Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội vào điều kiện thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.2 KB, 9 trang )

“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

HỒ CHÍ MINH VẬN DỤNG SÁNG TẠO QUAN ĐIỂM CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀO ĐIỀU KIỆN THỰC TIỄN VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thị Nga
Trường Đại học Nguyễn Huệ - Bộ Quốc phịng
Tóm tắt
Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là một bộ phận
quan trọng trong hệ tư tưởng của Hồ Chí Minh, được hình thành và phát triển
cùng với tồn bộ q trình hoạt động lý luận và thực tiễn của Người. Đây là vấn
đề cốt lõi, cũng là sự kết tinh, tỏa sáng nhằm hiện thực hóa ước mơ hàng ngàn
năm của dân tộc Việt Nam đã được nâng lên tầm cao mới: Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Nó thể hiện sự vận dụng trung thành sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin phù hợp với thực tiễn Việt Nam và trở thành mục tiêu xuyên suốt chỉ đạo
tồn bộ tiến trình cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bài
viết tập trung làm rõ vấn đề trên.
Từ khóa: Chủ nghĩa xã hội, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng.

I. MỞ ĐẦU
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta đƣợc hình
thành từ rất sớm. Chứng kiến thất bại của các vị yêu nƣớc tiền bối trong nỗ lực tìm
đƣờng cứu nƣớc và cảnh nhân dân sống khổ cực, lầm than những năm cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, ngƣời thanh niên ƣu tú Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đƣờng
cứu nƣớc. Sau bao năm xơng pha, hịa mình vào cuộc sống lao động và đấu tranh của
nhân dân nhiều nƣớc, hoạt động sôi nổi trong phong trào công nhân quốc tế, Ngƣời đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đƣờng cứu nƣớc đúng đắn, đó là con đƣờng
cách mạng vô sản. Theo Ngƣời, trong thời đại ngày nay “muốn cứu nƣớc và giải phóng
dân tộc, khơng có con đƣờng nào khác con đƣờng cách mạng vô sản”1. Và “… chỉ có chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng đƣợc các dân tộc bị áp bức và những
ngƣời lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”2. Những khẳng định và kết luận này của Hồ


1
2

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.563.
277

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

Chí Minh đƣợc rút ra từ logic phát triển của cuộc hành trình tƣ tƣởng và hoạt động thực
tiễn của Ngƣời, với sự dẫn đƣờng của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự tác động tích cực của
thời đại mới đƣợc bắt đầu từ thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời Nga cùng với những
ảnh hƣởng sâu sắc mà Ngƣời tiếp nhận đƣợc từ truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại. Lựa chọn con đƣờng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển của Việt Nam, Ngƣời
đã mở đƣờng cho sự phát triển mới của nƣớc ta, đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo
cách mạng vô sản; đã chấm dứt cuộc khủng hoảng hệ tƣ tƣởng, sự bế tắc về đƣờng lối
của các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nƣớc ta đầu thế kỷ XX.
II. NỘI DUNG
2.1. Khẳng định chủ nghĩa xã hội - con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam - sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa
xã hội vào điều kiện thực tiễn nước ta của Hồ Chí Minh
Ngay từ năm 1921, sau khi chỉ ra những hình thức bóc lột, đàn áp dã man, tàn bạo
của bọn thực dân đối với ngƣời bản xứ, khẳng định tinh thần cách mạng mãnh liệt của
nhân dân các nƣớc Đông Dƣơng, Hồ Chí Minh đã đi đến kết luận: “Sự tàn bạo của chủ
nghĩa tƣ bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt
giống của cơng cuộc giải phóng mà thôi”3.
Theo Ngƣời, chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu không chỉ đối với các nƣớc

đã qua chủ nghĩa tƣ bản mà cả đối với Việt Nam, một nƣớc nông nghiệp lạc hậu.
Khẳng định này dựa trên cơ sở khoa học từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn
đề dân tộc và thuộc địa; về khả năng và triển vọng của các dân tộc phƣơng Đông.
Trong những điều kiện lịch sử mới, Lênin đã phát triển tƣ tƣởng cách mạng không
ngừng của Mác - Ăngghen để luận chứng một cách toàn diện khả năng đi tới chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tƣ chủ nghĩa của các dân tộc thuộc địa có nền kinh tế lạc hậu, kém
phát triển. Từ những luận điểm cơ bản đó, Ngƣời đã nhận thức một cách sâu sắc rằng,
trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tƣ bản tới chủ nghĩa xã hội, mục tiêu độc lập dân tộc
chỉ có thể thực hiện đƣợc một cách triệt để khi cách mạng dân tộc dân chủ gắn liền với
cách mạng xã hội chủ nghĩa do đảng của giai cấp công nhân, theo chủ nghĩa Mác Lênin lãnh đạo, đƣa đất nƣớc tiến tới chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển
tƣ bản chủ nghĩa. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới là con đƣờng bảo đảm thực sự và vững
chắc cho độc lập dân tộc, mở ra triển vọng phát triển tốt đẹp cho xã hội Việt Nam phù
3

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.40.

|278


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

hợp với xu thế chung của lịch sử thế giới hiện đại. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội không
qua chế độ tƣ bản chủ nghĩa nhƣ Việt Nam, đòi hỏi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính
chung - phổ biến với tính riêng - đặc thù của các nguyên lý, các quy luật cách mạng,
vận dụng và phát triển nó một cách sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam. Do đó, đối với
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta, vấn đề không dừng lại ở nhận
thức lý tƣởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà điều quan trọng và có ý nghĩa thiết
thực hơn là xác định để có những bƣớc đi, tìm tịi sáng tạo những biện pháp, cách làm
phù hợp với Việt Nam để cho bản chất ƣu việt của chủ nghĩa xã hội đƣợc thể hiện trong
cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đem lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi ngƣời lao

động. Chỉ nhƣ vậy, chủ nghĩa xã hội mới thực sự trở thành sự nghiệp của nhân dân lao
động, do chính bản thân họ thực hiện, vì hạnh phúc của chính họ. Nguồn động lực căn
bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội là ở chỗ đó.
Đánh giá vị trí lịch sử và khả năng xã hội của các cuộc cách mạng dân chủ tƣ sản,
đặc biệt là cách mạng Pháp 1789 và cách mạng Mỹ 1776, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra
rằng, các cuộc cách mạng đó đều là cách mạng tƣ sản và là những cuộc cách mạng
không triệt để. Ngƣời chỉ rõ: “Cách mệnh Pháp cũng nhƣ cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tƣ bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hịa và dân chủ, kỳ thực trong thì
nó tƣớc lục cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi mà nay
công nông Pháp vẫn cịn phải mƣu cách mệnh lần nữa mới hịng thốt khỏi vòng áp
bức”4.
Khác hẳn với cách mạng Pháp và Mỹ, Ngƣời đánh giá cao Cách mạng tháng
Mƣời Nga (1917) là cuộc cách mạng triệt để, nằm trong dòng chảy liên tục của q
trình giải phóng con ngƣời. Xét về bản chất, nó là cuộc cách mạng nổi trội, vƣợt xa và
khác hẳn về chất so với các cuộc cách mạng đã từng xảy ra trong lịch sử trƣớc đó.
Ngƣời viết: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành
công đến nơi, nghĩa là dân chúng đƣợc hƣởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật,
khơng phải tự do, bình đẳng giả dối nhƣ đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi đƣợc vua, tƣ bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông
các nƣớc và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ
nghĩa và tƣ bản trong thế giới”5. Từ sự so sánh này đã dẫn Hồ Chí Minh đến nhận thức
đúng đắn cho việc lựa chọn con đƣờng phát triển của cách mạng Việt Nam là khơng cịn
con đƣờng nào khác con đƣờng Cách mạng tháng Mƣời. Vì thế, ngay từ năm 1930,
4
5

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 296.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.304.
279


|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

phong trào cách mạng đã phát triển mạnh mẽ qua các thời kỳ khác nhau và trở thành một
phong trào hiện thực xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, giành độc lập dân tộc, tiến lên
chủ nghĩa xã hội, không chấp nhận chế độ tƣ bản chủ nghĩa. Đây là sự lựa chọn chính trị
tự nguyện của tuyệt đại bộ phận nhân dân và các dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại.
Với những thành quả lịch sử nhƣ Cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã nêu lên một
nguyên lý mới của thời đại. Đó là chủ nghĩa tƣ bản có thể bị đánh bại tại vùng ngoại vi,
trƣớc khi nó bị đánh bại tại quê hƣơng của nó. Sau những trận thử sức này, nhân dân Việt
Nam, hơn ai hết hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa tƣ bản, nên khơng thể khơng tìm kiếm
con đƣờng phát triển đất nƣớc bỏ qua chế độ đó.
Dƣới ánh sáng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, sau năm 1954, miền Bắc đã hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ. Ngƣời đã cùng Đảng ta chủ trƣơng đƣa miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa trở thành hậu phƣơng vững
chắc, thành một chế độ chính trị ƣu việt, bảo đảm cho nhân dân ta đánh thắng đế quốc
Mỹ - một đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trong thế giới tƣ bản chủ nghĩa.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nƣớc tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong
khoảng 10 năm (1975 - 1986), tình hình kinh tế - xã hội của nƣớc ta gặp khơng ít khó
khăn. Cộng thêm với sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nƣớc Đông
Âu. Có nhiều ngƣời lung lạc và phai nhạt niềm tin về chủ nghĩa xã hội, đòi xem xét lại
con đƣờng chúng ta đang đi. Có ngƣời muốn dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, có ý
kiến lại muốn đƣa nƣớc ta đi theo con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa… Tất cả những khuynh
hƣớng sai trái đó, đều đi ngƣợc lại với tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đã đƣợc Đảng ta phê
phán uốn nắn, chỉ rõ: Đi lên chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của Bác Hồ,
của Đảng ta và nhân dân ta.

2.2. Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo quan điểm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội của chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam
Các nhà sáng lập ra học thuyết Mác - Lênin, trong khi nhấn mạnh tính khách quan
của sự vận động lịch sử từ chủ nghĩa tƣ bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản
đã đề cập tính tất yếu của thời kỳ quá độ. Điều này đã đƣợc Mác chỉ ra trong tác phẩm
Phê phán cương lĩnh Gôta. Mác viết: “Giữa xã hội tƣ bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với
thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nƣớc của thời kỳ ấy không thể là cái gì

|280


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

khác hơn nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vơ sản”6. Thực chất là Mác nói con
đƣờng quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nƣớc tƣ bản phát triển cao, cơ sở vật chất và kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội đã đƣợc chủ nghĩa tƣ bản chuẩn bị tƣơng đối đầy đủ.
Kế thừa tƣ tƣởng của Mác, trong tác phẩm Chủ nghĩa Mác về vấn đề Nhà nước,
Lênin đã khái quát tƣ tƣởng của Mác và nêu ra luận điểm “những cơn đau đẻ kéo dài” tức thời kỳ quá độ. Sau này, trong các tác phẩm khác, Lênin tiếp tục bảo vệ và phát
triển tƣ tƣởng của Mác - Ăngghen, phân tích và luận chứng ngày càng sâu sắc về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là với thắng lợi của Cách mạng tháng Mƣời
Nga đã làm cho lý luận về thời kỳ quá độ có sự phát triển mới. Cái mới đó đƣợc thể
hiện ở chỗ cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra trƣớc tiên ở nƣớc Nga, một nƣớc tƣ bản
trung bình, với xuất phát điểm thấp hơn các nƣớc tƣ bản Tây Âu về kinh tế và văn hoá.
Đặc biệt là giai cấp cơng nhân Nga chiếm tỷ lệ cịn thấp trong dân cƣ và nƣớc Nga cách
mạng còn đang phải vận động trong một biển những ngƣời tiểu nơng. Vì vậy, theo
Lênin, nƣớc Nga bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử
tƣơng đối dài, nó cần phải thực hiện những bƣớc qua độ nhỏ, những nhịp cầu, những
hình thức kinh tế trung gian để dần dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông,
đi lên chủ nghĩa xã hội. Lênin viết: “Nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng

ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào một thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ”7.
Vận dụng lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ đặc điểm của tình hình thực tiễn Việt
Nam, một nƣớc vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ
yếu nên đã khẳng định con đƣờng cách mạng Việt Nam là: Tiến hành giải phóng dân tộc,
hồn thành dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội (quá độ lên chủ nghĩa xã hội), chứ
không thể làm ngay cuộc cách mạng vơ sản, thiết lập chun chính vơ sản và bƣớc ngay
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhƣ ở các nƣớc tƣ bản phát triển.
Nếu nhƣ Mác - Ăngghen chủ yếu đề cập phƣơng thức quá độ trực tiếp từ chủ nghĩa
tƣ bản đã phát triển cao lên chủ nghĩa xã hội. Đến Lênin đề cập cả hai loại hình q độ,
nhƣng ở loại hình sau, ơng cũng chỉ mới nêu lên ở dạng khái quát, mang tính định hƣớng
lý luận chung; cịn Hồ Chí Minh đã căn cứ vào thực tiễn cụ thể của Việt Nam để xây
dựng quan niệm và lý giải những vấn đề của phƣơng thức quá độ gián tiếp ở một nƣớc
chậm phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội và những tìm tịi lý luận của Ngƣời gắn liền với
6
7

C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.47.
V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.266.
281

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

loại hình quá độ này ở Việt Nam. Đây có thể đƣợc coi là một đóng góp đặc sắc của Hồ
Chí Minh về lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã diễn ra theo đúng tƣ tƣởng đó. Ngay từ năm
1930, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn dân ta đã tiến hành cuộc

cách mạng giải phóng dân tộc. Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, trải qua
cuộc kháng chiến chống đế quốc lâu dài vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân, chúng ta đã giành đƣợc độc lập cho dân tộc, ruộng đất cho dân
cày, chế độ dân chủ nhân dân về cơ bản đƣợc xây dựng. Sau khi hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng Việt Nam tất yếu bƣớc vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1954, và trong cả nƣớc từ năm 1975. Nhƣ vậy,
nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở cơ bản đã hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ, chế độ dân chủ nhân dân đã đƣợc xây dựng và phát triển.
Về nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Ngƣời chỉ rõ: “Đặc điểm to nhất của ta
trong thời kỳ quá độ là từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tƣ bản chủ nghĩa… Vì vậy, nhiệm vụ quan
trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội, đƣa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện
đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”8. Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ
chủ nghĩa xã hội.
Về biện pháp thực hiện theo Hồ Chí Minh, cách mạng địi hỏi phải có một chuyển
biến sâu sắc về tƣ tƣởng và nhận thức, có những chính sách, những biện pháp và cơng
tác tổ chức phù hợp với tình hình mới. Trƣớc hết, phải giữ vững và tăng cƣờng vai trò
lãnh đạo của Đảng. Xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến của Đảng, làm
cho Đảng phải thực sự chuyển biến về chức năng và tổ chức phù hợp với nhiệm vụ
lãnh đạo của giai đoạn mới; bên cạnh đó, phải tăng cƣờng vai trò quản lý của Nhà
nƣớc. Theo Ngƣời, tất cả các cơ quan nhà nƣớc phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ
với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Phải xây dựng bộ
máy nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, trở thành nhà nƣớc của dân, do dân, vì dân, đủ
năng lực uy tín quản lý đất nƣớc trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Nhà nƣớc phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của tồn dân, nhằm phát
8


Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.411-412.

|282


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)

huy tính tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi ngƣời công dân Việt Nam
thực sự tham gia quản lý công việc nhà nƣớc. Đồng thời, tiếp tục củng cố và mở rộng
Mặt trận Dân tộc thống nhất theo tinh thần: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến
đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào
lực lƣợng vĩ đại của toàn dân”9. Toàn dân ở đây cần hiểu là bao gồm tất cả các giai cấp,
tầng lớp, tôn giáo, dân tộc, không trừ một ai, một lực lƣợng nào, ngoại trừ bọn phản
động chống lại chủ nghĩa xã hội, đi ngƣợc lại đƣờng lối xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng ta… Và phải quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức, đủ tài,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực xây dựng kinh tế, Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải tăng gia sản xuất và
thực hành tiết kiệm. Ngƣời viết: Muốn có chủ nghĩa xã hội thì khơng có cách nào khác
là phải dốc lực lƣợng của mọi ngƣời ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của
chúng ta hiện nay. “Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống”10.
Ngƣời chủ trƣơng phát triển cả nông nghiệp và công nghiệp, lấy nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu. Cụ thể, đối với các thành phần kinh tế, Ngƣời chủ trƣơng phải phát triển
thành phần kinh tế quốc doanh để tạo nền tảng vật chất cho chủ nghĩa xã hội và thúc
đẩy việc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động, Nhà nƣớc đặc biệt khuyến khích, hƣớng dẫn và giúp đỡ cho nó phát
triển. Đối với ngƣời làm nghề thủ công và lao động khác, Nhà nƣớc phải bảo hộ quyền
sở hữu, phải hƣớng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ đi vào con
đƣờng làm ăn hợp tác xã. Còn những nhà tƣ sản cơng thƣơng, vì họ tham gia ủng hộ
cách mạng dân tộc dân chủ, đã có đóng góp nhất định trong khôi phục, phát triển kinh
tế và sẵn sàng tiếp thu cải tạo để góp phần xây dựng nhà nƣớc, xây dựng chủ nghĩa xã

hội… Cho nên, Nhà nƣớc khơng xóa bỏ quyền sở hữu về tƣ liệu sản xuất và tài sản
khác của họ, mà ra sức hƣớng dẫn, giúp đỡ họ hoạt động làm lợi cho quốc kế dân sinh,
phù hợp với kế hoạch kinh tế nhà nƣớc; khuyến khích, động viên họ cải tạo theo chủ
nghĩa xã hội bằng hình thức cơng tƣ hợp doanh và những hình thức cải tạo khác.
Nhƣ vậy, về mặt kinh tế, Hồ Chí Minh đã chú ý phát triển kinh tế nhiều thành
phần, với các hình thức khác nhau, với những chủ trƣơng, chính sách cụ thể cho từng
thành phần kinh tế, nhằm tạo ra động lực kinh tế mạnh mẽ trong xây dựng chủ nghĩa xã
9

Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.617.
Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.70.

10

283

|


Phần II. Hồ Chí Minh tiếp thu, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam

hội. Bên cạnh đó, Ngƣời cịn nhấn mạnh vai trị của văn hóa, giáo dục và khoa học kỹ
thuật trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Ngƣời, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thì nhất định phải có học thức, cho nên cần phải học cả văn hố, chính trị, kỹ thuật.
Ngƣời nói: Chủ nghĩa xã hội cộng với khoa học, chắc chắn đƣa loài ngƣời đến hạnh
phúc vô tận. Ngƣời coi trọng nâng cao dân trí, đào tạo và sử dụng nhân tài. Ngƣời đề ra
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, giữ vững và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại.
Về bƣớc đi và phƣơng thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,
Hồ Chí Minh nhắc nhở phải học tập kinh nghiệm dồi dào của các nƣớc anh em, nhƣng

không thể áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, phải tiến hành từng bƣớc
vững chắc từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội.
Từ những nghiên cứu trên cho chúng ta thấy rằng, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về con
đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gồm những vấn đề rất cơ bản về chiến
lƣợc và sách lƣợc, phƣơng hƣớng bƣớc đi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nƣớc ta, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, kinh
nghiệm của các đảng anh em vào thực tiễn. Thực tế những thành bại trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trƣớc đây và trên cả nƣớc sau này, đều đã chứng
minh những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con đƣờng quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nƣớc ta là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển tƣ tƣởng của Ngƣời về con
đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay là vấn đề
rất thiết thực, vừa cơ bản, vừa cấp bách.
III. KẾT LUẬN
Khƣớc từ những con đƣờng cứu nƣớc của các bậc tiền bối theo khuynh hƣớng
phong kiến và tƣ sản, ngƣời thanh niên Nguyễn Tất Thành đã Tây du đi tìm con đƣờng
cứu nƣớc mới. Trong hành trình đó, từ chủ nghĩa u nƣớc Ngƣời đã đến với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, chủ nghĩa Mác - Lênin. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh tìm thấy con đƣờng giành độc lập dân tộc, tự do cho
nhân dân. Trên cơ sở nền tảng tƣ tƣởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, qua quá trình hoạt
động thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã phát triển những lý luận về chủ nghĩa xã
hội một cách sáng tạo trong điều kiện xã hội thuộc địa, đề xuất một hệ thống quan điểm
cơ bản về con đƣờng đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Tất cả những
quan điểm này đã đƣợc lịch sử thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm và Cách

|284


“100 năm Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin” (1920 - 2020)


mạng tháng Tám (1945), thành tựu hơn 30 năm đổi mới đất nƣớc là một minh chứng
sinh động nhất trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, con đƣờng cách mạng
Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Văn phòng Trung ƣơng Đảng, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. V.I. Lênin (1979), Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

285

|



×