Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.82 KB, 11 trang )

Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ SỰ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN
SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀO HỒN CẢNH LỊCH SỬ CỤ THỂ CỦA ĐẤT NƯỚC
TS. Phan Thị Hồng Duyên*
Trường Đại học Hoa Lư
Tóm tắt
Chủ nghĩa Mác - Lênin là“hệ thống quan điểm và học thuyết” khoa học của
C. Mác, Ph.Ănghen và sự phát triển của Lênin; được hình thành và phát triển trên
cơ sở kế thừa và phát triển những giá trị của lịch sử tư tưởng nhân loại và tổng kết
thực tiễn của thời đại; là thế giới quan và phương pháp luận phổ biến của nhận
thức khoa học và thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vơ sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức bóc lột tiến tới giải phóng
con người. Bài viết trình bày chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển
sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hồn cảnh cụ thể của
đất nước.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng, phát triển sáng tạo, Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam, hồn cảnh cụ thể của đất nước.

I. MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng hồn
chỉnh, là vũ khí tƣ tƣởng của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh để nhận thức và cải tạo thế giới. Hiện nay, cuộc đấu tranh tƣ tƣởng và thực tiễn
mới xây dựng đất nƣớc địi hỏi chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu và nhận thức sâu sắc hơn
những giá trị đích thực của chủ nghĩa Mác - Lênin để kế thừa, phát triển và vận dụng
học thuyết cách mạng và khoa học đó một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn. Vì
vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và sự vận dụng, phát triển sáng
tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vào hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc
là vấn đề quan trọng.
II. NỘI DUNG


2.1. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi phƣơng
thức sản xuất tƣ bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh mẽ và trở thành lực lƣợng kinh tế
*

Phó trƣởng Phịng Đào tạo và Quản lý nghiên cứu khoa học

|40


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

thống trị ở các nƣớc Tây Âu (nhƣ Anh, Pháp...). Điều đó một mặt, đánh dấu bƣớc
chuyển hóa từ nền sản xuất thủ cơng tƣ bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công
nghiệp tƣ bản chủ nghĩa; mặt khác, làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, trƣớc hết là sự
hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
Thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản ở các nƣớc Tây Âu địi
hỏi phải có lý luận khoa học dẫn đƣờng, trong điều kiện đó chủ nghĩa Mác đã ra đời;
đồng thời, chính thực tiễn cách mạng đó cũng trở thành tiền đề thực tiễn cho sự khái
quát và phát triển không ngừng lý luận của chủ nghĩa Mác.
Ngồi ra, sự ra đời của chủ nghĩa Mác cịn là kết quả của sự kế thừa tinh hoa văn
hóa của nhân loại, trong đó trực tiếp nhất là triết học cổ điển Đức; kinh tế chính trị cổ
điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tƣởng Pháp và Anh cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX, đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên với ba phát minh vĩ đại là:
Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lƣợng; học thuyết tế bào; học thuyết tiến hóa
của Đác-uyn.
Có thể nói, sự ra đời của chủ nghĩa Mác nói chung và và triết học Mác nói riêng
khơng phải là ngẫu nhiên, mà là một hiện tƣợng hợp quy luật; nó vừa là sản phẩm của
tình hình kinh tế - xã hội đƣơng thời, của tri thức nhân loại thể hiện trong các lĩnh vực
khoa học, vừa là kết quả của năng lực tƣ duy và tinh thần nhân văn của những nhà khoa

học sáng lập nên nó. Khái quát những kinh nghiệm của phong trào công nhân và những
thành tựu của khoa học tự nhiên, có nghiên cứu phê phán những tƣ tƣởng triết học
trƣớc đó, C. Mác và Ph. Ăngghen đã thực hiện bƣớc ngoặt cách mạng vĩ đại trong triết
học, đúng nhƣ V.I. Lênin đã viết: “Chủ nghĩa Mác là hệ thống các quan điểm và học
thuyết của Mác. Mác đã kế thừa và hoàn chỉnh một cách thiên tài ba trào lƣu tƣ tƣởng
chủ yếu của thế kỷ XIX, thuộc ba nƣớc tiên tiến nhất của lồi ngƣời: triết học cổ điển
Đức, mơn kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp gắn liền với các học
thuyết cách mạng nói chung. Tính triệt để và tính hồn chỉnh tuyệt vời (mà ngay cả kẻ
thù của Mác cũng phải thừa nhận) của những quan điểm của ơng (mà tồn bộ hợp
thành chủ nghĩa duy vật hiện đại và chủ nghĩa xã hội khoa học hiện đại, tức là lý luận
và cƣơng lĩnh của phong trào công nhân ở tất cả các nƣớc văn minh trên thế giới”1.
2.2. V.I. Lênin bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác
Những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản đã chuyển sang
giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Bản chất bóc lột và thống trị của chủ nghĩa tƣ bản ngày
1

V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.59-60.
41

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

càng bộc lộ rõ nét; mâu thuẫn trong lòng xã hội tƣ bản ngày càng sâu sắc, nhất là mâu
thuẫn đối kháng giữa giai cấp tƣ sản và vô sản. Phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa
đế quốc tại các nƣớc thuộc địa phát triển đã tạo nên sự thống nhất với phong trào vô
sản. Các phong trào của nông dân chống địa chủ phong kiến và phong trào giải phóng
dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
Để làm suy yếu phong trào cách mạng và chống lại giai cấp vô sản, giai cấp tƣ

sản đế quốc đã sử dụng một cách triệt để bọn cơ hội trong phong trào công nhân và chủ
nghĩa xét lại. Giai cấp vô sản Nga dƣới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích đã trở thành
ngọn cờ đầu của cách mạng thế giới. Giai cấp công nhân cùng với nông dân đã làm cuộc
cách mạng dân chủ tƣ sản 1905 - 1907; cuộc cách mạng tháng Hai 1917, phát triển thành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mƣời 1917 vĩ đại đã mở đầu thời đại mới trong lịch sử thế giới.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, nhất là trong lĩnh vực vật lý học đã
đặt ra cho triết học những yêu cầu phát triển mới về thế giới quan, phƣơng pháp luận và
phải trả lời những vấn đề mà khoa học đặt ra.
Cũng trong thời kỳ này chủ nghĩa Mác đang đƣợc truyền bá rộng rãi vào nƣớc
Nga. Song, để bảo vệ lợi ích của giai cấp tƣ sản, những trào lƣu tƣ tƣởng trên thế giới
nhƣ chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán (Makhơ), chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa thực
dụng,… mƣợn cớ đổi mới chủ nghĩa Mác nhằm mục đích xuyên tạc và phủ nhận chủ
nghĩa Mác; thay đổi chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bằng
các biến dạng của chủ nghĩa duy tâm tôn giáo. Bọn xét lại trong Quốc tế II, bọn
Mensêvích, những ngƣời Nga theo chủ nghĩa Makhơ, thì cố gắng chứng minh rằng, chủ
nghĩa Mác khơng có cơ sở triết học nên khơng phải là một học thuyết. Vì vậy, chúng
định hợp nhất chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Cantơ mới.
Trong bối cảnh đó, thực tiễn đặt ra nhu cầu là phải khái quát những thành tựu
khoa học tự nhiên để tiếp tục bảo vệ và phát triển thế giới quan và phƣơng pháp luận
khoa học của chủ nghĩa Mác, nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý học; thực
hiện cuộc đấu tranh lý luận để chống sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác, qua đó bảo vệ bản
chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác; vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát
triển chủ nghĩa Mác nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra từ thực tiễn.
Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lênin đã
kịch liệt phê phán và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm cơ hội, xét lại của các
nhà lãnh đạo Quốc tế II nhƣ Cauxki, Becxtanh, Plêkhanốp, Bukkharin, Tơrốtxki; phê
phán chủ nghĩa kinh nghiệm của E.Makhơ, Avênariut… Đồng thời, vận dụng chủ

|42



“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nƣớc Nga, V.I. Lênin và Đảng Bơnsêvích
đã lãnh đạo giai cấp cơng nhân và Nhân dân Nga tiến hành cuộc cách mạng tháng
Mƣời vĩ đại, mở đầu cho một thời kỳ lịch sử mới của sự quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đồng thời, kết quả lịch sử đó đã thổi bùng
lên ngọn lửa đấu tranh của giai cấp vô sản và cá dân tộc bị áp bức vì độc lập, tự do.
Vận dụng phép biện chứng mácxít vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc Nga,
V.I. Lênin đã đề ra Chính sách kinh tế mới, với chủ trƣơng phát triển kinh tế nhiều
thành phần, áp dụng chính sách thuế lƣơng thực thay cho chính sách cộng sản thời
chiến, áp dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, phát triển thƣơng mại, sử dụng chuyên gia tƣ
sản, áp dụng chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc, học tập kinh nghiệm của chủ nghĩa tƣ bản,
thực hiện luân chuyển cán bộ từ trung ƣơng về địa phƣơng và thực hiện các hình thức
của chủ nghĩa tƣ bản nhà nƣớc (tô nhƣợng và hợp tác xã); coi trọng ngƣời nông dân và
phát triển kinh tế nông thơn. Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin đã đƣa nƣớc Nga
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội năm 1921, bƣớc sang một giai đoạn phát
triển mới.
2.3. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hồn cảnh cụ thể đất nước
Trên hành trình vạn dặm đi tìm đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin con đƣờng cách
mạng chân chính, con đƣờng cứu nƣớc đúng đắn. Ngƣời đã nhận thức rằng, chỉ có chủ
nghĩa Mác - Lênin là "chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất"2, từ
đó Ngƣời khẳng định: "Từng bƣớc một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận
Mác - Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi mới hiểu đƣợc rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đƣợc các dân tộc bị áp bức và những ngƣời
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"3 và đặt trọn niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin,
lấy lý luận đó làm ngọn đèn soi đƣờng, làm kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Vì

vậy, đã tiếp thu lý luận Mác - Lênin và ra sức truyền bá lý luận đó thơng qua những
luận đề tƣ tƣởng của mình vào phong trào cơng nhân và phong trào yêu nƣớc Việt
Nam, giác ngộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam đấu tranh để giành độc lập,
giải phóng dân tộc, giải phóng những ngƣời lao động cùng khổ, xây dựng xã hội mới vì
Nhân dân, vì con ngƣời.
2
3

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.289.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.563.
43

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

Theo Nguyễn Ái Quốc, muốn đƣa sự nghiệp giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của
cách mạng vô sản, cần phải nắm vững mục tiêu, bản chất và phƣơng thức tiến hành
cuộc cách mạng đó, đặc biệt ở một nƣớc thuộc địa, phong kiến nhƣ ở Việt Nam, các
nƣớc Đông Dƣơng và cả châu Á nói chung “Chế độ cộng sản có áp dụng đƣợc ở châu
Á nói chung và ở Đơng Dƣơng nói riêng không? Đấy là vấn đề mà chúng ta đang quan
tâm hiện nay”4. Ngƣời cho rằng: “Xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản
thâm nhập dễ dàng vào châu Á, dễ dàng hơn là ở châu Âu”5. Đồng thời, nhấn mạnh sự
cần thiết phải quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa cộng sản, tức chủ nghĩa Bơnsêvích có
nghĩa là hoặc sự phá hoại tất cả, hoặc sự giải phóng khỏi ách nƣớc ngồi. “Nghĩa thứ
nhất gán cho danh từ ấy làm cho quần chúng vô học và nhút nhát xa lánh chúng ta;
nghĩa thứ hai thì dẫn họ đến chủ nghĩa quốc gia. Cả hai điều đó đều nguy hiểm cả.
Chỉ có một số ngƣời trong nhân dân hiểu đƣợc thế nào là chủ nghĩa cộng sản”6. Điều
đó cho thấy, việc truyền bá, giáo dục về chủ nghĩa cộng sản trong cơng nhân và Nhân

dân có tầm quan trọng đặc biệt. Do đó, Nguyễn Ái Quốc đã chú trọng vận dụng sáng
tạo vào điều kiện của Việt Nam. Trăn trở của Ngƣời “Mác đã xây dựng học thuyết của
mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhƣng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chƣa phải là tồn thể nhân loại”7. Vì vậy, Ngƣời đặt vấn là cần phải
“xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc theo
phƣơng Đơng”8. Đồng thời, từ thực tiễn Việt Nam, Ngƣời đã thấy rằng “cuộc đấu tranh
giai cấp không diễn ra giống nhƣ ở phƣơng Tây,… nếu nơng dân gần nhƣ chẳng có gì
thì địa chủ cũng khơng có tài sản gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần
thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền khơng biết
mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại khơng hề biết cơng cụ để bóc lột của họ là máy
móc; ngƣời thì chẳng có cơng đồn, kẻ thì chẳng có tơrớt. Ngƣời thì cam chịu số phận
của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình. Sự xung đột về quyền lợi của họ
đƣợc giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối cãi đƣợc”9.
Khác với C. Mác bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tƣ bản, V.I. Lênin
bàn nhiều về cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, thì Nguyễn Ái Quốc dành sự
4

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.45.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47.
6
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.80-81.
7
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.509-510.
8
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.510.
9
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.508-509.
5

|44



“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

quan tâm đặc biệt đến cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Nếu nhƣ các nhà sáng
lập học thuyết mácxít nhấn mạnh cuộc đấu tranh giai cấp ở các nƣớc tƣ bản, thì
Nguyễn Ái Quốc lại tập trung vào cuộc đấu tranh dân tộc ở thuộc địa. Theo Ngƣời, độc
lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa nói chung, dân tộc Việt Nam
nói riêng. Mục tiêu cao nhất của mọi cuộc đấu tranh là nhằm thoát khỏi ách áp bức bóc
lột của giặc ngoại xâm, giành độc lập, tự do, hịa bình để xây dựng đất nƣớc, đảm bảo
cho Nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc và đó cũng là mục tiêu cao cả của Ngƣời
“Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn;
đấy là tất cả những điều tơi hiểu”10.
Nói về chiến lƣợc cách mạng ở các nƣớc thuộc địa, Ngƣời khẳng định chƣa phải
là đấu tranh giai cấp, mà là đấu tranh dân tộc. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh,
Ngƣời phân biệt ba loại cách mạng: Cách mạng tƣ sản, cách mạng vơ sản và cách mạng
giải phóng dân tộc. Điều nổi bật trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng cách mạng
Việt Nam là sự kết hợp biện chứng tƣ tƣởng giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng con ngƣời của chủ nghĩa Mác - Lênin với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất
nƣớc. Cuộc cách mạng duy nhất giải phóng triệt để và vĩnh viễn ngƣời lao động là cuộc
cách mạng vơ sản, song nó đƣợc tiến hành và có đặc điểm riêng nhƣ thế nào lại phụ thuộc
vào hoàn cảnh thời đại, của riêng mỗi nƣớc, đồng thời Ngƣời xác định tính chất và nhiệm
vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Lực lƣợng của cuộc
cách mạng đó là tồn dân tộc, trong đó cơng nhân và nơng dân là “chủ cách mệnh”,
“gốc cách mệnh”, cịn học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ là “bầu bạn cách mệnh của
công nơng”...
Đầu năm 1930, khi soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái
Quốc đã hoạch định con đƣờng phát triển của dân tộc từ một nƣớc thuộc địa đi lên chủ
nghĩa xã hội phải trải qua nhiều giai đoạn chiến lƣợc cách mạng khác nhau: “Làm tƣ
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”11. “Tƣ sản

dân quyền cách mạng” là nhằm giải phóng dân tộc, hồn thành nhiệm vụ chống đế
quốc, giành độc lập dân tộc (không bao gồm nhiệm vụ ruộng đất). “Thổ địa cách
mạng” với nhiệm vụ chủ yếu là cách mạng ruộng đất. “Đi tới xã hội cộng sản” lại là
giai đoạn phát triển kế tiếp để từng bƣớc đạt mục tiêu chủ nghĩa xã hội, đó là hƣớng
phát triển lâu dài. Cƣơng lĩnh chủ trƣơng tập hợp lực lƣợng rộng rãi, bao gồm toàn dân
tộc để tiến hành các cuộc cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến triệt để.
Trần Dân Tiên (2005), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.52.
11
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.1.
10

45

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

Trên cơ sở những điều kiện lịch sử xã hội của châu Âu, khi ở đó những nƣớc cơng
nghiệp và chủ nghĩa tƣ bản cũng đã phát triển, C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin đã
vạch ra con đƣờng cách mạng vô sản giải phóng giai cấp cơng nhân và Nhân dân lao
động. Các ông đều lấy việc giải phóng giai cấp vô sản ở các nƣớc tƣ bản làm nhiệm vụ
trọng tâm và là điều kiện cho giải phóng dân tộc, giải phóng ngƣời lao động ở thuộc địa,
thì Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận giải phóng con ngƣời của chủ nghĩa Mác
- Lênin, giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc và giai cấp, vạch ra nhiệm vụ cụ thể
của từng giai đoạn cách mạng, đề ra con đƣờng giải phóng ngƣời lao động ở thuộc địa,
phù hợp với điều kiện xã hội, với nhu cầu của đơng đảo quần chúng nhân dân lao động:
Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời.
Ngƣời đã nhận thức muốn giải phóng xã hội, giải phóng ngƣời lao động nhất thiết

phải có đấu tranh giai cấp. Song, ở Việt Nam “Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra
giống nhƣ ở phƣơng Tây”12, bởi vì điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam khác với châu
Âu; văn hóa phƣơng Đơng khác với văn hóa phƣơng Tây. Đồng thời, nhận rõ đấu tranh
giai cấp ở cả ở Đông Dƣơng, Trung Quốc, Ấn Độ, châu Á và phƣơng Đông, Ngƣời đã
cho rằng: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nƣớc. Chính nó đã gây nên cuộc
nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những ngƣời culi biết phản đối, nó làm cho
những ngƣời “nhà quê” phản đối ngầm trƣớc thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ
nghĩa dân tộc đã thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với ngƣời Pháp và ngƣời
Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khố, làm cho những nhà cách mạng trốn
sang Nhật Bản, làm vua Duy Tân mƣu tính khởi nghĩa năm 1917”13. “Giờ đây, ngƣời ta
sẽ khơng thể làm gì đƣợc cho ngƣời An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và
duy nhất của đời sống xã hội của họ”14.
Đặt lên hàng đầu mục tiêu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác Lênin, nhất là điều mà C. Mác và Ph. Ăngghen đã kêu gọi trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản: “giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vƣơn
lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”15.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của đất nƣớc,
Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân lao động
đoàn kết đấu tranh giành độc lập dân tộc, ở đầu bằng Cách mạng tháng Tám năm 1945.
12

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.508.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.551.
14
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.513.
15
C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.623-624.
13

|46



“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam đã bắt đầu kỷ
nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ II
của Đảng (2/1951) xác định rõ con đƣờng hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1954, miền Bắc đƣợc hoàn toàn giải phóng và bƣớc
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi miền Nam vẫn phải tiếp tục hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong điều kiện miền Bắc vừa mới thoát
khỏi ách thực dân, phong kiến, nền kinh tế hết sức lạc hậu và đất nƣớc đang bị chia cắt
làm hai miền, Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Trong những điều kiện nhƣ thế, chúng ta phải
dùng những phƣơng pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa
xã hội?... Chúng ta phải nâng cao sự tu dƣỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập
trƣờng, quan điểm, phƣơng pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh
nghiêm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nƣớc ta. Có nhƣ
thế, chúng ta mới cố thể dần dần hiểu đƣợc quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam, định ra đƣợc những đƣờng lối, phƣơng châm, bƣớc đi cụ thể của cách mạng xã
hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nƣớc ta”16.
Quán triệt những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta từ khi ra đời cho tới nay luôn giƣơng
cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, gắn kết chặt chẽ, hài hịa các mục tiêu
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời và đã giành đƣợc những
thắng lợi to lớn trong cả ba cuộc giải phóng đó. Đại hội lần thứ III (9/1960) và Đại hội IV
(12/1976) của Đảng đã đề ra đƣờng lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cả
nƣớc. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta bƣớc đầu đã đạt đƣợc những
thành tựu nhất định, đồng thời cũng bộc lộ những khuyết tật, yếu kém. Điều đó đã đặt
ra yêu cầu là phải tiến hành đổi mới đất nƣớc, mà bắt đầu từ đổi mới tƣ duy lý luận,
nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) với quan điểm nhìn thẳng sự thật, đánh giá

đúng sự thật và nói rõ sự thật đã đánh dấu bƣớc ngoặt của quá trình đổi mới, nhất là đổi
mới tƣ duy kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, với sự đổi mới cơ chế quản lý chuyển dần sang nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển một cách vững
chắc, từng bƣớc thốt khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng từ cuối những năm 70 và
suốt những năm 80 của thế kỷ XX.
16

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.92.
47

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, nêu rõ về mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Nhân dân ta xây dựng gồm 6 đặc trƣng. Đầu những năm 90, với chính sách kinh tế
đúng đắn, với đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ phù hợp, sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công cuộc
đổi mới của Việt Nam đã vƣợt qua những thách thức hiểm nghèo do sự sụp đổ của chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc Đông Âu.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam
phát triển theo đƣờng lối đổi mới của Đảng chính là sự phát triển sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chứng minh giá trị
khoa học, tính cách mạng của lý luận, tƣ tƣởng đó. Trải qua hơn 20 năm đổi mới trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, với sự sáng tạo, phù
hợp với thực tiễn, Việt Nam đã tiến những bƣớc dài có những biến đổi sâu sắc và đạt
đƣợc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Cùng với những thành tựu về tăng

trƣởng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, thực hiện chính sách xã hội, cải thiện đáng
kể đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và tăng
cƣờng sức mạnh quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, Việt Nam còn đạt
đƣợc thành tựu quan trọng về lý luận, “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đƣờng đi
lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc
đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
đã hình thành trên những nét cơ bản”17, trƣớc hết là về mục tiêu và mơ hình của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đại hội XI của Đảng (01/2011) đã thông qua Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục làm rõ và
khẳng định những quan điểm và phƣơng hƣớng cơ bản con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đại hội đã đề ra Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020)
với những mục tiêu dựa trên cơ sở đổi mới mơ hình tăng trƣởng, tái cấu trúc nền kinh
tế và thực hiện ba đột phá chiến lƣợc: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng xã hội chủ
nghĩa; đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện
đại, đồng bộ.
Trải qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nƣớc ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội (1996), vƣợt qua
Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr.68.
17

|48


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

tình trạng một nƣớc nghèo kém phát triển (2008); đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, tăng trƣởng kinh tế khá; phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội
chủ nghĩa với những nhận thức rõ và đầy đủ hơn vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh, khơng ngừng xây dựng, hồn thiện hệ thống chính trị.
Giữa thế kỷ XIX, C. Mác và Ph. Ăngghen đã dự báo sự phát triển mạnh mẽ của
đại công nghiệp, của khoa học công nghệ dƣới chủ nghĩa tƣ bản, sự phát triển của thị
trƣờng thế giới. “Tự do buôn bán, thị trƣờng thế giới, sự đồng đều của sản xuất cơng
nghiệp và những điều kiện sinh hoạt thích ứng với nền sản xuất ấy thì những sự cách
biệt dân tộc và những sự đối lập giữa nhân dân các nƣớc cũng ngày càng mất đi”, “sự
thống trị của giai cấp vô sản sẽ càng làm cho những sự cách biệt và những sự đối lập ấy
sẽ mãi đi nhanh hơn”18. Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam đã chủ
trƣơng phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình
thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhằm sử dụng kinh tế thị trƣờng nhƣ là công cụ,
phƣơng tiện để thực hiện mục tiêu từng bƣớc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lựa chọn
mơ hình kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa thể hiện sự nắm bắt và vận
dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trƣờng trong thời đại ngày nay. Đó là
một sự sáng tạo hết sức quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhƣ vậy, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
cụ thể của đất nƣớc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những
đóng góp to lớn trong quá trình phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về nhiều vấn đề, trong
đó cơ bản là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời; độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa... Khơng có sự vận dụng, phát
triển sáng tạo đó thì khơng có những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Nhân dân
Việt Nam đã đạt đƣợc 33 năm đổi mới đất nƣớc.
III. KẾT LUẬN
Chủ nghĩa Mác do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào giữa thế kỷ XIX và đã
đƣợc V.I. Lênin phát triển vào đầu thế kỷ XX thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Trải qua
quá trình đi tìm đƣờng cứu nƣớc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo và lãnh đạo cách mạng Việt Nam đem lại độc lập tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho
nhân dân. Trong điều kiện hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công
nghệ, khi nhân loại đã bƣớc sang thế kỷ XXI, xu thế tồn cầu hóa, sự hội nhập khu vực,
18


C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.620.
49

|


Phần I. Chủ nghĩa Mác - Lênin - Giá trị trường tồn và sức sống thời đại

quốc tế, sự hợp tác và cạnh tranh vẫn sẽ nuôi dƣỡng ý thức độc lập dân tộc, tính tự giác
trong giải phóng giai cấp, giải phóng con ngƣời theo mục tiêu "Dân giàu, nƣớc mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh". "Tƣ tƣởng của Mác đã làm nên lịch sử thế kỷ
XX. Tƣ tƣởng của Mác vẫn là tƣ tƣởng của thế kỷ XXI. Nhân loại sẽ khơng có tƣơng
lai nếu khơng có tƣ tƣởng của Mác"19. Vì vậy, việc tìm hiểu và vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng, phát triển đất nƣớc ở Việt Nam hiện
nay là việc làm quan trọng và cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. V.I. Lênin (1980), Tồn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, (15 tập), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Học viện Chính trị quân sự (2008), Học thuyết Mác và con đường cách mạng
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85.
6. Trần Dân Tiên (2005), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Học viện Chính trị quân sự (2008), Học thuyết Mác và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.85.
19


|50



×