Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Một số nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.04 KB, 4 trang )

ISSN 2354-0575
MỘT SỐ NHẬN THỨC MỚI CỦA ĐẢNG TA VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Nhuần
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 03/07/2017
Ngày phản biện đánh giá và sửa chữa: 31/08/2017
Ngày bài báo được duyệt đăng: 03/09/2017
Tóm tắt:
Chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, điều đó đã được khẳng
định ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX. Sự lựa chọn ấy không chỉ xuất phát từ thực tiễn khách quan, là
sự lựa chọn của chính lịch sử, tuân theo đúng quy luật lịch sử tự nhiên mà còn căn cứ vào nguyện vọng và
đòi hỏi của cách mạng Việt Nam trong tiến trình lịch sử dân tộc. Qua quá trình phát triển của cách mạng
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã
hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta xây dựng ngày càng được làm sáng
tỏ hơn. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 5 khóa IX, Đảng ta nhấn mạnh: Đẩy mạnh tổng kết thực
tiễn và nghiên cứu lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ hơn lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
Từ khoá: Chủ nghĩa xã hội.
1. Đặt vấn đề
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực
tiễn cơ bản. Liên quan trực tiếp đến đường lối chính
trị của Đảng, phương hướng phát triển đất nước.
Đây cũng là vấn đề trọng tâm, cốt lõi trong đường
lối cách mạng việt Nam, chi phối tồn bộ hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hố xã hội, an ninh quốc
phịng, xây dựng đảng, v.v.. Đây cịn là vấn đề rộng,
phức tạp có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Cuộc đấu
tranh tư tưởng về vấn đề này diễn ra gay gắt từ trước
đến nay, đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng, đổ vỡ


chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực
thù địch, phản động, cơ hội ra sức tấn công vào chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chế độ
xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta, hòng làm cho Việt
Nam phải xa rời con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ
Chí Minh và Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn. Tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng ta khẳng
định rõ: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh” [4, tr.56]. Nhận thức về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng
cộng sản Việt Nam có sự phát triển, ngày một đầy
đủ, sáng rõ hơn qua một số nội dung cơ bản sau.
2. Nội dung
2.1. Về mục tiêu cách mạng, lý tưởng của đảng
Đảng ta ngay từ khi ra đời cho đến nay đã
nhiều lần chỉ rõ, mục tiêu cao cả, thiêng liêng, bất
di bất dịch của nhân dân ta là xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã

112

hội – Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đây là vấn đề nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ đường lối cách mạng nước ta. Bởi vì độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Đi lên chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu khách quan theo đúng quy luật tiến hóa

của lịch sử. Chủ tịch Hồ Chí Minh sau bao năm bơn
ba ở nước ngoài, từ tổng kết thực tiễn phong trào
yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX đến các cuộc
Cách mạng Tư sản điển hình trên thế giới và Cách
mạng Tháng mười Nga Người mới đi đến được kết
luận: “Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vơ sản”;
“Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng các dân tộc bị áp bức và giai cấp cơng
nhân tồn thế giới”. Tư tưởng đó đã được Đảng ta
khẳng định, cả dân tộc hưởng ứng và đi theo. Đó là
sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, của tồn dân tộc Việt
Nam, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội - chủ nghĩa Cộng
sản mới triệt để giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi
ách áp bức, bóc lột, đem lại cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, đem lại vị trí làm chủ chân chính
cho người lao động. CNXH xoá bỏ triệt để chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất - nguồn gốc sinh ra tình trạng người bóc lột
người, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
là chủ yếu, có cơ sở kinh tế đảm bảo cho nhân dân
lao động thốt khỏi đói nghèo, hướng tới cuộc sống
ấm no hạnh phúc, xây dựng xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh, tạo điều kiện giải phóng và phát triển
con người tồn diện.

Khoa học & Cơng nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017

Journal of Science and Technology



ISSN 2354-0575
Nhưng lịch sử xã hội lồi người khơng đi
theo con đường thẳng tắp và phong trào cách mạng
cũng không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm,
thậm chí có những thất bại hoặc thoái trào. Nhưng
quan trọng hơn là từ những khuyết điểm, sai lầm ấy,
tìm ra được nguyên nhân, rút kinh nghiệm để đưa
phong trào cách mạng tiến lên. Đó mới là một thái
độ nghiêm túc, đúng mực. Chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô và Đông Âu sụp đổ do nhiều nguyên nhân, mà
nguyên nhân trực tiếp là do Đảng cộng sản phạm
phải những sai lầm nghiêm trọng về đường lối
chính trị, tư tưởng và tổ chức bắt đầu từ sự phản bội
của những người lãnh đạo chủ chốt; chủ nghĩa đế
quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện
“Diễn biến hồ bình” ở các nước này. Sự đổ vỡ đó
khơng có nghĩa là sự sụp đổ của học thuyết Mác Lênin về chủ nghĩa xã hội, không phải là sự sụp đổ
của phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới, bởi hiện
nay vẫn còn một số nước xã hội chủ nghĩa vẫn đang
tiếp tục đứng vững và phát triển. Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng
định: Lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ
tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 70
năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản đã
khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn đó. Bên
cạnh những thành tựu đổi mới đất nước mà Đảng

và nhân dân ta đạt được cịn có những khuyết điểm,
sai lầm, nhưng với bản lĩnh cách mạng Đảng ta đã
sớm nhận thức ra những thiếu sót, khuyết điểm và
tự nhận khuyết điểm trước nhân dân, đã sửa chữa
và sửa chữa có kết quả, đem lại lịng tin của nhân
dân đối với Đảng. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo
cơng cuộc đổi mới tồn diện vì mục tiêu: “Dân giàu,
nước mạng, dân chủ, công bằng, văn minh”, với
quyết tâm và trí tuệ của mình, sự thạm gia tích cực
của nhân dân, công cuộc đổi mới đất nước hơn 30
năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa quan trọng, khẳng định đường lối đổi mới của
Đảng ta là đúng đắn. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng khẳng định: Chủ nghĩa xã hội trên
thế giới, từ những bài học thành công và thất bại
cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân
tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển
mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
Xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn, cả tình
hình trong nước và kinh nghiệm quốc tế, muốn thay
đổi căn bản cuộc sống của người lao động từ kiếp
nô lệ làm thuê trở thành người làm chủ, không có
con đường nào khác ngồi con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Vì vậy, hơn lúc nào hết, chúng ta cần
kiên định vững chắc mục tiêu, lý tưởng mà Đảng và
Bác Hồ đã lựa chọn đó là độc lập dân tộc phải gắn

Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017


liền với chủ nghĩa xã hội.
2.2. Về mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân
ta xây dựng
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã phác hoạ
mơ hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng
với sáu đặc trưng. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX (2001), Đảng ta bổ sung thêm từ “dân
chủ” vào mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
“Dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, để phản ánh đầy đủ hơn, rõ hơn nhận
thức của chúng ta về vấn đề dân chủ, vấn đề bản
chất của chủ nghĩa xã hội.
Nói như vậy, khơng phải trước đây chúng
ta coi nhẹ vấn đề dân chủ. Bác Hồ đã nhiều lần nói:
“nước ta là nước dân chủ”, “ xây dựng một nước
Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập dân tộc, dân
chủ và giàu mạnh”. Quốc hiệu nước ta trong nhiều
thập kỷ là “ Nước Việt Nam dân chủ cộng hồ”
Đảng ta đã từng trăn trở tìm tòi xây dựng chế độ
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Cương
lĩnh năm 1991 đã chỉ rõ: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân
lao động làm chủ”, “ xây dựng một xã hội dân chủ,
văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá của con
người”, “toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị nước ta là nhằm xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Điều lệ
Đảng cũng đã ghi: “Mục đích của Đảng ta là xây
dựng đất nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu

mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung phát
triển năm 2011) Đảng ta tiếp tục khẳng định mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam xây dựng là: “một
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng,
văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Như
vậy, tám đặc trưng này là những nét căn bản của mơ
hình một xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa, một
xã hội phát triển hơn về chất so với chủ nghĩa tư
bản và chỉ đạt được độ hoàn chỉnh khi kết thúc thời
kỳ quá độ. Mơ hình này lấy phục vụ con người làm
mục đích, tức là “tất cả vì con người”. Mặt khác, lấy
việc phát huy sức mạnh của con người làm động lực

Journal of Science and Technology

113



ISSN 2354-0575
chủ yếu để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
tức là “tất cả do con người”. Đồng thời, mơ hình ấy
biểu hiện như một kết cấu tổng thể, ổn định tương
đối, không phải là một chỉnh thể khép kín, cứng
nhắc. Mơ hình chủ nghĩa xã hội thời kỳ đổi mới
ở nước ta chứa đựng khả năng mở rộng nội hàm,
tiếp tục bổ sung những nét mới là kết quả của việc
khơng ngừng nâng cao trình độ lý luận và tổng kết
thực tiễn phong phú, đa dạng. Nó là kết quả của sự
kết hợp hài hoà giữa cái phổ biến và cái đặc thù, cái
chung và cái riêng để tạo nên một mơ hình có tên
gọi mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Nó thể hiện
xu hướng gắn kết hợp lý tiến trình phát triển của
chủ nghĩa xã hội với sự vận động không ngừng của
nhân loại tiến lên phía trước, kế thừa những thành
tựu tiến bộ của lồi người để xây dựng thành cơng
chủ nghĩa xã hội.
2.3. Về nền tảng tư tưởng của Đảng
Tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ chủ nghĩa xã hội (năm 1991)
Đảng ta khẳng định: “Lấy chủ nghĩa Mác -Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho mọi hành động của đảng”. Đây là sự
tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng và là bước phát
triển quan trọng trong nhận thức, tư duy lý luận của
Đảng ta và đã được thực tiễn chứng minh sự khẳng
định đó là hồn tồn đúng đắn.
Với kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn, Đại hội IX của Đảng nói rõ hơn những

nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh để định
hướng cho toàn đảng, toàn dân học tập và vận dụng
thực hiện. Đại hội đã đưa ra khái niện tư tưởng Hồ
Chí Minh và đưa ra 9 nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định rằng khi nói tư
tưởng Hồ Chí Minh tuyệt nhiên khơng có nghĩa là
để hạ thấp chủ nghĩa Mác - Lênin, càng không phải
để đối lập hoặc tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với
chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng kiên quyết bác bỏ các
quan điểm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ
nghĩa Mác - Lênin hoặc muốn hạ thấp hay phủ nhận
chủ nghĩa Mác - Lênin.
Không những thế, trong q trình đổi mới
đảng đã có sự nhận thức đúng hơn, bổ sung và phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên các khía cạnh như:
Vấn đề về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội; Vấn đề
sở hữu tư liệu sản xuất; Vấn đề phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.. Nhờ dó,
tư duy lý luận của Đảng ta ngày càng sâu sắc hơn,
nhận thức đúng đắn hơn thực chất hơn những tư
tưởng của các nhà kinh điển mác xít, đồng thời có sự
vận dụng, phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
2.4. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

114

Trong công cuộc đổi mới đất nước, nhận
thức của Đảng ta về con đường quá độ lên chủ nghĩa

xã hội có những đổi mới sâu sắc. Nếu trước đây ta
thường nói, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”, thì đến
đại hội IX trong các văn kiện chính thức của Đảng,
Nhà nước đều diễn đạt là: Nước ta quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là “Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.
Việc “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” được giải
thích rõ trên hai phương diện: thứ nhất, bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa”; thứ hai, trong khi bỏ qua
những mặt của chủ nghĩa tư bản, cần ‘tiếp thu” kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới
chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học và
công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất,
xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Nhận thức trên đây là kết quả của sự đổi mới
tư duy về chủ nghĩa xã hội, về mối quan hệ giữa
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Tư duy “cũ”
hiểu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là kết quả của
sự phủ định triệt để chủ nghĩa tư bản, từ đó có lúc
có nơi cho rằng cái gì càng xa với chủ nghĩa tư bản
thì càng tốt, càng nhanh tiến gần với chủ nghĩa xã
hội. Tư duy mới đã phân biệt sự khác nhau về chất
giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhưng
đặt chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vào lịch
trình chung của sự tiến hố nhân loại qua năm hình
thái kinh tế xã hội để xác định vị trí của chủ nghĩa
tư bản như là một giai đoạn phát triển cao của văn
minh nhân loại và là nấc thang cận kề để lồi người

từ đó bước sang nấc thang cao hơn là chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
Trong thời đại ngày nay, trên phạm vi toàn
thế giới, sự nghiệp giải phóng những người lao động
bị áp bức, bóc lột, sự nghiệp giải phóng xã hội khỏi
tình trạng bế tắc đòi hỏi phải thay thế chủ nghĩa tư
bản bằng một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Sự
phủ định chủ nghĩa tư bản là một tất yếu lịch sử và
đã thành hiện thực từ cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga (1917). Dù hiện nay chủ nghĩa xã
hội trên thế giới đang lâm vào khủng hoảng, thì xu
hướng ấy sẽ không bao giờ thay đổi.
Với Việt Nam xuất phát là nước nông nghiệp
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội lại bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, vì thế cái chúng ta bỏ
qua là chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng cần tiếp thu
những, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa vì:
- Thứ nhất, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
nhưng nước ta vẫn phải tơn trọng q trình lịch sử tự nhiên của sự chuyển biến từ hình thái kinh tế xã
hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác; đặc biệt
phải tơn trọng q trình lịch sử tự nhiên của sự phát

Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017

Journal of Science and Technology


ISSN 2354-0575
triển lực lượng sản xuất, của các nhân tố - kỹ thuật

mà xét đến cùng thì đây là những nhân tố quyết định
sự ra đời, tồn tại và phát triển của chế độ xã hội mới.
- Thứ hai, từ một nước chậm phát triển, bằng
con đường “rút ngắn” đi lên chủ nghĩa xã hội, tất
yếu nước ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
trong đó có sự xen kẽ “những mảnh của chủ nghĩa xã
hội” với “những mảnh của chủ nghĩa tư bản”. Trạng
thái xen kẽ ấy làm cho các yếu tố của chủ nghĩa xã
hội và các yếu tố của chủ nghĩa tư bản vừa đấu tranh
với nhau, vừa “chung sống hồ bình”, vừa bài trừ,
vừa nương tựa vào nhau, thâm nhập vào nhau.
- Thứ ba, nước ta bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa nhưng khơng thể bỏ qua q trình phát triển
có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn mà
chủ nghĩa tư bản đã từng trải qua: Sản xuất hàng
hoá, tiến hành cách mạng kỹ thuật theo nhu cầu phát
triển biện chứng của kỹ thuật trong hợp tác giản
đơn, cơng trường thủ cơng, đại cơng nghiệp cơ khí
- để chuyển lao động thủ công thành lao động sử
dụng máy móc; mở rộng giao lưu trong nước và
giao lưu quốc tế, khắc phục tâm lý sản xuất nhỏ và
tư tưởng phong kiến.
- Thứ tư, bỏ qua “chế độ tư bản chủ nghĩa”
nhưng phải kế thừa những thành tựu tiến bộ mà loài

người tạo ra trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Sau khi
“bỏ qua” phần lạc hậu của chủ nghĩa tư bản (địa vị
thống trị của quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ
nghĩa và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa),
chúng ta cần tiếp thu những thành tựu của chủ nghĩa

tư bản và sử dụng chúng vào mục tiêu xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
nhưng đồng thời cần phải sử dụng những thành quả
văn minh trong chủ nghĩa tư bản một cách chủ động
và tự giác, chọn lọc kỹ lưỡng trong điều kiện mới
- điều kiện có nhà nước xã hội chủ nghĩa và với chủ
thể mới là giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
3. Kết luận
Những nhận thức mới của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
đã được thể hiện nhất quán trong cương lĩnh, các
chủ trương, chính sách, đường lối, trong hành động
của Đảng và của nhân dân ta. Sự nhất quán đó sẽ
tạo nên một nền tảng vững chắc cho hệ thống quan
điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã bắt đầu hình thành
và sẽ từng bước được bổ sung, hoàn thiện, để xây
dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa: Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tài liệu tham khảo
[1]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1987.
[2]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
[3]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1996.
[4]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001.
[5]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2006.
[6]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội, 2011.
[7]. Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2016.
SOME NEW AWARENESS OF THE COMMUNITY SOCIAL STANDARD
AND THE ROAD TO SOCIAL SOCIETY IN VIETNAM
Abstract:
Socialism was the indispensable development path of the Vietnamese revolution, which was affirmed
in the twenties of the twentieth century. This choice not only comes from objective reality, is the choice of
history itself, is in accordance with the laws of natural history but also on the aspirations and requirements
of the Vietnamese revolution in the process. National history. Through the development of revolution and
the building of socialism in our country, the view of the Communist Party of Vietnam on socialism and
the transitional road to socialism that the Party and people have built. Build more and more clarified.
At the 5 th Plenum of the 9th Plenum of the Party Central Committee, the Party emphasized: To step up
the summation of practical and theoretical studies, further clarify the theory of socialism and the road to
communism. Assembly in our country.
Keywords: Socialism.

Khoa học & Công nghệ - Số 15/Tháng 9 - 2017

Journal of Science and Technology

115



×