Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

quan điểm thực tiễn của triết học mác lê non và sự vận đụng của đảng cộng sản việt nam vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.42 KB, 116 trang )

Đại học quốc gia Hà nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị



Đặng Minh Quảng

Quan điểm thực tiễn của triết học mác-lênin
và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam
vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta

Luận văn thạc sĩ Triết học

Hà nội - 2009


Đại học quốc gia hà nội
Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị

-

Đặng Minh Quảng

Quan điểm thực tiễn của triết học mác-lênin
và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam
vào sự nghiệp đổi mới ở nước ta

Luận văn thạc sĩ Triết học

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:



60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thái Sơn

Hà nội - 2009


Mục lục
Mở đầu .............................................................................................................. 1
Chương 1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về thực tiễn và mối quan
hệ giữa thực tiễn với lý luận .................................................................. 6
1.1. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về thực tiễn......................................... 6
1.1.1 Thực tiễn – Phương thức tồn tại đặc trưng của loài người.......................... 6
1.1.2. Thực tiễn - điểm xuất phát trong triết học C.Mác ................................... 14
1.2. Quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen về mối quan hệ giữa thực tiễn và lý
luận ........................................................................................................ 24
1.2.1. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích trực tiếp của lý luận .................. 24
1.2.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý ........................................................ 29
Chương 2. Luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” của V.I.Lênin - sự kế
thừa và phát triển quan niệm về thực tiễn của C.Mác, Ph.Ăngghen .... 34

2.1. Quan niệm của V.I.lênin về thực tiễn và lý luận – cơ sở của luận điểm
“Thực tiễn cao hơn lý luận” .................................................................... 34
2.1.1. Tính hiện thực trực tiếp và tính phổ biến của thực tiễn ........................... 34
2.1.2. Tính phổ biến của lý luận ...................................................................... 40
2.2. Thực tiễn cao hơn lý luận bởi nó không chỉ có ưu điểm của tính phổ
biến mà nó còn có ưu điểm của tính hiện thực trực tiếp. ......................... 49
2.2.1. Thực tiễn hiện thực hoá lý luận............................................................... 50
2.2.2. Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của nhận thức lý luận ...................... 52

Chương 3. Sự vận dụng luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” của
Đảng Cộng sản Việt Nam vào công cuộc đổi mới đất nước ............... 61


3.1.Tách rời lý luận với thực tiễn là một trong những nguyên nhân quan
trọng gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội giai đoạn 1975 1986 ....................................................................................................... 61
3.1.1. Tình trạng tách rời lý luận với thực tiễn và những nguyên nhân của nó .. 61
3.1.2. Hậu quả của tình trạng tách rời lý luận với thực tiễn............................... 72
3.2. Thực tiễn cao hơn lý luận - ý nghĩa phương pháp luận của nó đối với
công cuộc đổi mới đất nước giai đoạn 1986 - 2006................................. 77
3.2.1. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1975 -1986 dẫn đến
nhu cầu đổi mới tư duy lý luận. .............................................................. 77
3.2.2. Đổi mới tư duy lý luận và những thành tựu đã đạt được của sự nghiệp
đổi mới đất nước giai đoạn 1986 - 2006 ............................................... 79
Kết luận........................................................................................................... 97
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 101
Phụ lục .......................................................................................................... 105


Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn là điểm xuất phát, là phạm trù trung tâm của hệ thống triết học
Mác. Kể từ khi C.Mác đánh giá đúng vai trò của thực tiễn và khẳng định nó
trong triết học, ông đã vạch ra một ranh giới không thể vượt qua giữa triết học
của Mác với toàn bộ hệ thống triết học còn lại, kể cả chủ nghĩa duy vật lẫn chủ
nghĩa duy tâm.
Trong triết học Mác, thực tiễn được xem xét từ hai góc độ là góc độ thế
giới quan và nhận thức luận. Từ góc độ thế giới quan, phạm trù thực tiễn tạo nên
thế giới quan duy vật biện chứng, và từ góc độ nhận thức luận, phạm trù thực
tiễn tạo nên nhận thức luận biện chứng duy vật. C.Mác viết “Vấn đề tìm hiểu

xem tư duy con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn
không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn” [29, tr.9-10]. Vận dụng
và phát triển quan điểm C.Mác về thực tiễn và mối quan hệ giữa thực tiễn với lý
luận, V.I. Lênin đã nêu lên luận điểm quan trọng: “Thực tiễn cao hơn lý luận”
[24, tr.230], ông cũng khẳng định “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức” [23, tr.167]. Vì vậy có
thể khẳng định, quan điểm thực tiễn hay nguyên tắc thực tiễn cao hơn lý luận là
nguyên tắc phương pháp luận quan trọng nhất của triết học Mác - Lênin.
Mặc dù vậy, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói
riêng cũng như ở hệ thống các nước XHCN nói chung, không phải khi nào quan
điểm thực tiễn cũng được tuân thủ nghiêm túc. Tình trạng xa rời quan điểm thực
tiễn được thể hiện ở việc không coi trọng vai trò của hiệu quả kinh tế - xã hội với
tính cách là tiêu chuẩn để kiểm tra tính đúng sai của các chủ trương, chính sách
kinh tế - xã hội. Nó còn được thể hiện ở việc áp dụng máy móc, giáo điều lý luận
về chủ nghĩa xã hội, về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không xem xét
đầy đủ đến hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia. Có thể khẳng định, việc xa rời

1


những yêu cầu của quan điểm thực tiễn là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội giai đoạn trước năm 1986.
Chính vì vậy, tại Đại hội lần thứ VI (12/1986), Đảng đã chỉ ra sự cần thiết
phải trở lại thực hiện nghiêm túc yêu cầu của quan điểm thực tiễn khi đưa ra bài
học kinh nghiệm quan trọng “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và
hành động theo quy luật khách quan” [8, tr.30] và khẳng định “Tiêu chuẩn đánh
giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất
và văn hoá của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao” [8, tr.30]. Khi
đánh giá về những nguyên nhân gây ra tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội

trong giai đoạn trước đó, Đảng đã xác định: “Khuynh hướng chủ yếu của những
sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy
ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ
quan” [8, tr.19], “Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý
luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật” [8, tr.213]. Vì vậy, từ Đại hội VI
đến nay, Đảng luôn khẳng định tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý luận là một
đòi hỏi vừa cấp bách, vừa thường xuyên trong suốt quá trình cách mạng. Đặc
biệt, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, đã nhấn mạnh việc cần thiết phải phát triển
lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn xây dựng đất nước.
Sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế cũng
như trong nước có nhiều thuận lợi, song cũng có không ít những khó khăn, thách
thức. Mỗi bước đi trong công cuộc đổi mới đều đòi hỏi sự sáng tạo về mặt lý
luận cũng như thực tiễn. Hơn bao giờ hết, thực tiễn trong giai đoạn hiện nay
đang đặt ra rất nhiều vấn đề mới cần được lý luận luận giải một cách thoả đáng,
có cơ sở khoa học. Điều đó đòi hỏi chúng ta không chỉ thừa nhận luận điểm quan
trọng của triết học Mác - Lênin “Thực tiễn cao hơn lý luận” như là một nguyên
tắc cho nhận thức và hành động, mà cần hiểu nó một cách sâu sắc từ nguồn gốc,

2


từ bản chất của mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, cơ sở để các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác- Lênin đưa ra luận điểm trên. Có như vậy, việc tổng kết kinh
nghiệm và đề ra phương hướng mới để đẩy mạnh công cuộc đổi mới của Việt
Nam mới tránh được tình trạng hoặc quá nhấn mạnh vai trò quy định của thực
tiễn dẫn đến bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, hoặc quá đề cao vai trò của lý luận
dẫn đến bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn.
Từ những lý do nói trên, chúng tôi chọn đề tài “Quan điểm thực tiễn của
triết học Mác - Lênin và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam” làm đề tài cho Luận văn Thạc sỹ Triết học của

mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những nội dung cơ bản của triết học Mác - Lênin, phạm trù thực
tiễn và mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận đóng vai trò quan trọng hàng đầu.
Vì vậy, trong những năm gần đây vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu
của nhiều nhà nghiên cứu triết học của Việt Nam. Đặc biệt gần đây có các công
trình: Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn: những bài học kinh nghiệm chủ
yếu do Lê Hữu Tầng chủ biên; Một số vấn đề triết học Mác - Lênin: lý luận và
thực tiễn của Lê Doãn Tá; Vấn đề tiêu chuẩn thực tiễn của chân lý của Nguyễn
Ngọc Hà; Vấn đề tiêu chuẩn chân lý trong lịch sử triết học của Nguyễn Tấn
Hùng; Một số nguyên tắc phương pháp luận trong vận dụng quan hệ lý luận và
thực tiễn của Lương Việt Hải.
Trong các công trình kể trên, do mục đích, phạm vi và đối tượng nghiên
cứu quy định, phạm trù thực tiễn thường chỉ được xem dưới góc độ nhận thức
luận mà chưa được nghiên cứu đầy đủ dưới góc độ thế giới quan. Nói cách khác,
là vai trò của thực tiễn đối với thế giới quan triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen
- cơ sở để các ông tạo ra một cuộc cách mạng trong lịch sử triết học chưa được
chú ý xem xét đúng tầm. Mặt khác, hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào

3


đề cập tới cấu trúc vừa có tính phổ biến vừa có tính hiện thực trực tiếp của phạm
trù thực tiễn - cơ sở để V.I.Lênin đưa ra luận điểm “thực tiễn cao hơn lý luận” đây là những vấn đề mà chúng tôi sẽ tập trung làm rõ trong đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
+ Làm sáng tỏ quan niệm của C.Mác và V.I.Lênin về thực tiễn, lý luận và
mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và lý luận - cơ sở để các nhà kinh điểm
rút ra quan điểm thực tiễn.
+ Làm rõ quá trình đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam mà thực chất là bắt đầu bằng việc trở lại những yêu cầu của quan điểm
thực tiễn.
* Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
+ Khảo sát những quan điểm của C.Mác về thực tiễn, lý luận.
+ Làm rõ mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, cơ sở để V.I.Lênin đưa ra
luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” bằng cách phân tích tính hiện thực trực
tiếp, tính phổ biến của thực tiễn và so sánh thực tiễn với lý luận.
+ Khảo sát quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ năm 1954,
đặc biệt từ năm 1975 cho đến nay dưới góc độ của mối quan hệ giữa thực tiễn và
lý luận.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về phạm trù thực tiễn và mối
quan hệ giữa thực tiễn với lý luận trong một số tác phẩm kinh điển.
- Phân tích luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” của V.I.Lênin.
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam từ 1954 cho năm 2006.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4


Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của phép biện chứng
duy vật, đặc biệt là nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn và lý luận. Trong đó
thực tiễn vừa là điểm khởi đầu vừa là điểm kết thúc của một chu trình nhận thức.
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp so sánh,
phân tích và tổng hợp, phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể… cho phép hiện
thực hóa đề tài nghiên cứu.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đóng góp về lý luận: Luận văn tiếp tục làm rõ nội hàm của phạm trù
thực tiễn - một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học Mác - Lênin,
góp phần làm sáng tỏ cơ sở khi khẳng định và vận dụng nguyên tắc “Thực tiễn

cao hơn lý luận”.
- Đóng góp về thực tiễn: Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho những
người hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, người giảng dạy và học tập môn triết
học.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Quan niệm của C.Mác về thực tiễn và mối quan hệ giữa thực
tiễn với lý luận.
Chương 2. Luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” của V.I.Lênin - sự kế
thừa và phát triển quan niệm về thực tiễn của C.Mác.
Chương 3. Sự vận dụng luận điểm “Thực tiễn cao hơn lý luận” của Đảng
Cộng sản Việt Nam vào công cuộc đổi mới đất nước.

5


Chương 1
Quan niệm của C.Mác về thực tiễn
và mối quan hệ giữa thực tiễn với lý luận
1.1. Quan niệm của C.Mác về thực tiễn
1.1.1. Thực tiễn - Phương thức tồn tại đặc trưng của loài người
Tất cả các trường phái triết học trong lịch sử đều hướng vào mục đích là đi
tìm lời giải đáp cho những câu hỏi chung nhất như: thế giới là gì? Con người là
gì và mối quan hệ giữa con người và thế giới như thế nào? Do đó, con người là
một trong những vấn đề trung tâm và xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử triết học.
Thực ra các câu hỏi trên không thể trả lời tách rời nhau, bởi con người chỉ
có thể biết được thế giới là gì trong chừng mực con người xâm nhập vào thế giới
đến đâu. Nói cách khác, chính mối quan hệ giữa con người với thế giới và sự
hiểu biết về mối quan hệ đó quyết định câu trả lời của con người về câu hỏi thế

giới là gì. Bản chất hoạt động của con người và do đó là bản chất của con người
là hoạt động thực tiễn. Đó là những hoạt động vật chất phù hợp với những quy
luật khách quan mà con người đã tích luỹ được đến một thời điểm nhất định. Tuy
nhiên không phải ngay từ đầu con người đã nhận thức được bản chất đó của
mình. Do đó, cũng không hiểu được thực chất mối quan hệ của mình đối với thế
giới và vì vậy cũng không hiểu được thế giới là gì.
Có thể nói triết học Mác là hệ thống triết học đầu tiên đánh giá đúng bản
chất của con người. Chỉ đến C.Mác với một thế giới quan đúng đắn, khoa học
vấn đề bản chất của con người mới được giải quyết một cách triệt để khoa học.
Hay nói cho chính xác, với việc xác định bản chất của con người một cách đúng
đắn, C.Mác mới có một hệ thống thế giới quan thực sự khoa học. Trong đó các
ông đã thấy được vị trí của con người cũng như thực chất mối quan hệ giữa con
người và thế giới.
6


C.Mác nhiều lần khẳng định, thực tiễn là phương thức tồn tại đặc trưng
của con người, là bản chất của con người, đồng thời thực tiễn cũng chính là điểm
xuất phát trong hệ thống triết học của ông.
Như đã khẳng định, trước khi triết học Mác ra đời chưa có một trường
phái triết học nào có cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất đích thực của con
người. Tình trạng này một phần do bản chất thực tiễn của con người bị che
khuất, chưa có điều kiện bộc lộ một cách trực tiếp. Mặt khác, do lập trường giai
cấp, các nhà triết học trước C.Mác, thậm chí là những nhà triết học duy vật điển
hình như L.Phoiơbắc cũng không có cách nhìn nhận đúng đắn về bản chất con
người. Mặc dù L.Phoiơbắc đã tự khẳng định triết học của ông lấy con người là
trung tâm, là nhân bản học. Con người theo L.Phoiơbắc không phải là nô lệ của
thượng đế, hay tinh thần tuyệt đối như quan niệm của Hêghen mà là sản phẩm
tinh tuý nhất của tự nhiên, là kết quả của qúa trình phát triển của tự nhiên. Đối
với L.Phoiơbắc bản chất của con người là bản thân con người, là cá thể người.

Con người chỉ có thể là sản phẩm của tự nhiên là “cái gương của vũ trụ” mà
thông qua đó giới tự nhiên ý thức và nhận thức đúng về mình. Chính vì vậy, bản
chất của con người chỉ có thể là cá nhân con người cụ thể hoặc là cái chung
chung trừu tượng. Cũng như những nhà triết học duy vật khác của thế kỷ XVIII,
L.Phoiơbắc đã không hiểu đúng bản chất hoạt động thực tiễn, hoạt động mang
tính bản chất của con người. Ông đã không hiểu phép biện chứng như là sự biểu
hiện hiện thực thực tiễn của con người, do ông muốn xem những khách thể cảm
tính thực sự khác với khách thể tư tưởng. Hoạt động thực tiễn đối với Phoiơbắc
chỉ được giới hạn ở những hoạt động sản xuất những vật phẩm tiêu dùng mà
không có ý nghĩa gì đối với bản chất của con người. Nhưng cho dù khẳng định
hoạt động đó ở con người, Phoiơbắc vẫn chỉ giới hạn ý nghĩa của hoạt động thực
tiễn ở việc đáp ứng những nhu cầu cụ thể nào đó mà chưa thấy được vai trò của

7


nó trong nhận thức cũng như cải tạo thế giới. Thậm chí, nhiều khi ông còn hiểu
thực tiễn theo nghĩa hoạt động con buôn, bẩn thỉu.
Trong “Luận cương về L.Phoiơbắc” C.Mác đã chỉ rõ khuyết điểm chủ yếu
của L.Phoiơbắc cũng như của các nhà triết học duy vật cũ là ở chỗ họ không hiểu
đúng bản chất thực tiễn của con người. Phoiơbắc đã không thấy được sự tác
động tích cực của con người vào “thế giới cảm giác được”. C.Mác viết “Khuyết
điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay - kể cả chủ
nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc - là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ
được nhận thức dưới hỡnh thức khỏch thể hay hỡnh thức trực quan, chứ
không được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn,
không được nhận thức về mặt chủ quan” [29, tr.19]. ở đây, C.Mác cho rằng
chủ nghĩa duy vật cũ xem xét sự vật, hiện tượng ở ngoài hoạt động thực tiễn của
con người, không tính đến tác động lao động hay hoạt động có ý thức của loài
người từ thế hệ này đến thế hệ khác đã “vật hoá” vào các sự vật, hiện tượng đó.

Theo quan niệm của C.Mác, các sự vật cần phải được nhận thức một cách chủ
quan như hoạt động cảm tính của con người, như là thực tiễn. Mọi trường phái
khác nhau của chủ nghĩa duy vật cũ đều khẳng định thế giới tự nhiên có trước
loài người và chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc cũng chỉ dừng lại ở đây. Nhưng
từ khi xuất hiện loài người, với hoạt động thực tiễn của con người thì cái bộ phận
của giới tự nhiên có quan hệ trực tiếp với hoạt động của con người đã trở thành
giới tự nhiên được nhân loại hoá. Nó không còn là “một sự vật đã tồn tại trực
tiếp từ ngàn xưa và luôn giống với bản thân nó, mà lại là sản phẩm của công
nghiệp và của trạng thái xã hội, và như vậy là sản phẩm của lịch sử, một kết quả
hoạt động của cả một thế hệ, thế hệ sau đứng trên vai thế hệ trước đó” [29, tr.62].
Vì thế C.Mác đòi hỏi phải “hiểu được rằng thế giới cảm giác là tổng số những
hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy”.
Hơn nữa “Hoạt động đó, lao động đó và sự sáng tạo vật chất không ngừng đó,

8


nói tóm lại sự sản xuất đó là cơ sở của toàn bộ thế giới cảm giác được, đúng y
như thế giới hiện đang tồn tại, đến mức là nếu như nó bị ngưng lại dù chỉ là một
năm thì Phoiơbắc không những sữ thấy những biến đổi lớn lao trong thế giới tự
nhiên, mà toàn bộ thế giới loài người và năng lực quan sát của bản thân ông,
thậm chí cả sự tồn tại của bản thân ông cũng chẳng mấy chốc cũng sẽ không còn
nữa” [29, tr.63] .
Khác với các nhà triết học duy vật cũ, C.Mác dựa trên những thành quả
của khoa học tự nhiên và thực tiễn xã hội đã đưa ra quan niệm hoàn toàn mới về
bản thân sự tồn tại của con người, bản chất và phương thức sống đặc trưng của
lọài người. Theo các ông, sự tồn tại của con người không phải đơn thuần là giới
tự nhiên bên ngoài, là sản phẩm thuần tuý của tự nhiên như L.Phoiơbắc quan
niệm. Đó trước hết là sự tồn tại xã hội với tư cách là một quá trình hiện thực của
cuộc sống con người. Trong đó, hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là

hoạt động sản xuất ra của cải vật chất đóng vai trò quyết định. C.Mác viết
“Nhưng bản chất con người không phải là cái trừu tượng vốn có của từng cá
nhân. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà tất cả các quan
hệ xã hội” [38, tr.372].
Để khẳng định hoạt động thực tiễn là phương thức tồn tại đặc trưng của
loài người và do đó là bản chất của con người C.Mác đã đi từ sự phân tích sự
khác biệt giữa phương thức tồn tại của con người và loài vật. Ngay trong tác
phẩm “Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844”, C.Mác đã cho rằng lao động sản
xuất là bản chất của con người và chỉ rõ “Toàn bộ cái gọi là lịch sử thế giới
chẳng qua chỉ là sự sáng của con người kinh qua lao động con người” [38,
tr.182]. Ph.Ăngghen nói rõ thêm “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài người
với xã hội loài vật là ở chỗ: Loài vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người
lại sản xuất” [37, tr.241]. Như vậy đối với C.Mác hoạt động thực tiễn, lao động
sản xuất là tiêu chí cơ bản để phân biệt con người với súc vật nói chung và cũng

9


là tiêu chí cơ bản để đánh dấu sự tách rời giữa con người với con vượn. Trong
tiểu luận “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành
người” Ph.Ăngghen đã có điều kiện để đi sâu phân tích vai trò của lao động đối
với sự phát triển, hoàn thiện của bản thân con người. Ông viết “bàn tay không
chỉ là khí quan của lao động mà còn là sản phẩm của lao động nữa” [33, tr.643].
Bước tiến cuối cùng có vai trò quyết định đối với sự hoàn thiện của con người,
đó là việc hình thành bộ óc, cơ sở vật chất của ý thức của con người cũng do lao
động quyết định, “Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động
là ngôn ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con
vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người” [33,
tr.646]. Trên cơ sở phân tích vai trò của lao động đối với việc phát triển, hoàn
thiện con người, Ph.Ăngghen khẳng định “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên

của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức nào đó và trên ý nghĩa
nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [33,
tr.641].
Trong thế đứng đối lập với thế giới tự nhiên, con người không khác là bao
nhiêu so với các loài động vật khác. Cũng giống như muôn loài, con người cũng
chỉ là một bộ phận của giới tự nhiên, sống dựa trên cơ sở của giới tự nhiên, đúng
như C.Mác đã từng khẳng định “Giới tự nhiên - cụ thể là giới tự nhiên trong
chừng mực bản thân nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ
của con người. Con người sống bằng giới tự nhiên” [38, tr.135]. Mặc dù vậy, con
người khác với tất cả các loài động vật khác trong quan hệ với giới tự nhiên, và
cũng chính vì thế con người cao hơn tất cả các loài vật. Tất cả các loài vật đều
sống dựa vào tự nhiên một cách trực tiếp, dựa trên điều kiện cơ thể mình (vốn
cũng do tự nhiên ban tặng, là sản phẩm của tự nhiên). Có nghĩa nếu điều kiện tự
nhiên thay đổi thì loài vật chỉ có cách thay đổi cơ thể mình để có thể thích nghi
và tồn tại. Và trong trường hợp sự thay đổi đó không đủ nhanh để thích nghi với

10


sự thay đổi của môi trường tự nhiên thì chúng sẽ bị tiêu diệt. Mọi hoạt động của
loài vật đều không để lại trong tự nhiên dấu ấn ý chí của chúng. Động vật cũng
biết tác động vào tự nhiên và luôn có ảnh hưởng đến hoàn cảnh xung quanh.
Song đối với bản thân loài vật thì đó chỉ là kết quả của những hoạt động mang
tính bản năng. Còn con người thì khác, “loài người càng cách xa loài vật bao
nhiêu thì tác động của con người vào tự nhiên càng mang tính chất của một hoạt
động có tính toán trước, có kế hoạch hướng vào những mục đích nhất định” [33,
tr.652]. Con người cũng sống trên cơ sở giới tự nhiên, nhưng con người không
sống dựa vào tự nhiên một cách trực tiếp và thụ động như loài vật. Giữa con
người và giới tự nhiên có một khâu trung gian. Đó chính là phạm vi của hoạt
động thực tiễn hay lao động sản xuất của con người. Bằng hoạt động thực tiễn

của mình, con người không những làm thay đổi thế giới vật chất mà còn làm
thay đổi, hoàn thiện chính bản thân mình. Ph.Ăngghen rút ra kết luận “Tóm lại,
loài vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên ngoài và gây ra những biến đổi trong giới
tự nhiên, chỉ đơn thuần do sự có mặt của nó thôi, còn con người thì do tạo ra
những biến đổi đó, mà bắt giới tự nhiên phải phục vụ những mục đích của mình,
mà thống trị giới tự nhiên. Và chính đó là sự khác nhau chủ yếu cuối cùng giữa
con người và các loài vật khác, và một lần nữa chính cũng là nhờ lao động mà
con người mới có được sự khác nhau đó” [33, tr.654].
Sản xuất ra của cải vật chất, ra thức ăn, nhà ở, áo mặc… là vai trò đặc biệt
quan trọng của lao động đối với sự tồn tại của xã hội loài người. Nhưng ý nghĩa
của lao động không chỉ dừng lại ở đó. Khi khẳng định hoạt động thực tiễn là
phương thức tồn tại đặc trưng của loài người, C.Mác còn cho rằng con người lao
động không chỉ để đáp ứng những nhu cầu bản năng sinh tồn của mình. Theo các
ông, hoạt động sản xuất của con người khác hẳn về chất so với hoạt động sinh
tồn của con vật. Hoạt động thực tiễn của con người là hoạt động phổ biến, hoạt
động ngay cả khi con người thoát khỏi những nhu cầu về thể xác, trực tiếp, “con

11


người sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc và chỉ khi không
bị nhu cầu đó ràng buộc thì con người mới sản xuất theo ý nghĩa chân chính của
từ đó” [38, tr.137]. Hoạt động đó là sự sáng tạo lại toàn bộ giới tự nhiên, tự do
đối lập với sản phẩm hoạt động của chính mình và “theo thước đo của bất cứ
giống nào và ở đâu cũng có thể áp dụng thước đo thích dụng cho đối tượng” [38,
tr.137]. C.Mác viết “…con người thì biến bản thân hoạt động sinh hoạt của mình
thành đối tượng của ý chí và ý thức của mình. Hoạt động sinh hoạt của con
người là hoạt động có ý thức… hoạt động sinh hoạt có ý thức của con người là
cái trực tiếp nhất phân biệt hoạt động của con người với hoạt động sinh hoạt của
con vật” [38, tr.136]. Và chính vì vậy, “sự sản xuất đó là đời sống có tính loài

tích cực của con người” [38, tr.137].
Trong quan niệm của C.Mác, với hoạt động thực tiễn, con người không
chỉ phát triển và hoàn thiện chính bản thân mình với tư cách là những cá thể
người riêng lẻ mà còn sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử loài người.
Chính trong hoạt động lao động sản xuất, con người mới cố kết với nhau thành
những mối quan hệ xã hội nhất định. Hoạt động lao động sản xuất là cơ sở của
tất cả các hoạt động xã hội khác của con người từ kinh tế đến chính trị văn hóa.
Con người và xã hội không tách rời tự nhiên mà tồn tại dựa vào giới tự
nhiên, vào sự biến đổi tự nhiên của chính mình. Nếu không có giới tự nhiên, con
người không thể tiến hành hoạt động sản xuất được. Song đến lượt mình, sản
xuất xã hội lại trở thành điều kiện tiên quyết để con người cải biến tự nhiên, trở
thành nhân tố trực tiếp quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Chính hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động thực tiễn lại cho con người năng
lực thúc đẩy tiến bộ xã hội, sáng tạo ra lịch sử loài người. Như vậy, lịch sử của
loài người là lịch sử của hoạt động thực tiễn sản xuất, tức là lịch sử của lao động.
Trong lao động con người nhận thức cải tạo thế giới tự nhiên, đồng thời từng
bước trở thành chủ nhân của giới tự nhiên. Do đó, sự khác biệt cơ bản giữa loài

12


người với loài vật chính là ở chỗ lịch sử của loài người do chính con người sáng
tạo ra trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Do nhu cầu khách quan, lao động của con người không ngừng phát triển.
Bắt đầu từ khi chế tạo được công cụ lao động đơn giản nhất thì “từ thế hệ này
sang thế hệ khác, chính ngay lao động cũng ngày càng nhiều vẻ hơn, hoàn thiện
hơn, có nhiều mặt hơn” [33, tr.650]. Như vậy, sự phát triển về phương diện tự
nhiên của hoạt động thực tiện, tức là lao động (mối quan hệ giữa con người với
giới tự nhiên) khi phát triển đến một trình độ nhất định lại quy định hình thức và
trình độ của các mối quan hệ xã hội. Tức là quyết định một hình thức tương ứng

của đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển không ngừng và ngày càng trở nên
phức tạp của lao động, các quan hệ xã hội của con người cũng phát triển từ đơn
giản đến phức tạp, làm xuất hiện các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, nghệ
thuật. Trên cơ sở của các quan hệ đó, các thiết chế tương ứng của chúng như nhà
nước, giáo hội,… cũng ra đời và phát triển. Như vậy, mọi mối quan hệ của con
người đều lấy sự phát triển của lao động làm tiền đề. Trong “Luận cương về
L.Phoiơbắc” C.Mác viết “Đời sống xã hội, về cơ bản là có tính thực tiễn” [29,
tr.12]. Trong quan niệm của các ông, con người chinh phục tự nhiên, cải biến tự
nhiên không phải với tư cách là những cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là thành
viên của một cộng đồng xã hội.
Mặt khác, như ở phần trên đã phân tích, trong quá trình lao động để có thể
tồn tại và phát triển hàng triệu kinh nghiệm của loài người đã được tích lũy và
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đến một mức độ phát triển nhất định nào
đó, hầu như hoạt động của mỗi con người đều phải dựa trên những kinh nghiệm
mà thế hệ trước đã tích lũy và để lại. Nhưng kinh nghiệm loài của con người lại
hoàn toàn khác động vật ở chỗ, nó không được truyền chủ yếu từ thế hệ này sang
thế hệ khác thông qua hệ thống gien di truyền, mà chỉ được truyền dưới dạng đời
sống hiện thực, thông qua các mối quan hệ xã hội. Do đó, mỗi cá nhân buộc phải

13


sống trong môi trường xã hội mới có thể tiếp thu được kinh nghiệm xã hội và từ
đó mới có thể hoạt động như một cá thể loài. Mọi quan hệ xã hội của loài người
đều lấy sự phát triển của lao động làm tiền đề, và lại quay trở lại phục vụ cho sự
phát triển ấy.
Như vậy, trong quan niệm của C.Mác, Ăngghen, với bản chất thực tiễn
của mình, con người không chỉ làm chủ giới tự nhiên mà hơn nữa còn đóng vai
trò là chủ thể của quá trình lịch sử.
1.1.2. Thực tiễn - điểm xuất phát trong triết học C.Mác

Như trên đã nói, tất cả các trường phái triết học trong lịch sử đều đi tìm lời
giải đáp cho câu hỏi “thế giới là gì?” Nhưng khả năng hiểu biết của con người về
thế giới lại phụ thuộc vào mức độ con người thâm nhập vào thế giới đến đâu.
Điều này có nghĩa chính mối quan hệ giữa con người với thế giới và sự hiểu biết
về mối quan hệ đó quyết định câu trả lời của con người về câu hỏi thế giới là gì.
Mối quan hệ giữa con người và thế giới chính là phương thức tồn tại của con
người - hoạt động thực tiễn. Như vậy, một trình độ phát triển nhất định của thực
tiễn quyết định trình độ của quan niệm chung của con người về thế giới và chính
bản thân con người, tức là quyết định trình độ thế giới quan của con người. Nói
cách khác, thế giới quan được chủ thể nhận thức trên cơ sở tự nhận thức của chủ
thể về chính mình. Do đó, tùy thuộc vào trình độ của hoạt động thực tiễn mà mỗi
thời đại khác nhau có thế giới quan khác nhau.
Mặt khác, mỗi nhà triết học khi đề cập đến vấn đề thế giới quan là nhân
danh thời đại mình, đồng thời họ lại thuộc về một tầng lớp, một giai cấp cụ thể
với một lập trường riêng nào đó. Họ trả lời câu hỏi thế giới là gì, con người có vị
trí như thế nào trong thế giới ấy đạt đến trình độ nào, một mặt phụ thuộc vào sự
hiểu biết của họ về thực tiễn, đồng thời lại phụ thuộc vào lập trường giai cấp của
họ.

14


Như phần trên chúng ta đã biết phương thức tồn tại hay bản chất của con
người là hoạt động thực tiễn, tức là hoạt động vật chất, phù hợp và nương theo
những quy luật của thế giới khách quan mà con người đã tích luỹ được đến một
thời điểm nhất định. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu, con người đã nhận thức
được bản chất đó của mình. Do đó, cũng không hiểu thực chất mối quan hệ của
mình với thế giới và vì vậy cũng hiểu thế giới là gì một cách đúng đắn.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra bản chất thực tiễn của con người và
của đời sống xã hội. Phát hiện ấy của các ông cũng chính là do sự phát triển của

đời sống thực tiễn tạo ra. Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, bản chất thực tiễn của
đời sống xã hội được bộc lộ và biểu hiện trực tiếp, cụ thể hơn nhiều so với các
thời đại trước nhờ có sự ra đời của một giai cấp mới- giai cấp vô sản. Hoạt động
của giai cấp này và vai trò quyết định của hoạt động ấy đối với đời sống xã hội
đã tạo điều kiện cho C.Mác phát hiện ra một chân lý giản dị xưa nay vẫn tồn tại
trong đời sống xã hội nhưng vẫn bị các hiện tượng tự nó sinh ra che khuất. Chân
lý giản dị đó là toàn bộ đời sống xã hội tồn tại được với tư cách là xã hội, chính
là nhờ nền sản xuất vật chất, đáp ứng nhu cầu sống của con người. Với việc
phát hiện ra bản chất thực tiễn của đời sống xã hội, C.Mác đã phát hiện ra “bí ẩn
của lịch sử”. Trên cơ sở phạm trù thực tiễn C.Mác đã xây dựng nên toàn bộ quan
niệm duy vật về lịch sử. Nói cách khác, các ông đã thực hiện “một cuộc cách
mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới”.
Trước C. Mác, toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới xét đến cùng đều dựa
trên quan điểm cho rằng phải tìm nguyên nhân của mọi sự biến đổi lịch sử ở tư
tưởng luôn thay đổi của con người, và cho rằng trong tất cả những biến động của
lịch sử, những chuyển biến chính trị là quan trọng nhất (hoặc là chuyển biến tôn
giáo - như quan niệm của L.Phoiơbắc), chi phối toàn bộ lịch sử. Toàn bộ những
kiến giải triết học đó chưa đi sâu tìm hiểu xem tư tưởng của con người từ đâu mà
ra và những nguyên nhân nào thúc đẩy những chuyển biến chính trị, tôn giáo đó.

15


Khi bắt tay vào xây dựng hệ thống triết học của riêng mình, C.Mác đã có
quá trình tìm hiểu sâu sắc triết học cổ điển Đức. Bởi triết học của các ông không
phải là từ trên trời rơi xuống mà là sự kế thừa có phê phán nền triết học Đức hồi
bấy giờ. Theo C.Mác, toàn bộ nền triết học hậu cổ điển Đức đều xuất phát từ một
tiền đề duy nhất, đó là hệ thống triết học duy tâm thần bí của Hêghen, phát triển
những luận điểm của Hêghen theo những chiều hướng khác nhau. Đúng như
Mác đã khẳng định “Toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức, từ Trauxơ đến Stiêcnơ

đều bó tròn trong những biểu tượng tôn giáo” [29, tr.26]. Bởi theo những nhà
triết học thuộc phái Hêghen trẻ vấn đề quan trọng nhất là phải đấu tranh phê
phán lại những ảo tưởng của ý thức, cái mà họ cho rằng có một sự tồn tại độc lập
và là xiềng xích thực sự đối với con người. Do đó “ngoài những câu nói ra, họ
chẳng có cái gì khác hơn để chống lại những câu nói ấy, và nếu họ chỉ đấu tranh
chống lại những câu nói của thế giới thôi thì họ tuyệt nhiên chẳng đấu tranh gì
chống lại thế giới hiện thực, hiện tồn ấy cả” [29, tr.28].
Thực ra, những tư tưởng của C.Mác về thực tiễn và vai trò quyết định của
thực tiễn đối với lịch sử đã hình thành những nét phác thảo ngay từ tác phẩm
“Gia đình thần thánh”, thông qua việc phê phán phái Hêghen trẻ. C.Mác cho
rằng, phái Hêghen trẻ chưa xác lập được quan điểm thực tiễn về con người mà
chỉ dừng lại ở sự “phê phán cõi thượng giới”. Họ cổ vũ cho triết học “tự ý thức”
nhằm đề cao tác dụng sáng tạo của tinh thần, hạ thấp và coi vật chất không có vai
trò gì. Họ đả kích, vu cáo công nhân là đám quần chúng “không biết phê phán”,
là loại “vật chất” tiêu cực. Trong tình hình thực tiễn lúc bấy giờ, quan điểm của
phái Hêghen trẻ cực kỳ có hại tới phong trào của công nhân đang lên và cần có
một đường lối triết học để chỉ dẫn. Vì vậy, trong Lời tựa của tác phẩm Gia đình
thần thánh, C.Mác,Ph.Ăngghen đã chỉ ra trước hết, “ở Đức, chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực (chủ nghĩa cộng sản- Đ.M.Q) không có kẻ thù nào nguy hiểm hơn chủ
nghĩa duy linh, tức chủ nghĩa duy tâm tư biện” [28, tr.13]. Đó chính là quan

16


niệm “anh hùng làm nên lịch sử” được luận chứng thông qua triết học “tự ý
thức”. C.Mác vạch rõ “Nó thay thế con người hiện thực bằng “tự ý thức” hoặc
tinh thần và cùng với nhà truyền đạo nó giảng dạy rằng “tinh thần đem lại sinh
khí, còn thể xác thì yếu đuối, bất lực” [28, tr.13].
Theo quan niệm của phái Hêghen trẻ, việc quần chúng công nhân bị lăng
nhục và bóc lột dưới chế độ tư bản đều bị coi là “tư tưởng thuần tuý”, chỉ tồn tại

trong đầu óc công nhân. C.Mác chỉ ra rằng đúng là kẻ thù của tiến bộ tồn tại độc
lập bên ngoài quần chúng, nhưng “triết học phê phán” của phái Hêghen trẻ chỉ
yêu cầu công nhân vùng lên về mặt tư tưởng. Sự nguy hiểm của quan niệm trên
còn thể hiện ở chỗ, nó “biến những sợi xích hiện thực khách quan, ở ngoài cái
tôi, thành những sợi xích tuyệt nhiên chỉ tồn tại trong quan niệm, chỉ có tính chất
chủ quan, chỉ tồn tại trong cái tôi và do dó biến tất cả những cuộc đấu tranh bên
ngoài, cảm tính, thành những cuộc đấu tranh của những quan niệm thuần tuý”
[28, tr.124].
Cũng trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, trên cơ sở quan điểm thực
tiễn, C.Mác đã phê phán cách hiểu thần bí duy tâm về thực tiễn của phái Hêghen
trẻ. Với phái Hêghen trẻ, đặc biệt là Bauơ, giữa thực tiễn và lý luận, giữa tồn tại
và tư duy thì lý luận hoặc tư duy tồn tại dưới hình thức tích cực, loại tồn tại đó
“không dùng phương thức vật chất thực sự để cải biến hiện thực vật chất, tức
không cải biến hiện thực vật chất của bản thân mình và hiện thực vật chất của
người khác” [28, tr.53]. Thậm chí những nhà triết học đó chống lại việc nghiên
cứu kinh tế chính trị và nghiên cứu mâu thuẫn thực tế, “Sự phê phán có tính chất
phê phán” cho rằng mình không cần phải thừa nhận điều ấy, vì nó tuyên bố nó là
nhân tố sáng tạo duy nhất của lịch sử. Những sự đối lập trong lịch sử đều do nó
sinh ra, hành động nhằm tiêu diệt những sự đối lập ấy cũng do nó sinh ra” [28,
tr.56]. Trong khi phê phán phái Hêghen trẻ, C.Mác nhấn mạnh rằng muốn biến
đổi hiện thực thì đấu tranh về mặt lý luận là chưa đủ, vấn đề là phải tiến hành

17


hành động phê phán một cách thực tiễn, chỉ trong hoạt động thực tiễn con người
mới có thể làm thay đổi thế giới. Ông đi đến kết luận “Tư tưởng căn bản không
thực hiện được cái gì hết. Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người
sử dụng lực lượng thực tiễn” [28, tr.181].
Sau khi đã phân tích và chỉ ra những hạn chế của chủ nghĩa duy tâm

Hêghen và phái Hêghen trẻ trong tác phẩm “Gia đình thần thánh”, C.Mác đã ý
thức được việc cần thiết phải đề xuất quan điểm duy vật về lịch sử, với tư cách là
cơ sở triết học của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Dự định đó được C.Mác thực
hiện trong Bản sơ thảo “Những luận cương về L.Phoiơbắc”. Mặc dù đây mới chỉ
là “những bút ký ghi vội vàng”, nhưng như Ph.Ăngghen nhận xét, đó chính là
“những nguyên lý xuất phát của một thế giới quan mới, là những luận cương vô
cùng quý giá vì đó là văn kiện đầu tiên chứa đựng mầm mống thiên tài của một
thế giới quan mới” [34, tr.528]. Nếu nói rằng “Luận cương” là bản sơ thảo của
thế giới quan mới thì phạm trù thực tiễn chính là điểm xuất phát.
Trong “Luận cương”, lần đầu tiên C.Mác gọi triết học của mình là “Chủ
nghĩa duy vật mới” để phân biệt với “triết học mới” của L.Phoiơbắc. Bởi như
C.Mác đã khẳng định trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức viết ngay sau đó “Hoàn
toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta từ
dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người
nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người
chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của
người khác, để từ đó mà đi tời những con người bằng xương bằng thịt; không,
chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là
cũng xuất phát từ quá trình đới sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát
triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống
ấy” [29, tr.37]. Mặt khác, theo quan niệm của V.I. Lênin, chủ nghĩa duy vật cũ
cho đến L.Phoiơbắc, loại triết học đó là chủ nghĩa duy vật “nửa dưới”, chỉ duy

18


vật trong lĩnh vực tự nhiên còn duy tâm khi xem xét về lịch sử. “Chủ nghĩa duy
vật mới” của C.Mác “mới” ở chỗ hoàn thiện cấu trúc triết học của chủ nghĩa duy
vật, đó là chủ nghĩa duy vật hoàn bị, duy vật cả trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội.
Điều này có được cũng là do C.Mác, đã nhìn nhận đúng bản chất thực tiễn của

con người và coi thực tiễn là điểm xuất phát của hệ thống triết học của mình.
Ngay trong Điều một của “Luận cương”, C.Mác đã khẳng định và chỉ ra
sự khác nhau giữa “chủ nghĩa duy vật mới” của ông với cả chủ nghĩa duy vật của
L.Phoiơbắc và hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Sự khác nhau đó, trước
hết xuất phát từ cách hiểu khác nhau về thực tiễn. Về tính trực quan của chủ
nghĩa duy vật cũ, chủ yếu C.Mác muốn nói tới L.Phoiơbắc. Chủ nghĩa duy vật
trực quan của L.Phoiơbắc chỉ nhìn thấy thế giới khách quan, mà không nhìn thấy
sự tồn tại của con người với bản chất thực tiễn trong thế giới đó. Theo quan điểm
của C.Mác, khi đã khẳng định phương thức tồn tại của con người là hoạt động
thực tiễn, hoạt động phù hợp với những bản chất, quy luật khách quan của thế
giới thì không có lý do gì để khẳng định một chiều là thế giới tồn tại một cách
khách quan thuần tuý, ngoài ý muốn chủ quan của con người mà cần phải thấy
rằng con người bằng hoạt động thực tiễn, cảm tính của mình đã làm biến đổi thế
giới ghi dấu ấn của mình vào thế giới đó. Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác nói rõ
tính “trực quan” của L.Phoiơbắc được biểu hiện trên hai mặt. Một là, “chỉ nhìn
thấy “cái trực quan đơn thuần”, “trước mắt”, “ông không thấy rằng thế giới cảm
giác được bao quanh ông không phải là một sự vật đã tồn tại trực tiếp từ ngàn
xưa và luôn luôn giống với bản thân nó, mà lại là sản phẩm của công nghiệp và
của trạng thái xã hội, và hơn nữa với cái nghĩa là đó là một sản phẩm của lịch
sử”. Hai là cách nhìn cao hơn, cách nhìn triết học, “người Đức” hoặc “con người
với tính cách là con người” thật ra là “người Đức”, loại người đó, “chứ không
phải là con người lịch sử, hiện thực”. Xuất phát từ con người trừu tượng để hiểu
đối tượng, hiện thực, cảm tính, thì kết quả chỉ có thể “nhìn thấy được “bản chất

19


thực sự” của sự vật” [29, tr.61-62], tức bản chất trừu tượng, bất biến, ví như bản
chất trừu tượng của con người. Phê phán tính trừu tượng của lý luận chủ thể hoặc
tính năng động duy tâm, chủ yếu C.Mác nhằm vào quan điểm duy tâm về lịch sử

của phái Hêghen, đặc biệt anh em Bau, “Thành thử mặt năng động được chủ
nghĩa duy tâm phát triển , đối lập với chủ nghĩa duy vật, nhưng chỉ phát triển
một cách trừu tượng vì chủ nghĩa duy tâm dĩ nhiên không hiểu hoạt động hiện
thực, cảm giác được, đúng như là hoạt động hiện thực, cảm giác được” [29, tr.9].
Như vậy, với việc lý giải “hoạt động cảm giác của con người”, C.Mác đã chỉ ra
nguyên nhân khiến chủ nghĩa duy vật của L.Phoiơbắc và chủ nghĩa duy tâm của
Hêghen không có khả năng phát triển tới quan điểm khoa học về lịch sử.
Trong Luận cương, C.Mác cũng khẳng định thực tiễn không chỉ là tiền đề
duy vật để hiểu đời sống xã hội loài người mà còn là chìa khoá để hiểu động lực
phát triển của xã hội, là cơ sở hiện thực của sự phát triển của xã hội. Chủ nghĩa
duy vật Pháp thế kỷ XVIII quan niệm rằng “con người là sản phẩm của giáo dục
và hoàn cảnh”, có nghĩa con người biến đổi cùng với sự biến đổi của giáo dục và
hoàn cảnh. Do đó, họ cho rằng cần phải tìm ra những con người thúc đẩy sự biến
đổi của hoàn cảnh và nền giáo dục, những người đó đứng trên xã hội. Như vậy,
chủ nghĩa duy vật cũ đã không hiểu được mâu thuẫn giữa con người với hoàn
cảnh, cho nên khi nhận thức động lực của lịch sử họ sa vào quan niệm “anh hùng
làm nên lịch sử”. C.Mác đã chỉ ra rằng: “Sự phù hợp giữa sự thay đổi của hoàn
cảnh với hoạt động của con người, chỉ có thể được quan niệm và được hiểu một
cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn cách mạng” [29, tr.10]. Trong quá trình thực
tiễn, đồng thời với việc làm biến đổi hoàn cảnh, con người cũng làm biến đổi bản
thân mình. Sự thay đổi của hoàn cảnh và sự phát triển của bản thân con người
đều là kết quả của hoạt động thực tiễn. Quá trình thực tiễn của con người chính
là quá trình phát triển tiệm tiến của lịch sử.

20


Trên cơ sở đó, C.Mác phê phán quan điểm lịch sử của L.Phoiơbắc, quan
điểm này chỉ chú trọng đến “đối tượng của cảm tính” chứ không phải là “hoạt
động cảm tính”. Quan hệ giữa chủ thể và khách thể của lịch sử chỉ được giới hạn

trong lĩnh vực nhận thức, hình thức thực tiễn bị loại bỏ. Do đó, chủ nghĩa duy vật
của L.Phoiơbắc nhiều nhất cũng chỉ có thể “vươn tới được sự trực quan về
những cá nhân riêng biệt trong “xã hội công dân”. C.Mác đã chỉ ra rằng
L.Phoiơbắc đã ra sức hoà tan thế giới tôn giáo vào cơ sở trần tục của nó, ông
không thấy rằng sau khi đã làm xong việc ấy rồi thì điều chủ yếu vẫn chưa làm
được. Điều bốn của Luận cương đã lý giải rõ quan niệm của C.Mác về động lực
của lịch sử “Trước hết phải hiểu bản thân cơ sở trần tục ấy trong mâu thuẫn của
nó và sau đó phải cách mạng hoá nó trong thực tiễn bằng cách xoá bỏ mâu thuẫn
đó” [29, tr.11].
Lấy thực tiễn đối lập với tính trực quan, siêu hình của chủ nghĩa duy vật
cũ, lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng đối lập với mọi trào lưu của chủ nghĩa duy
tâm tư biện, C.Mác đã đưa ra một luận điểm được coi là tuyên ngôn của chủ
nghĩa duy vật mới của ông. Luận điểm đó là, “Các nhà triết học đã chỉ giải thích
thế giới bằng nhiều cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” [38, tr.373].
Việc cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn là đặc trưng quan trọng nhất của
chủ nghĩa duy vật mới so với tất cả các trường phái triết học khác.
Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” viết năm 1845 - tác phẩm đánh dấu sự
trưởng thành tư tưởng của C.Mác, Ph.ăngghen trong quá trình xây dựng thế giới
quan mới, xuất phát từ phạm trù thực tiễn các ông đã có điều kiện làm rõ sự khác
nhau giữa triết học của mình với toàn bộ các trường phái triết học còn lại ở Đức
lúc bấy giờ. Mở đầu tác phẩm, C.Mác đã vạch rõ thực chất của cái gọi là sự cải
biến cách mạng của phái Hêghen trẻ. Các nhà triết học của phái Hêghen trẻ đều
tự xưng là những nhà triết học cách mạng Đức hiện đại với những “lời lẽ khoa
trương” về khát vọng giải thoát, trên thực tế chỉ là “cái trò bịp bợm triết học”.

21


×