Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (60.32 KB, 2 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Đề: Trong bài Văn tế ngĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, có một “tượng đài nghệ
thuật” mang tính chất bi tráng về người nơng dânchống giặc ngoại xâm. Anh (chị) hãy phân
tích bài văn tế để làm rõ vẻ đẹp hiếm có của hình tượng nghệ thuật đó
Bài làm:
Có thể nói Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh điểm tư tưởng – nghệ thuật trong văn
nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu. Trong kho tàng văn tế Việt Nam xưa, nó xứng đáng được
treo giải nhất “chi nhường cho ai ?”. Phạm Văn Địng trong bài Nguyễn Đình Chiểu, ngơi
<i>sao sáng trong văn nghệ của dân tộc từng đặt bài văn tế này ngang hàng Đại cáo bình ngơ </i>
của Nguyễn Trãi và cho rằng: một bên là ca ngợi người anh hùng chiến thắng, một bên là ca
ngợi người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang.
Quả là như thế, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước hết là một tiếng khóc cao cả. Khóc cho
những nghĩa sĩ Cần Giuộc hi sinh trong chiến đấu. Khóc cho đất nước, cho nhân dân trong
“cơn bấn loạn”,bị giặc Pháp xâm chiếm tàn hại, và qua tiếng khóc đó, có một “tượng đài
nghệ thật” mang tính chất bi tráng về người nơng dân u nước chóng giặc ngoại xâm, mà có
người nhận xét là vơ tiền khống hậu (trước sau đều khơng có). Cái độc đáo ở đây chính là
chỗ khơng phải bài văn tế-qua phần thích thực có nội dung hồi tưởng và ngợi ca – làm hiện
lên hình tượng người nghĩa sĩ yêu nước mà là người nghĩa sĩ – nông dân cứu nước. Điều
hiếm là ở bản chất nông dân của người nghĩa sĩ, nếu chỉ là nghĩa sĩ khơng thơi thì hẳn là
khơng hiếm. Cũng cần nói thêm: đây là một hình tượng khơng chỉ có giá trị nghệ thuật , mà
là một hình tượng nghệ thuật xuất sắc với tính chất hồn chỉnh của nó. Có lẻ vì vậy mà ai
cũng mệnh danh nó là một “tượng đài nghệ thuật”. Và một “ tượng đài nghệ thuật” mang tính
chất bi tráng. Nói bi tráng là vì nó hùng vĩ nhưng hùng vĩ trong thất bại đau thương.
Trước hết, cái “ tượng đài nghệ thuật” này đã được dựng lên trong một bối cảnh thời đại
có mâu thuẫn dân tộc quyết liệt, dữ dội đến mức cự điểm: “ Hỡi tơi! Súng giặc đất rền; lịng
dân trời tỏ”. Một bên là giặc, một bên là dân. Nói đến giặc là nói đến súng, đến giết chóc dã
mang ở mức rền vang cả mặt đất. Nói đến dân là nói đến tấm lịng, đến chính nghĩa, ở mức
rực sáng giữa bầu trời. Trong bối cảnh thời đại đó, có “tượng đài nghệ thuật” về người nơng
<i>“Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,</i>
<i>Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở theo làng bộ.</i>
<i>Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, </i>
<i>tập cờ, mắt chưa từng ngó”</i>
Đây là nơng dân của thế kỉ XIX, nông dân của nước Việt Nam phong kiến, lạc hậu,
nghèo nàn, cả đời không ra khỏi “làng bộ”, đến cái khiên, cái súng, cái mác, cái cờ, cũng
chưa hề được ngó mắt tới, nói gì là chuyện “cung ngựa”, “trường nhung”, nói gì là “mười
tám ban võ nghệ”…
Thế nhưng khi giặc Pháp đến đánh chiếm q hương đất nước, thì chính người nơng dân
tưởng như khơng biết gì ấy, chỉ biết “cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó” lại trở thành những
người nghĩa sĩ đánh giặc giữ làng, giữ nước kiên cường, bất khuất đến tuyệt vời. Họ đã vào
cuộc chiến đấu vệ quốc này bằng lòng căm thù giặc ngoại xâm, một kiểu căm thù cũng rất
nông dân khơng cần lý lẽ gì nhiều mà cứ nổi dậy như một thứ bản năng, bản tính tự nhiên:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn ăn gan ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra
cắn cổ”. Họ “ghét thói mọi như nhà nơng ghét cỏ”.
“chín chục trận binh thư”, thiếu tập, thiếu rèn. Họ vào cuộc chiến đấu với những gì họ có
hằng ngày. Với “manh áo vải” vẫn mặc, với “ngọn tầm vông”,vẫn gánh vẫn gồng, với “rơm
con cúi”vẫn mang ra đòng đốt cỏ,với “lưỡi dao phay” vẫn dùng trong gia đình. Chỉ thế thơi.
Nhưng ở họ có một tấm lòng “mến nghĩa”mà họ thành quân “chiêu mộ”, xông vào cuộc
chiến đấu như vũ bão:
“Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng
lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai họ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới, coi giặc cung như không;
nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xơ cửa xơng vào, liều lĩnh như chẳng có.
Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh. Bọn hè trước, lũ ó sau,
trối kệ tàu thiếc, tầu đòng súng nổ”.