Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội - sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.71 KB, 11 trang )

“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI - SỰ VẬN
DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VÀO VIỆT NAM
TS. Vũ Thị Minh Tâm
Học viện Kỹ thuật Quân sự
Tóm tắt
Có thể khẳng định, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội là
nhân tố quyết định bản chất cách mạng, khoa học trong tư tưởng cơng bằng xã hội
của Hồ Chí Minh. Sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh
đối với chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội được thể hiện rõ ở một số nội
dung cơ bản: công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, cần được thực hiện một
cách hợp lý; chỉ có con đường cách mạng vơ sản mới thực hiện được công bằng
xã hội; nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là công bằng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản; tách biệt hai phạm trù công bằng xã hội và bình
đẳng xã hội… Từ đó, Hồ Chí Minh xây dựng tư tưởng cơng bằng xã hội rất sâu
sắc và độc đáo, vượt xa các quan niệm về cơng bằng xã hội trước đó khơng chỉ về
bản chất mà cả độ sâu sắc và toàn diện, nhất là về điều kiện thực hiện.
Từ khóa: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cơng bằng xã hội.

I. MỞ ĐẦU
Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh đã đấu tranh khơng mệt mỏi vì sự cơng
bằng, tiến bộ của xã hội lồi ngƣời. Hồ Chí Minh sớm đƣợc trang bị những giá trị công
bằng xã hội trong văn hóa truyền thống của dân tộc và bƣớc đầu tiếp nhận những giá trị
cơng bằng, bình đẳng của phƣơng Tây trong trƣờng học. Ngƣời lại sớm chứng kiến
những áp bức, bất công tồn tại trong xã hội Việt Nam dƣới chế độ thực dân phong kiến.
Điều này thôi thúc Hồ Chí Minh tham gia vào phong trào đấu tranh u nƣớc địi dân
chủ, cơng bằng cho nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cuộc hành trình xuyên qua
nhiều châu lục, khảo sát nhiều chế độ xã hội của Hồ Chí Minh nhằm mục đích tìm con
đƣờng giải phóng cho dân tộc Việt Nam đã giúp ngƣời có điều kiện tìm hiểu lý luận và


thực tiễn thực hiện cơng bằng xã hội (CBXH) ở các nƣớc trên thế giới. Kế thừa quan
điểm của các nhà tƣ tƣởng trong lịch sử, đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, Hồ Chí Minh đã đề cập một cách khá tồn diện về cơng bằng xã hội, chỉ ra vai
237

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

trò, bản chất, nội dung, giá trị của việc thực hiện cơng bằng xã hội. Có thể khẳng định,
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về công bằng xã hội là nhân tố quyết định bản chất
cách mạng, khoa học trong tƣ tƣởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
II. NỘI DUNG
Sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với chủ nghĩa
Mác - Lênin về công bằng xã hội đƣợc thể hiện rõ ở một số nội dung cơ bản sau:
2.1. Thứ nhất, công bằng xã hội là một phạm trù lịch sử, cần được thực hiện một
cách hợp lý
Chủ nghĩa Mác - Lênin coi công bằng xã hội là một phạm trù có tính lịch sử. Tùy
theo điều kiện lịch sử khác nhau mà công bằng xã hội đƣợc thực hiện tƣơng xứng. Sẽ là
sai lầm nếu mang thƣớc đo công bằng ở thời kỳ lịch sử này áp đặt vào giai đoạn lịch sử
khác. Theo các ông, công bằng xã hội gắn liền với lợi ích giai cấp, tầng lớp xã hội nhất
định cùng với những điều kiện vật chất sinh ra nó.
Từ sự hiểu biết sâu sắc tính lịch sử của phạm trù cơng bằng xã hội, kế thừa quan
điểm này của các nhà kinh điển Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh tới việc thực hiện công
bằng xã hội một cách hợp lý. Tùy vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng giai
đoạn lịch sử để đặt ra những vấn đề thực hiện cơng bằng xã hội, khơng đƣợc đƣa ra
những tiêu chí không phù hợp với thực tiễn. Ngƣời luôn nhắc nhở cán bộ ta phải tính
tốn một cách lâu dài, cơng bằng, hợp lý.
Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm của mình: “Chủ nghĩa xã hội là
cơng bằng hợp lý” [6]. Công bằng đi liền với hợp lý. Ngơn từ mà Hồ Chí Minh sử dụng

rất đơn giản nhƣng nó mang nhiều tầng ý nghĩa sâu sắc. Cơng bằng xã hội phụ thuộc
vào hồn cảnh cụ thể, mang tính tƣơng đối. Nếu tách thực hiện cơng bằng xã hội ra
khỏi hồn cảnh cụ thể thì cơng bằng ấy có thể trở thành khơng hợp lý, bất cơng. Sự hợp
lý ở đây đƣợc hiểu là sự phù hợp giữa thực hiện công bằng xã hội với điều kiện khách
quan, thực tiễn kinh tế, chính trị, xã hội của đất nƣớc, nhấn mạnh tới việc coi công
bằng xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu nhƣng không thể nóng vội địi đạt tới cơng
bằng xã hội tuyệt đối ngaylập tức.
Theo Hồ Chí Minh, cơng bằng xã hội phải đƣợc thực hiện từng bƣớc, gia tăng
cấp độ dần dần. Đây là một vấn đề tƣởng chừng đơn giản nhƣng cũng phải có những
bài học thực tiễn để chúng ta nhận thức đúng đắn đƣợc chân lý này. Sự nóng vội, chủ
quan duy ý chí mong muốn xóa bỏ mọi áp bức bất cơng, xóa bỏ sở hữu tƣ nhân, công

|238


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

hữu hóa tồn bộ tƣ liệu sản xuất, bỏ qua nguyên tắc phân phối theo lao động để thực
hiện phân phối bình quân,... mọi ngƣời đều đƣợc hƣởng sự công bằng, tự do trong khi
trình độ của lực lƣợng sản xuất cịn hạn chế, kinh tế xã hội còn thấp kém đã đẩy nƣớc
ta và một số nƣớc vào cuộc khủng hoảng trầm trọng và tồn diện. Địi hỏi phải đổi mới
tồn bộ trong đó có việc nhìn nhận lại cách hiểu về cơng bằng xã hội mà Hồ Chí Minh
đã vạch ra. Cơng bằng xã hội mang tính hợp lý, việc thực hiện nó phải phù hợp với
thực tiễn, tách rời hiện thực khách quan, thực hiện cơng bằng xã hội khơng cịn đem lại
công bằng cho mọi ngƣời nữa. Điều này thể hiện rõ nét tính sâu sắc, khoa học trong
quan điểm về cơng bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện cơng bằng xã hội hợp lý thể hiện khá
đầy đủ trong Chương trình Việt Minh: “1. Công nhân. Ngày làm 8 giờ. Định tiền lƣơng
tối thiểu. Công việc làm nhƣ nhau nhận tiền lƣơng ngang nhau. Cứu tế thất nghiệp. Xã
hội bảo hiểm. Cấm đánh đập, chửi mắng…Cơng nhân già có lƣơng hƣu trí. 2. Nơng

dân. Nơng dân ai cũng có ruộng cày. Giảm địa tô. Cứu tế nông dân trong những nǎm
mất mùa. 3. Binh lính. Hậu đãi binh lính có cơng giữ gìn Tổ quốc và phụ cấp gia đình
binh lính đƣợc đầy đủ. 4. Học sinh. Bỏ học phí, bỏ khai sinh hạn tuổi. Mở thêm trƣờng
học. Giúp đỡ học trò nghèo. 5. Phụ nữ. Về các phƣơng diện kinh tế, chính trị, vǎn hố,
đàn bà đều đƣợc bình đẳng với đàn ông. 6. Thƣơng nhân và các nhà kinh doanh. Chính
phủ hết sức giúp các nhà có vốn tự do kinh doanh. Bộ thuế môn bài và các thứ tạp thuế
do đế quốc đặt ra. 7. Viên chức. Hậu đãi viên chức xứng đáng với công học hành của
họ. 8. Ngƣời già và kẻ tàn tật. Đƣợc chính phủ chǎm nom và cấp dƣỡng. 9. Nhi đồng.
Đƣợc chính phủ sǎn sóc đặc biệt về thể dục và trí dục” [3]. Bên cạnh đó, cịn phải:
“Lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, câu lạc bộ, thƣ viện để nâng cao trình độ trí dục
cho Nhân dân. Lập thêm nhà thƣơng, nhà đỡ đẻ, nhà dƣỡng lão” [3].
Trong Chương trình Việt Minh, Ngƣời đề cập đến từng đối tƣợng và cách thức
thực hiện công bằng xã hội phù hợp với những đối tƣợng đó. Từ các tầng lớp Nhân dân
lao động: công nhân, nông dân, thƣơng nhân,… tới các đối tƣợng chính sách: ngƣời
già, ngƣời tàn tật, trẻ em, thƣơng binh,… đều cần đƣợc quan tâm chăm nom. Theo đó,
thực hiện cơng bằng xã hội phải căn cứ vào hồn cảnh cụ thể để tiến hành cho hợp lý.
Để đảm bảo cơng bằng xã hội đang đƣợc làm đúng phải tính tới nhiều yếu tố nhƣ: sự
phát triển không đều giữa các nhóm ngƣời, các vùng, dân tộc khác nhau, các đối tƣợng
chính sách... Từ đó, xây dựng những chính sách ƣu tiên với ngƣời có cơng, đồng bào
dân tộc thiểu số, trợ giúp tầng lớp dân cƣ ở vùng khó khăn, ngƣời nghèo, ngƣời khuyết
tật... Nhƣ vậy, công bằng xã hội chỉ thực sự có đƣợc khi nó hợp lý với hoàn cảnh lịch
sử cụ thể.
239

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

Tƣ tƣởng công bằng xã hội của Hồ Chí Minh mang tính nhân văn sâu sắc. Ngƣời

quan tâm tới những chính sách xã hội cho những ngƣời yếu thế thiệt thòi ngay từ điểm
xuất phát ban đầu. Sự quan tâm này không dừng lại ở cứu trợ nhất thời hay giúp đỡ thụ
động theo lối bao cấp. Đây không phải là một giải pháp thực hiện công bằng xã hội bền
vững. Nhà nƣớc phải có những chính sách phát triển kinh tế, chăm lo ý tế, giáo dục, ổn
định đời sống cho đồng bào. Nhà nƣớc phải cử cán bộ giúp đồng bào định canh định
cƣ, bảo vệ rừng, làm phân bón, làm ruộng bậc thang, cải tiến kỹ thuật canh tác để họ có
thể dần dần tự lực cánh sinh. Ngƣời chú trọng việc bồi dƣỡng, giáo dục, cất nhắc cán
bộ địa phƣơng, cán bộ dân tộc và tin tƣởng vào sự tiến bộ của đồng bào. Nhƣ vậy,
khơng đồng nhất giữa các chính sách ƣu đãi với việc bao cấp trong chính sách xã hội,
giúp đồng bào tự lực vƣơn lên, “không nên chỉ ỷ lại vào Chính phủ” [6] chính là điểm
hợp lý trong thực hiện cơng bằng xã hội của Hồ Chí Minh. Ngƣời ln nhấn mạnh việc
“phải tính tốn một cách lâu dài, công bằng, hợp lý” [6].
Quan điểm công bằng hợp lý đƣợc Hồ Chí Minh khẳng định nhất quán. Nhất là
trong điều kiện kinh tế còn chƣa phát triển cao càng cần phải thực hiện công bằng xã
hội, không đƣợc viện lý do kinh tế khó khăn để gạt bỏ vấn đề này. Ngƣời yêu cầu tránh
việc cào bằng chia đều cái khổ cho mọi ngƣời hay tập trung hết cho phát triển kinh tế
để Nhân dân sống quá kham khổ hoặc chờ tới khi kinh tế dƣ giả mới tính tới thực hiện
cơng bằng xã hội.
Trong giai đoạn đầu quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế nƣớc ta còn nghèo
nàn, kiệt quệ do hậu quả của chế độ thực dân phong kiến. Nhƣng dù khó khăn đến đâu,
Hồ Chí Minh cũng nhất qn quan điểm: “Khơng sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân khơng n” [9]. Ở đây, khơng phải Hồ Chí Minh coi
nhẹ vai trị nhân tố kinh tế mà Ngƣời so sánh nhằm nhấn mạnh việc phát triển kinh tế
phải gắn liền với thực hiện công bằng xã hội. Cơng bằng xã hội vừa là chính sách xã
hội vừa là chính sách kinh tế. Giữa các yếu tố này có mối quan hệ biện chứng với nhau,
tƣơng trợ nhau cùng phát triển. Kinh tế là tiền đề vật chất để thực hiện công bằng xã
hội, đồng thời, sự ổn định của xã hội là nền tảng, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
Hồ Chí Minh rất sáng suốt, đánh giá đúng những khó khăn khi thực hiện công
bằng xã hội. Trong chừng mực nhu cầu của con ngƣời và khả năng hiện thực của kinh
tế xã hội cịn mâu thuẫn chƣa thể giải quyết thì khơng thể có đƣợc cơng bằng xã hội

tuyệt đối. Ta chỉ có thể địi hỏi cơng bằng xã hội ở mức độ hợp lý. Tức là những cống
hiến trí tuệ và sức lực của chúng ta cho xã hội đƣợc đền đáp tƣơng xứng. Ngƣời lƣời
lao động, cống hiến thì khơng đƣợc hƣởng thụ và không chấp nhận những kẻ trục lợi,

|240


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

buôn gian, bán lận, tham nhũng, hƣởng lợi khơng chính đáng “Ngồi mát ăn bát vàng,
tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải quét đi” [6]. Trong xã hội sẽ còn tồn tại những bất
công mà chúng ta phải tạm thời chấp nhận và khắc phục dần dần “cố nhiên phải tìm
cách làm cho cơng bằng hợp lý, nhƣng cũng khó hồn tồn” [6].
2.2. Thứ hai, chỉ có con đường cách mạng vơ sản mới thực hiện được công bằng xã hội
Đến với các quốc gia tƣ bản nổi tiếng với những giá trị về dân chủ, cơng bằng,
bình đẳng, bác ái nhƣ: Anh, Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu thực tiễn đời sống
Nhân dân ở các quốc gia này và hiểu rõ thực chất của nền dân chủ tƣ sản. Bản chất bóc
lột, bất cơng ẩn sau tun ngơn dân chủ, công bằng của nền dân chủ tƣ sản đã đƣợc Hồ
Chí Minh nhìn nhận, đánh giá bằng chính những trải nghiệm thực tiễn của bản thân.
Ngƣời nói: “Khi sang các nƣớc Châu Âu, tơi thấy ở đó cũng có một số ngƣời rất giàu
“ngồi mát ăn bát vàng”, và lớp ngƣời Nhân dân lao động rất nghèo khổ” [8]. Khi đến
Mỹ, Ngƣời cũng nhận thấy tình cảnh tƣơng tự: “Ở Mỹ có một số ngƣời rất giàu có, họ
sống cực kỳ xa hoa,.… và có rất đơng ngƣời lao động rất cực khổ” [8]. Hồ Chí Minh đã
nhận thấy bản chất bóc lột, bất cơng của nhà nƣớc tƣ sản, tự nhận là cộng hòa và dân
chủ, kỳ thực trong thì nó tƣớc lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Ngƣời
đánh giá tất cả những tƣ tƣởng tự do, bình đẳng, bác ái mà chúng giƣơng cao đều là giả
dối để che đậy bản chất ngƣợc lại của chúng mà thôi. Theo Ngƣời, chúng dùng chữ tự
do, bình đẳng, đồng bào để lừa dân, xúi dân đánh đổ phong kiến, khi dân đánh đổ
phong kiến rồi, thì nó lại thay phong kiến mà áp bức dân. Sự kiện gửi Bản yêu sách tới
Hội nghị Versailles đòi quyền dân chủ, công bằng cho Nhân dân Việt Nam bị chính

những kẻ nhân danh chính nghĩa từ chối thì Hồ Chí Minh càng khơng thể tin tƣởng vào
lý tƣởng cơng bằng xã hội của nền dân chủ tƣ sản.
Khi tiếp xúc với Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn
đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận định đây là cái cần thiết cho đất nƣớc, là
con đƣờng giải phóng cho dân tộc ta. Từ đó, Ngƣời nhất quán lựa chọn con đƣờng cách
mạng vô sản. Con đƣờng này sẽ đƣa Nhân dân ta tới xây dựng một xã hội mới, ở đó
vấn đề cơng bằng xã hội ln đƣợc quan tâm thực hiện. Phát biểu tại Đại hội thứ nhất
Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc tình hữu ái thực sự và quyền bình
đẳng chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản, trong chủ nghĩa cộng sản ta mới có thể thực hiện
đƣợc sự hịa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở thuộc địa.
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu những tƣ tƣởng công bằng xã hội ở các quốc gia
mà Ngƣời tìm đến trong hành trình cứu nƣớc mà cịn đấu tranh cho tự do, cho công
241

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

bằng một cách mạnh mẽ. Ngƣời đứng trong hàng ngũ đấu tranh của công nhân các
nƣớc tƣ sản đòi tăng lƣơng, giảm giờ làm, tham gia hội họp, làm báo, tham gia vào các
tổ chức chính trị xã hội. Tất cả những hoạt động thực tiễn đấu tranh địi quyền cơng
bằng này cũng tác động khơng nhỏ tới sự hình thành tƣ tƣởng cơng bằng xã hội của Hồ
Chí Minh.
Khi đến nƣớc Nga và trực tiếp tìm hiểu thực tế xây dựng xã hội mới ở Nga, Hồ
Chí Minh đã thấy những khát vọng về một xã hội tốt đẹp, công bằng cho Nhân dân
đang đƣợc thực hiện. Nhà nƣớc Xô Viết là nhà nƣớc của Nhân dân lao động; cơng bằng
xã hội đƣợc thực hiện tồn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Hồ Chí Minh chỉ ra: “Nhƣ ở Nga bây giờ, công cụ sinh sản là của chung, khơng ai
bóc lột ai, của cải làm ra theo nguyên tắc “ai không làm không ăn” mà chia cho ngƣời

làm” [5]. Y tế, giáo dục, các chính sách xã hội cho Nhân dân đƣợc Nhà nƣớc quan tâm.
Ngƣời dân đƣợc miễn học phí, Nhân dân ai ốm thì đƣợc chữa trị, không mất tiền thầy
tiền thuốc, giờ giấc lao động, chế độ nghỉ dƣỡng, ngƣời già, trẻ nhỏ đều đƣợc xắp xếp
hợp lý, cơng bằng. Hồ Chí Minh xác định đây là một mẫu hình Nhà nƣớc đảm bảo
cơng bằng xã hội cho Nhân dân. Từ đó, Ngƣời xác định độc lập dân tộc phải gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội mới coi công bằng xã hội là một mục tiêu cần
thực hiện. Chỉ có đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cơng bằng xã hội mới đƣợc đảm
bảo. Ngƣời nói: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi ngƣời
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi ngƣời và vì mọi ngƣời, niềm vui, hịa bình và hạnh phúc” [2].
Trong chủ nghĩa xã hội: “Nhà máy, xe lửa, ngân hàng,… làm của chung” [8]. Nhƣ vậy,
mơ hình Nhà nƣớc mới đƣợc các nhà kinh điển vạch ra và đƣợc Hồ Chí Minh đón nhận
vì nó đáp ứng đƣợc khát vọng giải phóng triệt để cho dân tộc của Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh nhấn mạnh cơng bằng xã hội là một đặc trƣng quan trọng của chủ nghĩa xã hội và
chỉ có trong chủ nghĩa xã hội, Nhân dân lao động mới đƣợc hƣởng ngày càng nhiều
hơn, đầy đủ hơn công bằng xã hội.
2.3. Thứ ba, nguyên tắc phân phối theo lao động được coi là công bằng trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản
Từ việc đánh giá chế độ sở hữu tƣ nhân trong chủ nghĩa tƣ bản là ngun nhân
khách quan của tình trạng bất cơng xã hội, các nhà kinh điển thấy đƣợc nguyên tắc
phân phối dựa trên lƣợng tài sản, vốn sở hữu là bất hợp lý. Hệ quả của nó là các nhà tƣ
sản ngày càng giàu thêm trên sự nghèo đói của ngƣời lao động. Chủ nghĩa Mác - Lênin

|242


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

khẳng định: nguyên tắc phân phối theo lao động đƣợc coi là công bằng trong giai đoạn
đầu của chủ nghĩa cộng sản.

Tuy nhiên, nguyên tắc phân phối này không mang lại công bằng tuyệt đối mà vẫn
cịn hàm chứa tình trạng bất bình đẳng vì những ngƣời lao động khơng phải ai cũng
nhƣ ai, ngƣời này khác ngƣời kia về thể chất và tinh thần, trình độ lao động, hồn cảnh
gia đình... Vì vậy: “Với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự nhƣ
nhau vào quỹ tiêu dùng xã hội, thì trên thực tế, ngƣời này vẫn lĩnh nhiều hơn ngƣời kia,
ngƣời này vẫn giàu hơn ngƣời kia” [1].
Theo nguyên tắc này thì mỗi ngƣời sản xuất sẽ đƣợc nhận trở lại từ xã hội một số
lƣợng sản phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lƣợng lao động mà họ cung cấp cho xã
hội, sau khi những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất, cũng nhƣ duy trì
đời sống cộng đồng đã đƣợc khấu trừ. Khi bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa cộng sản, Hồ
Chí Minh khẳng định đây là nguyên tắc phân phối công bằng cần đƣợc áp dụng triệt để.
Theo các nhà kinh điển, thực chất công bằng xã hội là mối quan hệ lợi ích của con
ngƣời. Trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thì lợi ích kinh tế là căn
bản nhất. Vì vậy, thực hiện cơng bằng xã hội trên lĩnh vực kinh tế có ý nghĩa quyết
định tới vấn đề này ở các lĩnh vực khác.
Nguyên tắc phân phối lợi ích đƣợc Hồ Chí Minh chỉ ra nhƣ sau: “Lao động nhiều
hƣởng nhiều, lao động ít hƣởng ít, khơng lao động thì khơng hƣởng” [6]. Có thể thấy
đây là ngun tắc phân phối cơng bằng trong điều kiện nƣớc ta hiện nay. Điều này thể
hiện địa vị làm chủ nƣớc nhà, làm chủ tƣ liệu sản xuất của ngƣời lao động. Mọi ngƣời
đƣợc hƣởng quyền lợi ngang nhau ở những công hiến ngang nhau. Ngƣợc với điều này là
vô lý, không công bằng: “Lao động ít mà muốn thu nhập nhiều thì rất vơ lý” [7]. Hƣởng
thụ không tƣơng xứng với cống hiến, không cống hiến gì mà địi hƣởng thụ là đi ngƣợc với
ngun tắc phân phối lợi ích cơng bằng của Hồ Chí Minh. Áp dụng nguyên tắc đúng đắn
này trong nền kinh tế sẽ giúp việc thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực kinh tế đạt
hiệu quả cao nhất.
Không dừng lại ở nguyên tắc phân phối lợi ích, Hồ Chí Minh cịn u cầu việc
phân phối phúc lợi xã hội cũng cần phải đảm bảo công bằng. Làm thế nào để mọi
ngƣời dân đều đƣợc Nhà nƣớc chăm lo, cải thiện đời sống: “Phải phân phối cho công
bằng hợp lý, từng bƣớc cải thiện việc ăn, mặc, ở, học, phục vụ sức khỏe và giải trí của
Nhân dân” [9]. Những yêu cầu thiết yếu của Nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần đều

cần có sự quan tâm của Nhà nƣớc thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Điều này làm nổi
bật tính nhân văn, triệt để trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cơng bằng xã hội. Nhóm
243

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

những ngƣời thiệt thịi, yếu thế, khơng có khả năng lao động càng cần tới sự giúp đỡ
đùm bọc của toàn xã hội: “Ngƣời tàn tật, già yếu, cháu bé không phải không lao động
đƣợc mà không đƣợc ăn. Nhà nƣớc, xã hội giúp đỡ họ” [6]. Nhƣ vậy phân phối lợi ích
và phân phối phúc lợi xã hội phải đi liền với nhau. Thiếu một phần là đã hiểu không
đúng bản chất nguyên tắc trong thực hiện cơng bằng xã hội của Hồ Chí Minh.
Theo Mác, xã hội mới sẽ cịn tồn tại những bất cơng khi nó mới lọt lịng từ xã hội
tƣ bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài. Ông khẳng định: “Nhƣng đó là những
thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc
nó vừa mới lọt lịng từ xã hội tƣ bản chủ nghĩa ra sau những cơn đau đẻ kéo dài. Quyền
khơng bao giờ có thể ở một mức độ cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của
xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định” [1]. Mác cho rằng không thể ngay lập tức có
đƣợc cơng bằng xã hội tuyệt đối do xã hội mới vừa thoát thai khỏi xã hội tƣ sản cịn rất
nhiều khó khăn tồn tại. Khi nền tảng kinh tế khơng cho phép thì xã hội buộc phải chấp
nhận những bất công nhất định. Khi xã hội bƣớc vào giai đoạn phát triển cao hơn, lao
động không đơn thuần là phƣơng tiện sinh sống mà là nhu cầu hoạt động và phát triển,
ngƣời lao động có thể làm theo năng lực, hƣởng theo nhu cầu.
Tiếp nối quan điểm này Hồ Chí Minh cũng khẳng định những bất cơng sẽ vẫn
còn tồn tại trong giai đoạn chúng ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thậm chí khắc phục
bất cơng này sẽ có thể làm nảy sinh bất cơng khác. Có những bất cơng chúng ta phải
tập trung giải quyết ngay nhƣng vẫn phải chấp nhận có những điều chƣa cơng bằng cịn
tồn tại.

2.4. Thứ tư, tách biệt hai phạm trù cơng bằng xã hội và bình đẳng xã hội
Theo Ph. Ăngghen, cơng bằng và bình đẳng là hai phạm trù tách biệt với nhau.
Ông đánh giá nếu cho rằng luận điểm (bình đẳng = cơng bằng) là một nguyên tắc tối
cao và là một chân lý cuối cùng thì thật là ngu xuẩn. Bình đẳng chỉ tồn tại trong khn
khổ đối lập với bất bình đẳng, cơng bằng chỉ tồn tại trong khuôn khổ đối lập với không
công bằng. Kế thừa quan điểm này, Hồ Chí Minh khẳng định không thể đồng nhất hai
phạm trù công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Trong điều kiện kinh tế xã hội chƣa thể
tƣơng xứng với các nhu cầu của con ngƣời thì chỉ có thể từng bƣớc thực hiện công
bằng xã hội hƣớng tới sự nhƣ nhau trong hƣởng thụ của những ngƣời có cùng cống
hiến chứ chƣa thể làm cho mọi ngƣời đều ngang nhau ở các phƣơng diện. Nếu nhận
thức sai lầm về vấn đề này sẽ dẫn tới những hành động sai lầm. Ngƣời viết: “Cái gì
cũng muốn "bình đẳng". Ví dụ: Cấp trên vì công việc phải cƣỡi ngựa, đi xe. Cấp dƣới

|244


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

cũng muốn cƣỡi ngựa, đi xe. Ngƣời phụ trách nhiều việc, cần có nhà rộng. Ngƣời
khơng phụ trách nhiều việc, cũng địi nhà rộng. Phụ cấp cho thƣơng binh cũng muốn
nhất luật, không kể thƣơng nặng hay nhẹ. Làm việc gì, thì muốn già, trẻ, mạnh, yếu đều
làm bằng nhau. Có việc, một ngƣời làm cũng đƣợc, nhƣng cũng chờ có đủ mọi ngƣời
mới chịu làm. Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng. Khơng hiểu rằng: ngƣời
khỏe gánh nặng, ngƣời yếu gánh nhẹ. Ngƣời làm việc nặng phải ăn nhiều, ngƣời làm
việc dễ thì ăn ít” [4].
Ngƣời lấy ví dụ cụ thể: “nếu một chiến sĩ bị thƣơng đƣợc đi xe, ăn ngon, các
chiến sĩ khác đều đòi đi xe, địi ăn ngon. Hoặc vì bình đẳng mà bắt buộc một trẻ em
cũng ăn nhiều, cũng gánh nặng, nhƣ một ngƣời lớn. Nếu nhƣ thế là bình đẳng, thì bình
đẳng đó rất vơ lý, rất xấu, chúng ta phải kiên quyết chống lại thứ bình đẳng đó” (4).
Nhƣ vậy, để mỗi ngƣời đều có thể hƣởng theo nhu cầu, nguyện vọng của mình là chƣa

thể có ngay đƣợc trong điều kiện kinh tế cịn khó khăn. Do đó, địi hỏi bình đẳng ai
cũng nhƣ ai là khơng phù hợp với hiện thực khách quan. Ta chỉ có thể từng bƣớc đảm
bảo cơng bằng xã hội để tiến dần lên bình đẳng xã hội hồn tồn.
Chính sai lầm trong việc đồng nhất giữa cơng bằng xã hội với bình đẳng xã hội đã
dẫn tới nguyên tắc phân phối bình quân, chia đều cho tất cả mọi ngƣời. Hậu quả là triệt
tiêu động lực của sự phát triển kinh tế và trên thực tế lại trở thành bất cơng. Theo Hồ
Chí Minh, bình đẳng khơng phải là bình qn mà xác định trên cơ sở công bằng: ai làm
nhiều hƣởng nhiều, làm ít hƣởng ít, không làm không hƣởng. Không dừng lại ở đó, tiếp
thu lý luận của Mác trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gơ ta, Hồ Chí Minh nhận thức
đƣợc sự bất bình đẳng của nguyên tắc: làm nhiều hƣởng nhiều, làm ít hƣởng ít. C. Mác
lý giải: với một cơng việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự nhƣ nhau vào
quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế ngƣời nãy vẫn lĩnh nhiều hơn ngƣời kia, ngƣời
này vẫn giàu hơn ngƣời kia là vì bất cứ ngƣời nào cũng chỉ là một ngƣời lao động nhƣ
những ngƣời khác nhƣng nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không ngang nhau về năng
khiếu cá nhân, do đó về năng lực lao động của những ngƣời lao động. Đó là những
thiếu sót khơng thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội chủ nghĩa cộng sản. Do
đó, Hồ Chí Minh đã bổ sung thêm cho nguyên tắc này để đảm bảo công bằng xã hội
đƣợc thực hiện. Chấp nhận việc chƣa thể đạt đƣợc công bằng xã hội và bình đẳng xã
hội tuyệt đối nhƣng vẫn thực hiện công bằng xã hội trong từng bƣớc phát triển. Ngƣời
vạch rõ: “Phân phối phải theo mức lao động, lao động nhiều thì đƣợc phân phối nhiều,
lao động ít thì đƣợc phân phối ít. Lao động khó thì đƣợc phân phối nhiều, lao động dễ
245

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

thì đƣợc phân phối ít. Khơng nên có tình trạng ngƣời giỏi, ngƣời kém, việc khó, việc dễ
cũng cơng điểm nhƣ nhau” [7].

Có thể thấy rằng, trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, phạm trù cơng bằng xã hội và
bình đẳng xã hội đều là mục tiêu phấn đấu của nhân loại nói chung và Nhân dân ta nói
riêng. Hai phạm trù này gắn kết chặt chẽ với nhau, có những khía cạnh tƣơng đồng với
nhau nhƣng khơng trùng khít với nhau. Phải triệt để tránh việc đồng nhất hai phạm trù
này trong nhận thức và hành động thực tiễn.
III. KẾT LUẬN
Nhƣ vậy, quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về cơng bằng xã hội mang tính
khoa học, cách mạng và tồn diện. Các ơng khẳng định cơng bằng xã hội nằm trong
chính cơ sở kinh tế xã hội hiện thực; vạch ra nguyên tắc phân phối công bằng là nền
tảng để thực hiện công bằng xã hội; nhấn mạnh vai trị quan trọng của cơng bằng xã hội
đối với sự phát triển xã hội. Kế thừa và phát triển sáng tạo những quan điểm công bằng
xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nâng tƣ tƣởng cơng bằng xã hội của Hồ Chí Minh
lên một tầm cao mới: khoa học và cách mạng. Đánh giá một cách tổng qt, tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về cơng bằng xã hội rất sâu sắc và độc đáo, vừa khái quát vừa cụ thể các
khía cạnh, các vấn đề rất căn bản của con ngƣời và của xã hội. Cơng bằng xã hội theo
Hồ Chí Minh là phạm trù thuộc bản chất con ngƣời - xã hội, ở đó thể hiện khát vọng,
nhu cầu tự nhiên của con ngƣời, đồng thời là quyền chính đáng, thiêng liêng của con
ngƣời. Bởi công bằng xã hội theo ngƣời là quan hệ ngang nhau về quyền và nghĩa vụ,
cống hiến và hƣởng thụ,... giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội. Sự ngang nhau này phải
theo nguyên tắc hợp lý, phù hợp với tình hình, điều kiện của xã hội ở thời điểm hiện
tại; trên tất cả các lĩnh vực hoạt động sống của con ngƣời (kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội). Công bằng xã hội đƣợc tập trung thực hiện trong q trình phân phối lợi ích,
phúc lợi và trong các cơ hội phát triển. Theo Hồ Chí Minh, cơng bằng xã hội chỉ trở
thành hiện thực trong xã hội bảo đảm cho nó các điều kiện hiện thực - đó là chủ nghĩa
xã hội. Rõ ràng quan niệm và nội hàm về công bằng xã hội trong tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh vƣợt xa các quan niệm về cơng bằng xã hội trƣớc đó khơng chỉ về bản chất mà cả
độ sâu sắc và toàn diện, nhất là về điều kiện thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr.35-36.


|246


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

2. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.496.
3. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.630-631.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.300.
5. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.535.
6. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.404,
tr.438, tr.525, tr.607.
7. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.216,
tr.443.
8. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.390,
tr.699-700.
9. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.224,
tr.596.

247

|



×