Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Van chieu hon va phan chieu hon

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.75 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Văn chiêu hồn" và "phản</b>


<b>chiêu hồn"</b>



10:00, 16/04/2007
Đinh Quang Tốn


“Phản chiêu hồn” là một bài thơ có tứ độc đáo đặc biệt mà cổ kim khơng có. Thơng thường thì
người ta làm văn cúng tế gọi hồn về, mà Nguyễn Du lại làm thơ bảo hồn đừng về. Và Nguyễn Du
đã có lý. Sự lưu truyền của bài thơ mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của nó.


Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) danh nhân văn hóa thế giới là một người giàu lòng yêu thương
con người. “Truyện Kiều” thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc nhất trong các sáng tác của ông.
Cùng với “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh” (thường được gọi là “Văn chiêu hồn”) cũng
là một áng văn nôm thuộc đỉnh cao tư tưởng và nghệ thuật. Vì vậy khi nói về nỗi đau mất nước, nỗi
buồn của cha ông ta trước đây, nhà thơ Chế Lan Viên đã nhắc đến áng văn bất hủ này:


<i>Cha ông xưa từng đấm nát tay trước cửa cuộc đời</i>
<i>Cửa vẫn đóng và đời im ỉm khóa</i>


<i>Những pho tượng chùa Tây Phương khơng biết cách trả lời</i>
<i>Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ</i>


<i>“Văn chiêu hồn” từng thấm hạt mưa rơi</i>


(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)


“Văn chiêu hồn” của Nguyễn Du là một bài văn tế dài 184 câu song thất lục bát có tính chất chiêu
hồn thập loại chúng sinh được thanh thoát về nơi tây phương cực lạc trong ngày tết xá tội vong
nhân rằm tháng Bảy âm lịch.



Tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du thể hiện rất rõ khi ông nhắc đến mười loại người được chiêu
hồn. Đây là một áng văn đẹp hoàn hảo, một tác phẩm độc đáo có một khơng hai về đề tài này trong
lịch sử văn chương dân tộc. Mở đầu bài văn tế, tác giả đã miêu tả thật thành công không gian buồn
ảm đạm của ngày tết này:


<i>Tiết tháng Bảy mưa rầm sùi sụt</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Toát hơi may lạnh buốt xương khô;</i>
<i>Não người thay, buổi chiều thu,</i>


<i>Ngàn lau nhuốm bạc, lá khô rụng vàng.</i>
<i>Đường bạch dương bóng chiều man mác,</i>
<i>Ngọn đường lê lác đác sương sa,</i>


<i>Lịng nào lòng chẳng thiết tha,</i>
<i>Cõi dương còn thế nữa là cõi âm.</i>
<i>Trong trường dạ tối tăm trời đất,</i>
<i>Có khơn thiêng phảng phất u minh,</i>
<i>Thương thay thập loại chúng sinh,</i>


<i>Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người...</i>


Trong thập loại chúng sinh, đối với mỗi loại người, Nguyễn Du đều thương cảm cho thân phận của
họ, từ những người giàu có quan sang lúc sa cơ lỡ vận đến các kiếp người nghèo khổ thấp hèn.
Nhưng như một sự thần diệu của nghệ thuật, ngòi bút Nguyễn Du đặc biệt xúc động, để lại những
viên ngọc xuất sắc của ngôn từ khi nói đến những kiếp người nghèo hèn.


Điều này thống nhất trong trái tim nhà thơ nếu chúng ta xếp những kiếp người cực khổ ở “Văn
chiêu hồn” với thân phận con người trong “Truyện Kiều”. Đây là người lao động bn bán vất vả:



<i>Cũng có kẻ đi về bn bán,</i>
<i>Địn gánh tre chín rạn hai vai,</i>
<i>Gặp cơn mưa nắng giữa trời,</i>


<i>Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?</i>


Người lính trong chiến trận đã được nữ sĩ Đồn Thị Điểm thể hiện rất thành công trong kiệt tác
“Chinh phụ ngâm”. Ở đây nhà thơ Nguyễn Du cũng có những câu thơ điển hình khơng kém:


<i>Cũng có kẻ mắc vào khóa lính, </i>
<i>Bỏ cửa nhà đi gánh việc quan,</i>
<i>Nước khe cơm ống gian nan,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Lập lòe ngọn lửa ma trơi</i>


<i>Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương...</i>


Đặc biệt là khi nói về thân phận của người kỹ nữ. Có lẽ là “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu”, Nguyễn Du xót xa cho thân phận của họ cũng là xót xa cho chính số phận mình.


Vì vậy, ở bất kỳ bài thơ nào khi nói về những người này, nhà thơ đã có những câu thơ xuất thần,
như trong các bài “Độc Tiểu Thanh ký”, “Long thành cầm giả ca”, “Thái Bình mại ca giả”, hoặc khi
để nàng Kiều khóc trước mộ Đạm Tiên... ở đây, Nguyễn Du cũng có những câu thơ sẽ lưu truyền
mn đời:


<i>Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp,</i>
<i>Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa,</i>
<i>Ngẩn ngơ khi trở về già,</i>


<i>Ai chồng con tá biết là cậy ai?</i>


<i>Sống đã chịu một đời phiền não, </i>
<i>Thác lại nhờ hớp cháo lá đa,</i>
<i>Đau đớn thay phận đàn bà,</i>
<i>Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?</i>


Chúng ta đều biết Nguyễn Du từng viết trong “Truyện Kiều” câu thơ nổi tiếng: “Đau đớn thay phận
đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Thông thường việc lặp lại một câu thơ là điều tối kị.
Nhưng ở đây Nguyễn Du đã lặp lại hoàn toàn câu thơ “Đau đớn thay phận đàn bà”, nhưng không ai
nghĩ đến việc lặp lại mà chỉ thấy đó là viên ngọc mới, khi để bên viên ngọc cũ thì hai viên ngọc
cùng tỏa sáng và lại tơn nhau lên để cùng sáng chói hơn. Được như vậy là nhờ tấm lòng yêu thương
con người không cùng của nhà thơ.


*
* *


Thế mà, chính Nguyễn Du lại viết bài thơ “Phản chiêu hồn” (chống lại việc chiêu hồn) trong một
chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1813 khi ngang qua sông Mịch La. Nguyên do là Tống Ngọc, người
cùng thời với Khuất Nguyên có làm bài từ chiêu hồn gọi Khuất Nguyên về để sống lâu thêm với cõi
đời trần thế. Nguyễn Du chống lại ý ấy, khuyên hồn không nên trở về cõi trần đầy những bọn quan
lại gian ác.


Theo nhà thơ Quách Mạt Nhược (Trung Quốc), Khuất Nguyên sinh năm 340 và chết năm 278 trước
Công nguyên, trong thời Chiến quốc. Ông là người nước Sở, thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Lúc đầu, nước Sở đang cường thịnh, Sở Hoài Vương được cử làm lãnh tụ của liên minh sáu nước
chống Tần (gồm Sở, Tề, Ngụy, Triệu, Hàn, Yên). Nhưng Khuất Nguyên bị bọn gian thần tìm cách
hãm hại. Khi Khoảng Tương Vương lên làm vua, ông bị đầy đi Giang Nam.


Năm 278 trước Cơng ngun, nước Sở, vua thì yếu đuối, ăn chơi sa đọa, khơng lo triều chính, bọn
gian thần chỉ lo lợi ích cá nhân, hãm hại người tài, trung thần, nên nước Sở đã bị nước Tần thôn


tính.


Trước cảnh nước mất nhà tan, Khuất Ngun vơ cùng đau xót đã nhảy xuống sơng Mịch La (tỉnh
Hà Nam) tự tử vào ngày 5 tháng 5 âm lịch. Trước đó, Khuất Nguyên có làm bài thơ “Ly tao” nổi
tiếng để nói lên ý chí và hồi bão của mình. “Ly tao” dài 373 câu, là bài thơ trữ tình dài đầu tiên
trong lịch sử Trung Quốc, là đỉnh cao nhất của thơ ca Khuất Nguyên, đã đưa ông trở thành nhà thơ
lớn, danh nhân văn hóa của nhân loại.


Bài thơ “Phản chiêu hồn” của Nguyễn Du như sau (dịch):


<i>Hồn ơi! Hồn ơi! Sao không về?</i>


<i>Đông, Tây, Nam, Bắc khơng có nơi nào nương tựa đâu!</i>
<i>Lên trời, xuống đất đều không được,</i>


<i>Về đất Yên đất Dĩnh mà làm gì?</i>


<i>Thành quách vẫn như cũ, nhưng nhân dân đã khác rồi,</i>
<i>Bụi bay mù mịt bẩn cả quần áo.</i>


<i>Họ đi ra ngựa ngựa xe xe, họ ở nhà vênh vênh váo váo</i>
<i>Đứng ngồi bàn tán tựa như ông Cao, ông Quỳ.</i>


<i>Hồn không thấy mấy trăm châu ở Hồ Nam đó sao?</i>
<i>Chỉ có những người gầy gị, khơng ai béo tốt.</i>
<i>Hồn ơi! Hồn ơi! Nếu theo đường đó, </i>


<i>Thì sau Tam Hồng, khơng cịn hợp thời nữa.</i>
<i>Hãy sớm thu tinh thần về với thái hư,</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

(Theo bản dịch “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” do Lê Thước và Trương Chính biên soạn, NXB Văn
học 1978)


“Phản chiêu hồn” là một bài thơ có tứ độc đáo đặc biệt mà cổ kim khơng có. Thơng thường thì
người ta làm văn cúng tế gọi hồn về, mà Nguyễn Du lại làm thơ bảo hồn đừng về. Và Nguyễn Du
đã có lý. Sự lưu truyền của bài thơ mấy trăm năm qua đã khẳng định giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của nó. Bài thơ giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.


Nguyễn Du đồng cảm với Khuất Ngun vì hai ơng đều có những hồn cảnh bất đắc chí. Sự thối
nát của xã hội thời Khuất Ngun có khác gì sự mục ruỗng của chế độ phong kiến cuối thế kỷ
XVIII thời Nguyễn Du sống. Đây là sự đồng cảm tâm hồn của hai nhà thơ lớn cách nhau hai nghìn
năm. Có thể nói chỉ có thiên tài Nguyễn Du mới viết được bài thơ sâu sắc cả giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo như bài “Phản chiêu hồn”.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×