn hóa, quan
hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa ở Đắk Lắk trong sự nghiệp đổi mới
Theo hướng này, đã có nhiều tác phẩm, cơng trình nghiên cứu, trong đó
có một số tác phẩm tiêu biểu của một số tác giả sau:
Về góc độ kinh tế - văn hóa, xã hội ở khu vực Tây Nguyên nói chung thì
có tác phẩm tiêu biểu: GS. TS. Trần Văn Bính (2006), “Đời sống văn hóa các
dân tộc thiểu số trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Lý
luận Chính trị, Hà Nội; Bộ Cơng thương (2010), “Sự phát triển vùng dân tộc
thiểu số Việt Nam sau hội nhập”, Nxb. Công thương, Hà Nội; Bùi Minh Đạo

(2011), “Thực trạng phát triển Tây Nguyên và một số vấn đề phát triển bền
vững”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng
(Đồng chủ biên), (2010), “Một số vấn đề về văn hóa – xã hội các dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Riêng ở tỉnh Đắk Lắk, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa được
đánh giá chính xác và tồn diện qua các văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Đắk Lắk lần thứ XIV, XV; các Báo cáo thống kê về tình hình phát triển
kinh tế - xã hội Đắk Lắk do Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk thực hiện như:
Báo cáo - Tình hình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh
năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ

, Báo cáo - Tình

hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk 9 tháng đầu năm 2014, số 195/ BC –
UBND, Niêm giám thống kê 2013 của Cục thống kê tỉnh Đắk Lắk… Tại các
Báo cáo và Văn kiện của tỉnh Đắk Lắk, tình hình kinh tế - văn hóa của tỉnh
hiện nay đã được làm rõ, qua đó nêu ra một số nguyên nhân tích cực và hạn
chế trong q trình xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Đề ra những
phương hướng và giải pháp thích hợp với điều kiện phát triển trong tỉnh.
Ngồi ra cịn có nhiều cơng trình nghiên cứu và bài viết về vấn đề kinh
tế và văn hóa của tỉnh Đắk Lắk như: “Một số vấn đề về kinh tế - xã hội và


10

quan hệ dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk” của Nguyễn Văn Tiệp (chủ biên) – Bùi
Minh Đạo – Nguyễn Thị Thanh Vân, (Nxb. ĐHQG. TPHCM, 2011); “Cộng
đồng dân tộc Ê Đê ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” của Viện khoa học xã hội Việt
Nam, Viện Phát triển bền vững vùng Trung Bộ, PGS. TS. Hà Đình Thành,
(Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2012); Luận văn thạc sĩ “Vai trò của gia

đình cộng đồng người Ê Đê trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh
Đắk Lắk” của Nguyễn Thị Phương (Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn. ĐHQG. TP.HCM, 2012); Luận án tiến sĩ “Giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” của Th.s Nguyễn
Đình Quốc Cường, (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. ĐHQG.
TP.HCM, 2013); Luận văn thạc sĩ “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” của Lê Thị Mai Hoa, (Trường
Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. ĐHQG. TP.HCM, 2014).
Tất cả những tác phẩm, những công trình khoa học nêu trên làm nguồn
tài liệu quý giá, vơ cùng phong phú và hữu ích cho bản thân tác giả tham
khảo, kế thừa và vận dụng vào việc thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của luận văn
Mục đích của luận văn làm rõ nội dung mối quan hệ giữa phát triển
kinh tế và phát triển văn hóa ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Luận văn đề xuất các
giải pháp góp phần thực hiện tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển
văn hóa trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Đắk Lắk.
Nhiệm vụ của luận văn, để đạt được mục đích trên luận văn cần tập
trung thực hiện các nhiệm vụ chính yếu sau đây:
Thứ nhất: Trình bày, phân tích và làm rõ lý luận quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa, phát triển kinh tế và phát triển văn hóa.


11

Thứ hai: Trình bày, phân tích điều kiện, đặc điểm, thực trạng và nguyên
nhân thực trạng quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa của tỉnh
Đắk Lắk trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Thứ ba: Đề xuất phương hướng cơ bản và những giải pháp chủ yếu để
thực hiện tốt quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa của tỉnh Đắk Lắk
trong sự nghiệp đổi mới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:
Quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa trong sự nghiệp đổi mới.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu nội dung về quan hệ giữa phát
triển kinh tế và văn hóa ở tỉnh Đắk Lắk, để qua đó đánh giá đúng vai trị, vị
trí, chức năng của kinh tế và văn hóa trong cơng cuộc đổi mới ở tỉnh Đắk Lắk.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện chủ yếu dựa trên cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh tế, văn hóa, cũng như quan hệ
giữa phát triển kinh tế và văn hóa.
Để hồn thành luận văn này tác giả đã kế thừa kết quả các cơng trình
nghiên cứu khoa học về kinh tế, văn hóa, quan hệ giữa kinh tế và văn hóa theo
quan điểm của Đảng, Hồ Chí Minh đã được công bố.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã được thực hiện dựa trên phương pháp luận của phép biện
chứng duy vật và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân
tích – tổng hợp, phương pháp lơgích - lịch sử, phương pháp so sánh và đối
chiếu, phương pháp tổng kết thực tiễn, khái quát hóa… để nghiên cứu.


12

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận: trên cơ sở phân tích và hệ thống hóa nội dung chủ
yếu về quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn hóa ở tỉnh Đắk Lắk trên các mặt
về vị trí, vai trị, chức năng của kinh tế và văn hóa trong cơng cuộc đổi mới
của tỉnh Đắk Lắk, luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về

phát triển kinh tế và phát triển văn hóa cũng như quan hệ giữa chúng trong sự
nghiệp đổi mới ở nước ta.
Ý nghĩa thực tiễn: thông qua việc đánh giá đúng vị trí, vai trị, chức
năng, cũng như những hạn chế của mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và văn
hóa ở tỉnh Đắk Lắk, luận văn góp phần rút ra những bài học bổ ích đối với sự
nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng nền văn hóa dân tộc tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc trong sự nghiệp đổi mới ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay. Kết quả của
đề tài luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về kinh tế và văn hóa tại các trường cao đẳng và đại học ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết.


13

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ, VĂN HÓA VÀ QUAN HỆ GIỮA
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

1.1. KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Trong mọi hoạt động của con người, hoạt động kinh tế là một trong
những hoạt động quan trọng nhất vì nó trực tiếp quyết định đến đời sống vật
chất và các hoạt động khác của con người. Người ta thường lấy trình độ phát
triển kinh tế để so sánh mức độ phát triển và sức mạnh của một quốc gia. Vì
thế, tìm hiểu khái niệm kinh tế, phát triển kinh tế là một vấn đề cấp thiết.
1.1.1. Khái niệm kinh tế
Thuật ngữ kinh tế lần đầu tiên xuất hiện ở Phương Đông trong sách cổ
“Chu dịch” của Trung Quốc với hai chữ là “Kinh” và “Tế”. Sau đó các văn
bản cổ đời nhà Tùy, nhà Tống, thuật ngữ “kinh tế” tiếp tục được đề cập với

nguyên nghĩa là “kinh bang tế thế”, là sửa nước cứu đời, hoặc “kinh quốc tế
dân”, là trị nước giúp dân. Trong đó, “kinh” là sửa trị, “tế” là ích lợi, giúp ích.
[1, 387]. Ở phương Tây, thuật ngữ kinh tế xuất hiện sớm nhất trong tác phẩm
“Kinh tế luận” của các nhà tư tưởng Hy Lạp Xênôphôn với nghĩa là “quản lý
gia đình”, tức quản lý các mặt sản xuất và sinh hoạt trong gia đình chủ nô.
Kinh tế là một phạm trù cơ bản trong kinh tế học nói riêng và lý luận
mácxít nói chung. Kinh tế phản ánh một lĩnh vực của đời sống xã hội, gắn
liền với việc tạo ra các điều kiện vật chất cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. [81, 14]. Ngày nay, thuật ngữ kinh tế còn
dùng để chỉ: các hoạt động kinh tế bao gồm các hoạt động về sản xuất, phân
phối và trao đổi hoặc tiêu dùng; nền kinh tế quốc dân như kinh tế nông nghiệp,
kinh tế công nghiệp, kinh tế thương nghiệp, kinh tế dịch vụ…; cơ cấu kinh tế
với tư cách là tổng hòa các quan hệ xã hội.


14

Theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam, kinh tế có hai nghĩa
sau: “1. Tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước, liên quan
đến tồn bộ hay một phần của tổng q trình bao gồm sản xuất, trao đổi, phân
phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. 2. Tổng thể những mối quan hệ trong quá
trình sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, trong tổ chức và hoạt
động của cơ cấu hạ tầng xã hội, bao gồm các ngành kinh tế - kỹ thuật, các loại sản
xuất tương ứng. Nền kinh tế quốc dân của một nước bao gồm các ngành, các vùng
lãnh thổ, các cơ sở và các loại hình sản xuất, và bao gồm các khâu của nền sản
xuất xã hội (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng) trên toàn bộ lãnh thổ một
đất nước. Mỗi một phương thức sản xuất đều có một nền kinh tế riêng. Mỗi nền
kinh tế đều do các quan hệ sản xuất, cũng như tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất quy định” [71, 584]. Theo định nghĩa này, kinh tế là toàn bộ hoạt động có
tính cộng đồng trong q trình sản xuất và tái sản xuất xã hội, lưu thông trao đổi

và tiêu dùng sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất của con người. Kinh tế
bao gồm nhiều nhóm quan hệ cùng tương tác qua lại, gắn kết với nhau.
Trong Từ điển kinh tế chính trị: “Kinh tế là toàn bộ những mối quan hệ
sản xuất nhất định trong lịch sử, cơ sở hạ tầng của xã hội; hoạt động sản xuất
của một nước nhất định, bao gồm các ngành và các loại hình sản xuất tương
ứng. Mỗi một phương thức sản xuất đều có nền kinh tế riêng của nó, được
phân biệt bởi tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất, mục đích phát triển sản xuất,
hình thức và phương thức sản xuất kinh doanh” [134, 198]. Như vậy, nền
kinh tế là toàn bộ các ngành kinh tế phản ánh những nét đặc trưng của phương
thức sản xuất tương ứng với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, vị
trí địa lý, truyền thống lịch sử và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
quyết định. Nó bao gồm lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực khơng sản xuất.
Theo C. Mác thì khái niệm kinh tế có thể hiểu là tồn bộ hoạt động của
con người trong quá trình “sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất” [18,


15

500], tức q trình con người sử dụng cơng cụ lao động do mình sáng tạo ra
(mà Ăngghen gọi đó là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, là “khí
quan của bộ óc con người”) để biến đổi sản vật tự nhiên thành thức ăn, đồ
vật… nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. [18, 280]
Như vậy, kinh tế là tồn bộ những mối quan hệ sản xuất nhất định trong
lịch sử, cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội, hoạt động kinh doanh của một nước
nhất định, bao gồm các ngành và các loại hình sản xuất tương ứng. Mỗi một
phương thức sản xuất đều có một nền kinh tế riêng của nó, được phân biệt bởi
tính chất sở hữu về tư liệu sản xuất, mục đích phát triển của sản xuất, hình
thức và phương thức kinh doanh. Nền tảng vật chất của sự phát triển nền kinh
tế là lực lượng sản xuất mà sự thay đổi của chúng dẫn đến những biến đổi
tương ứng trong cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội. Khâu quan trọng nhất của

nền kinh tế là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Nói đến kinh tế là nói đến mối quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất. Lực lượng sản xuất là thể thống nhất hữu cơ giữa tư liệu sản xuất (trước
hết là công cụ lao động) và người lao động với kinh nghiệm, kỹ năng lao động của
mình. Lực lượng sản xuất do con người sáng tạo ra, nhưng nó vẫn là một nhân tố
khách quan, là nền tảng vật chất của toàn bộ lịch sử loài người. Quan hệ sản xuất
là những quan hệ cơ bản giữa người với người trong sản xuất, thể hiện ở quan hệ
về mặt sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong việc tổ chức quản lý và trao
đổi hoạt động với nhau, quan hệ về mặt phân phối sản phẩm.
Kinh tế là nền sản xuất của xã hội. Đó là một thể thống nhất bao gồm nhiều
mặt, nhiều mối quan hệ, trong đó nổi lên hai loại quan hệ cơ bản: Quan hệ kinh tế kỹ thuật biểu hiện cách thức, năng lực, trình độ con người đạt được trong quá trình
tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những sản phẩm (lực lượng sản xuất). Quan hệ
kinh tế - xã hội, tức là cách thức giải quyết vấn đề, lợi ích kinh tế, là quan hệ giữa
người với người trong quá trình sản xuất, trao đổi, tiêu dùng (quan hệ sản xuất).


16

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai loại quan hệ trong kinh tế.
Tổng hợp tất cả các quan hệ sản xuất ấy tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội
nhất định (cơ sở hạ tầng), và đó cũng là vấn đề cốt lõi của kinh tế mà chúng ta
nghiên cứu trong mối quan hệ với văn hóa - nhân tố quan trọng nhất và đóng vai
trị quyết định trong kiến trúc thượng tầng. “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống
của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, khơng tùy thuộc vào ý
muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ
những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở
hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị, và
những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[18, 15].
Nhưng dù hiểu theo cách nào thì kinh tế vẫn là nội dung vật chất cốt yếu

của xã hội, là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá mức độ phát triển tiến bộ của
một xã hội, đất nước nhất định. Kinh tế thể hiện tiềm năng, tiềm lực của một
quốc gia và đời sống vật chất của mỗi người. Do vậy, con người ln tìm mọi
cách chăm lo phát triển kinh tế ngày càng giàu mạnh để thỏa mãn nhu cầu vật
chất và tinh thần không ngừng nâng cao của mình. Vì xét đến cùng, kinh tế
quyết định văn hóa và các lĩnh vực khác. “Kinh tế là một phạm trù cơ bản
trong lý luận mácxít, phản ánh một đời sống xã hội, gắn liền với việc tạo ra
các điều kiện vật chất cần thiết để thỏa mãn các nhu cầu của toàn xã hội
trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể”[ 107, 7].
Từ những nội dung phân tích ở trên, theo quan điểm mácxít, có thể hiểu:
Kinh tế là toàn bộ các lĩnh vực của một nền sản xuất xã hội mà cơ sở của nó
là các quan hệ cơ bản: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất, quan hệ phân phối những sản phẩm làm ra, trên nền tảng
của một lực lượng sản xuất nhất định.


17

1.1.2. v
Phát triển là thay đổi về lượng và chất của hệ thống từ trình độ thấp đến
trình độ cao. Mức độ và chất lượng của sự thay đổi thể hiện tính chất, trình độ
sự phát triển, phụ thuộc vào các giá trị của các yếu tố bên trong và bên ngoài
của hệ thống. Phát triển đối với một đất nước phải bao hàm cả phát triển kinh
tế, chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phịng an ninh và quan hệ quốc tế, phát
triển xã hội không tách rời môi trường tự nhiên. Khi bàn đến phát triển kinh tế
cần coi trọng tăng trưởng kinh tế, gắn liền với phát triển văn hóa. [133, 20]
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó
bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hồn chỉnh về mặt cơ cấu, thể
chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. Phát triển kinh tế là phạm trù kinh tế diễn tả
động thái biến đổi cả về chất và lượng của cuộc sống. Nó đặt tăng trưởng kinh tế

trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội. Như vậy, phát triển kinh tế có thể hiểu là
một quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định,
trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mơ sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu
kinh tế - xã hội. Đó là sự tiến bộ, thịnh vượng và cuộc sống tốt đẹp hơn. [62, 15]
Theo tiến sĩ khoa học kinh tế Phan Thúc Huân khái niệm phát triển kinh tế
bao hàm các vấn đề cơ bản sau: Thứ nhất, là mức độ gia tăng mở rộng sản lượng
quốc gia và sự tăng trưởng mức sản xuất, mức sống của quốc gia trong một thời
gian nhất định. Thứ hai, là mức độ biến đổi cơ cấu kinh tế của quốc gia, trong đó
quan trọng nhất là tỷ lệ ngành công nghiệp trong tổng sản lượng quốc dân, mức độ
tỷ lệ ngành công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân càng cao thể hiện mức
phát triển càng cao. Thứ ba, là sự tiến bộ về cơ cấu xã hội, mức độ gia tăng thu
nhập thực tế của người dân, mức độ công bằng xã hội của quốc gia. [76, 23]
Khi nói đến phát triển kinh tế thì phải nói đến tăng trưởng kinh tế. “Tăng
trưởng kinh tế là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng sản phẩm hàng hóa và dịch
vụ trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Nếu tổng sản phẩm hàng hóa


18

và dịch vụ của một quốc gia tăng lên, nó được coi là tăng trưởng kinh tế [76, 23].
Như vậy, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế có mối quan hệ biện chứng,
tăng trưởng là điều kiện cần đối với sự phát triển, nhưng nó chưa phải là điều kiện
đủ. Tăng trưởng mà không phát triển sẽ dẫn đến phân hóa giàu – nghèo, khủng
hoảng xã hội; ngược lại, phát triển mà không tăng trưởng là không tồn tại trong
thực tế. Tăng trưởng kinh tế tăng về tổng sản phẩm trong nước dù rất quan trọng
nhưng nó chỉ là một mặt của phát triển, chưa tạo ra sự phát triển bền vững, cho
nên có thể tăng trưởng nhưng không phát triển. Phát triển kinh tế bao hàm cả mặt
thay đổi cơ cấu và chất lượng tăng trưởng gắn liền với hiệu quả xã hội và sinh
thái. Cùng với phát triển kinh tế là phát triển văn hóa – xã hội tương ứng, bảo vệ
môi trường, đa dạng các nguồn tài ngun trên các lĩnh vực đó phải tích hợp thành

xu hướng phát triển bền vững nhằm mang lại hạnh phúc cho con người.
Nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục sẽ có điều kiện nâng cao
thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân; có tích lũy để tái đầu
tư, mở rộng sản xuất, thu hút lao động; có khả năng đầu tư cho giáo dục – đào
tạo, y tế để nâng cao chất lượng lao động; có điều kiện để đầu tư cho phát
triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, có điều kiện thực hiện chính sách xã hội đối với
những người thuộc đối tượng bảo hiểm xã hội và người có công với nước. Kết
quả này là điều kiện đầy đủ cho việc khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế.
Các nước trong quá trình phát triển kinh tế thường phải trải qua các giai
đoạn bắt đầu tốc độ tăng trưởng nhanh nhưng sau đó chững lại vì dân số tăng
làm thay đổi cơ cấu tuổi dân cư trong nước, các xu hướng tiêu dùng trong
nước cũng thay đổi. Số tiền thu nhập không tiêu dùng hết vào nhu cầu thiết
yếu mà bắt đầu hướng đến sử dụng các hàng hóa lâu bền, các dịch vụ và nghỉ
ngơi. “Then chốt của sự phát triển kinh tế ở đây là người dân nước đó phải là
thành viên chủ yếu của quá trình thay đổi cơ cấu. Tham gia vào quá trình phát


19

triển là tham gia tạo ra các sản phẩm, các lợi ích cho quốc gia, đồng thời tham
gia vào việc hưởng thụ lợi ích của sự phát triển đó. Nếu chỉ làm ra được một
ít lợi ích về kinh tế xã hội hoặc chỉ làm ra phục vụ cho một nhóm nhỏ người
trở nên giàu có, thì dù nhóm người đó là người bản xứ hay người nước ngồi
cũng khơng thể coi đó là sự phát triển được.” [76, 25].
Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển kinh tế
Để phản ánh được sự phát triển kinh tế, người ta thường dùng ba nhóm
chỉ số chính: các chỉ số phản ánh sự tăng trưởng kinh tế, các chỉ số về cơ cấu
kinh tế, các chỉ số xã hội.
Các chỉ số phản ánh sự tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trong nước (Gross Domestic Product – GDP) là một
trong những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh toàn bộ kết quả
cuối cùng của các hoạt động sản xuất của các đơn vị thường trú trong nền
kinh tế quốc dân của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. GDP là thước
đo kết quả hoạt động kinh tế tạo ra của cải vật chất và dịch vụ trong lãnh thổ
kinh tế một nước; nó bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế,
bao gồm những ngành sản xuất ra các loại dịch vụ, kể cả cơ quan quản lý nhà
nước, an ninh quốc phòng, các tổ chức xã hội, các tổ chức phục vụ cho xã hội
và dân cư khơng vì mục đích kinh doanh. Như vậy có thể hiểu:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) là tổng giá trị gia tăng của toàn bộ
sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm) trong phạm vi lãnh thổ của một nước, không phân biệt
nguồn vốn và chủ sở hữu trong nước hay nước ngoài.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị thị trường của mọi hàng
hóa và dịch vụ được tạo ra bởi những người có cùng quốc tịch; bất kể hoạt
động sản xuất – kinh doanh được tiến hành ở trong hay ngoài biên giới, và
được tính trong một thời kỳ cụ thể (thường là một năm).


20

Tuy nhiên, chỉ số tăng thêm của tổng sản phẩm trong nước (GDP) hay
tổng sản phẩm quốc dân (GNP) chưa phản ánh đầy đủ ý nghĩa của tăng
trưởng. Bởi vì tổng sản phẩm và tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ thuộc vào
dân số và tốc độ tăng trưởng dân số hàng năm. Để khắc phục được nhược
điểm này, cần tính GDP hoặc GNP bình qn đầu người qua các thời kỳ.
Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
Các chỉ số về cơ cấu kinh tế biểu hiện sự biến đổi cơ cấu kinh tế xã hội
bao gồm:
Chỉ số cơ cấu ngành là chỉ số phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp,

nông nghiệp, dịch vụ trong GDP. Tỷ lệ sản lượng ngành công nghiệp và dịch
vụ trong GDP càng cao thể hiện nền kinh tế càng phát triển. Quy luật của sự
phát triển là tỷ lệ ngành công nghiệp và dịch vụ trong GDP ngày càng tăng và
tỷ lệ ngành nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm.
Chỉ số cơ cấu xuất nhập khẩu: biểu hiện bằng các tỷ lệ giá trị xuất nhập
khẩu, tỷ lệ giá trị hàng công nghiệp trong xuất khẩu, tỷ lệ giá trị máy móc và
nguyên liệu trong tổng giá trị nhập khẩu. Một nền kinh tế phát triển thường có
mức xuất khẩu ròng trong GDP và các tỷ lệ trên ngày càng tăng cao.
Chỉ số tiết kiệm – đầu tư: tỷ lệ tiết kiệm – đầu tư trong tổng sản phẩm
quốc dân (GNP) hay trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thể hiện khả năng
về tăng trưởng và phát triển kinh tế của quốc gia. Trên thế giới mỗi nước có
một tỷ lệ tiết kiệm và có một lượng kim nghạch dự trữ khác nhau.
Các chỉ số xã hội
Các chỉ số biểu hiện sự tiến bộ xã hội do tăng trưởng kinh tế và tiến bộ
của con người. Các chỉ số xã hội của phát triển bao gồm:
Mức tăng dân số hàng năm liên quan đến thu nhập bình quân trên đầu
người của nền kinh tế quốc gia. Sự tăng dân số cao, sự bùng nổ của các nước
kém phát triển làm cho các nước này ngày càng nghèo đói thêm. Mức tăng


×