Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN: Giáo dục đạo đức học sinh THPT thông qua việc ra đề văn nghị luận xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.76 KB, 29 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG THÔNG QUA VIỆC RA
ĐỀ VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI


A. Mở đầu
I. Lý do chọn đề tài

Như chúng ta đã biết, phẩm chất đạo đức là một phần quan trọng
tạo nên giá trị của một con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Có
tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm
việc gì cũng khó". Thế nhưng có một thực tế đau lịng hiện nay là tình
trạng xuống cấp về mặt đạo đức, niềm tin, lý tưởng của một bộ phận học
sinh, đặc biệt là học sinh THPT. Việc học sinh lừa dối ông bà, cha mẹ, vô
lễ đối với thầy, cô, bỏ học, la cà quán xá, gây gổ đánh nhau, sa vào các tệ
nạn xã hội, thậm chí phạm tội khơng phải là hiếm gặp ở các trường.
Ngun nhân của tình trạng này thì có nhiều. Nhưng điều dễ nhận thấy là
ở tuổi đang "tập" làm người lớn, nhận thức của các em thường chịu ảnh
hưởng rất lớn của mơi trường xung quanh. Trong khi đó thực tế xã hội
hiện nay vẫn còn xảy ra nhiều hiện tượng suy thoái về đạo đức dưới tác
động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế thị trường. Điều này đã tác động
xấu tới việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức lứa tuổi học trị.
Vì vậy việc tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay là
vấn đề vơ cùng quan trọng, là trách nhiệm của gia đình, nhà trường và
tồn xã hội. đây là cơng việc khơng hề đơn giản, địi hỏi phải có chủ
trương, biện pháp thích hợp, có sự đồng lịng, nhất trí của cả gia đình, nhà
trường và tồn xã hội. Là một giáo viên dạy văn trực tiếp giảng dạy trong
nhà tr­êngTHPT tôi tự nhận thấy việc chú trọng tới giáo dục đạo đức cho


học sinh hiện nay không chỉ là việc làm cần thiết mà còn là trách nhiệm
lớn lao, nặng nề.
Do vậy trước vấn đề này tôi đã chọn viết sáng kiến kinh nghiệm với
đề tài: "Giáo dục đạo đức học sinh trung học phổ thông thông qua việc ra
đề văn nghị luận xã hội".
Tôi hy vọng rằng những nghiên cứu bước đầu của mình sẽ góp
phần tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Bởi qua thực tế kiểm
nghiệm của bản thân đã thấy có những tác dụng nhất định.
II. Lịch sử vấn đề

Việc dạy học và ra đề văn nghị luận xã hội những năm trước cải
cách giáo dục dường như được chú trọng hơn hiện nay. Qua tìm hiểu tơi
thấy thời kỳ đó nhiều đề thi học sinh giỏi và đề thi Đại học- Cao đẳng có
những đề văn Nghị luận xã hội rất sâu sắc. Trong thực tế hiện nay cũng đã
có một số nhà nghiên cứu và một số giáo viên viết bài đề cập đến vấn đề


trên. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian, không gian tơi chưa có điều kiện
tiếp cận hết.
Năm 2002 khi bàn về "Đề văn Học sinh giỏi THPT và một số vấn
đề cần lưu ý", Tiến sü Đỗ Ngọc Thống cũng đã dành một phần nhỏ bài
viết của mình chỉ ra những hạn chế trong việc ra đề cần khắc phục. "Đó
là hiện tượng nghịch lý khi hầu hết các đề văn đều là nghị luận văn học
còn nghị luận xã hội thì rất ít khi ra".
Trên cơ sở những nghiên cứu đó, tơi đã phát triển thêm ở đề tài này
và chú ý hơn đến vấn đề giáo dục đạo đức học sinh.
III. Đối tượng, phạm vi nghiªn cứu

Đề tài quan tâm tới việc góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học phổ thông.

Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi tập trung nghiên cứu
một vấn đề nhỏ đó là giáo dục đạo đức cho học sinh thông qua việc ra đề
văn nghị luận xã hội.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu

Khi nghiên cứu đề tài này cần nêu được một số vấn đề mang tính
chất lý luận về: giáo dục; giáo dục đạo đức; Vai trò của Giáo dục đạo
đức; Nghị luận xã hội; Vai trò, tác dụng của đề văn nghị luận xã hội trong
việc giáo dục đạo đức. Đề cập đến yêu cầu, cách thức ra đề, hướng dẫn
học sinh tìm hiểu đề và việc chấm bài, trả bài đối với những đề văn nghị
luận xã hội. Cuối cùng là một số kết quả thử nghiệm trong quá trình
nghiên cứu.
V. Phương pháp nghiên cứu

Để hồn thành đề tài này tơi đã sử dụng phương pháp thử nghiệm,
phân loại, thống kê kết hợp với việc sưu tầm, khảo sát của bản thân trong
quá trình giảng day từ năm 2000 đến nay.

B. Phần nội dung
I. Cơ sở lý luận

1. Khái niệm và vai trò của giáo dục đạo đức.
a. Khái niệm
Giáo dục là khái niệm cơ bản quan trọng trong các khoa học nghiên
cứu về con người. Theo Từ điển Tiếng Việt (Trang 345 NXB Đà N½ngViện Ngơn ngữ học) thì: "Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một
nc¸ch có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng
nào đó làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất, năng lực
theo yêu cầu".



Giáo dục đạo đức là một bộ phận của Giáo dục và là sự tác động
đến đối tượng giáo dục để họ dần dần có được những quan điểm, quan
niệm chung về công bằng, bÊt công, về cái thiện, cái ác, về lương tâm,
danh dự và những phạm trù khác thuộc lĩnh vực đạo đức tinh thần của xã
hội. Các tiêu chuẩn về đạo đức xã hội tồn tại bất thành văn nhưng được xã
hội thừa nhận và mỗi cá nhân buộc phải tn theo thì mới có thể trở thành
người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Đó là các chuẩn mực đạo đức như:
"Yêu quê hương đất nước"; "Kính trọng ơng bà, cha mẹ"; Kính trên,
nhường dưới"; "Tơn sư, trọng đạo"…
b. Vai trò của giáo dục đạo đức
Sản phẩm của giáo dục là con người. Vậy nên việc hình thành nên
những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho con người là một phần rất quan
trọng trong quá trình giáo dục. Khi nói về vai trị của Giáo dục, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Ngủ thì ai cũng như lương thiÔn
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Trong một xã hội có giáo dục, quan hệ giữa người với người dựa
trên những chuẩn mực xã hội sẽ là tiền đề cho ổn định và phát triển kinh
tế xã hội, tạo nên cuộc sống vui tươi hạnh phúc, cho tất cả mọi người.
Trong nhà trường, việc giáo dục đạo đức cho học sinh là một trong
những vấn đề trọng tâm. Bởi các em chính là những chủ nhân tương lai
của đất nước. NỊu được giáo dục tốt, các em sẽ trở thành những con người
có ích cho gia đình và xã hội. Ngược lại các em sẽ trở thành gánh nặng
cho gia đình và xã hội trong tương lai. Vì vậy: "Tiên học LƠ, hậu học
Văn" khơng chỉ là khẩu hiệu mà cũng chính là nhiệm vụ của thầy và trị
trong suốt q trình dạy- học.
2. Nghị luận xã hội và vai trò của nghị luận xã hội trong
Chương trình Dạy- học bộ mơn văn hiện nay

a. Lý thuyết về Nghị luận xã hội
Các sách giáo khoa Làm văn và hướng dẫn giảng dạy đều khẳng
định: "Nghị luận xã hội là dạng văn mà người viết đi vào bàn bạc các vấn
đề thuộc lĩnh vực chính trị xã hội có liên quan tới hoạt động của con
người".


Đối tượng của nghị luận xã hội là những vấn đề nảy sinh trong đời
sống chính trị xã hội như đạo đức, lẽ sống, lý tưởng, hạnh phúc, lao động,
tình bạn, tình u…thường được thể hiện cơ đọng trong các câu tục ngữ,
danh ngôn, các ý kiến nhận định tổng quát.
Mục đích của nghị luận xã hội là đưa những vấn đề trên ra để bàn
bạc, làm sáng tỏ đúng, sai, tốt, xấu…Nhằm tuyên truyền, giáo dục, cổ
động, kêu gọi mọi người tham gia giải quyết những vấn đề nảy sinh trong
đời sống chính trị- xã hội. "Góp phần làm cho đời sống tinh thần của con
người thêm phong phú, tạo cho mỗi người có ý thức chăm sóc cuộc sống
của bản thân mình và xây dựng mối quan hệ trong xã hội, trong cộng
đồng ngày một bền vững hơn, văn minh, tốt đẹp hơn" (Sách giáo khoa
Làm văn Lớp 10- Trang 40- NXB Giáo dục năm 2000).
Việc học làm văn nghị luận xã hội giúp học sinh có năng lực trí tuệ
phát triển, hình thành tư duy hợp lý, khoa học, biết cách tìm tịi và xác
định chân lý; biết cách diễn đạt, phát biểu ý kiến của mình một cách rõ
ràng. SGK Làm văn Lớp 10 còn viết: "Học làm văn nghị luận xã hội còn
xây dùng cho học sinh phương pháp tư duy đúng đắn để hình thành thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ. Biết đánh giá đúng các
hiện tượng xã hội, biết ứng xử đẹp trong các mối quan hệ với người khác,
biÕt hướng cuộc sống của mình vào những mục tiêu cao cả". Đây chính
là những vốn sống vơ cùng quan trọng trong hành trang mà các thầy cô
chuẩn bị cho các em khi bước vào đời. Bởi sau khi tốt nghiệp phổ thông
trung học không phải ai cũng theo nghiệp văn chương nhưng bất kỳ ai

cũng phải đối mặt với những vấn đề xã hội. Và phải giải thích, chứng
minh, thể hiện quan điểm, lập trường, tư tưởng, tình cảm của mình trước
các vấn đề đó. Vì vậy càng phải rèn luyện cho các em làm tốt loại văn
này.
Phạm vi của nghị luận xã hội rất rộng, được chia thành các chủ
điểm lớn:
- Nghị luận về vấn đề đạo đức - nhân sinh
- Nghị luận về vấn đề chính trị
- Nghị luận về vấn đề tư tưởng- văn hóa
- Nghị luận về vấn đề kinh tế
- Nghị luận về vấn đề lịch sử
- Nghị luận về vấn đề địa lý- môi trường…
Trong các nội dung trên vấn đề đạo đức- nhân sinh là nội dung cần
được quan tâm đặc biệt.


b. Vị trí của nghị luận xã hội trong chương trình dạy học mơn
văn hiện nay
ở bậc học Trung học cơ sở, việc học văn nghị luận xã hội đã được
quan tâm ở tất cả các khối lớp từ lớp 6 đến lớp 9. Từ năm 2000 khi
chương trình văn THPT có sự chỉnh lý hợp nhất thì Vụ THPT đã đưa ra
yêu cầu về việc giảng dạy và ra đề nghị luận xã hội cho cả ba khối học 10,
11, 12. Điều này cũng đã được cụ thể hóa ở các SGK và phân phối
chương trình của cả ba khối:
- Khối 10: + Bài nghị luận xã hội 3 tiết
+ Phát biểu thảo luận 2 tiết
- Khối 11: + Hội thảo khoa học xã hội 2 tiết
- Khối 12: Bình luận xã hội 2 tiết
Cuối tháng 10/2003 trong chuyên đề về việc bồi dưỡng Học sinh
giỏi văn ông Hà Bình Trị (Vụ THPT) cũng đã đề cập đến việc ra đề văn

Nghị luận xã hội thường xuyên ở các tiết kiểm tra dành cho các khối học.
Như vậy vấn đề dạy học văn nghị luận xã hội trong nhà trường
THPT cũng đã được đề cập đến. Và chắc chắn là tất cả các giáo viên dạy
văn ở cấp học này cũng đã thực hiện đúng yêu cầu của chương trình phân
mơn. Nhưng ở đây tơi xin nhÂn mạnh hơn đến việc ra đề văn nghị luận xã
hội để có thể có những tác động nhất định đối với việc rèn luyện tu dưỡng
đạo đức của học sinh THPT. Thông qua một số khảo sát tôi nhận thấy:
Sau cải cách giáo dục mà nhất là những năm gần đây (từ 1999 đến nay)
dường như ở hầu hết các kỳ thi nh­ kiểm tra chất lượng, thi học sinh giỏi,
thi tốt nghiệp THPT và thi vào §H- C§- THCN khơng hề có các đề văn
nghị luận xã hội, chỉ nặng về nghị luận văn học.
Đối với giáo viên trong quá trình giảng dạy cũng đã lưu ý đến việc
ra đề văn nghị luận xã hội cho cả ba khối học theo u cầu của chương
trình mơn học nhưng thực hiện chưa thường xuyên hoặc chỉ chiếu lệ mỗi
năm một bài.
Về phía bản thân học sinh, thường có tâm lý ngại làm những đề văn
nghị luận xã hội vì nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất: là do các em còn thiếu kiến thức hiểu biết xã hội.
Thứ hai: là do các em còn ngại thể hiện tư tưởng tình cảm của
mình (Trong khi đó văn nghị luận xã hội phải trực tiếp bộc lộ điều này).
Thứ ba: cịn là do khơng có tài liệu hoặc là ít tài liệu để tham khảo
thậm chí là để sao chép.


3. Vai trò, tác dụng của đề văn nghị luận xã hội trong giáo dục
đạo đức học sinh:
a. Đối với người được giáo dục (học sinh):
Việc ra đề văn nghị luận xã hội liên quan đến phạm trù đạo đức sẽ
giúp cho học sinh phải suy nghĩ, soi lại mình và nói lên tâm tư của mình
trước mỗi vấn đề cụ thể. Rồi tự đó mà tự điều chỉnh hành vi, cách cư xử

sao cho đúng đắn phù hợp. SGK làm văn 10 đã khẳng định: "Trước
những đề bài nghị luận xã hội, học sinh phải suy nghĩ một cách nghiêm
chỉnh các vấn đề đạo lý, nhân cách con người. Từ đó phát triển ý thức tự
trau dồi, xây dùng cho mình một nhân cách tốt đẹp".
b. Đối với người giáo dục (giáo viên):
Vấn đề trên sẽ giúp giáo viên có thể nắm được tâm tư, tình cảm của
học sinh. Từ đó có thể rót ra những nhận xét về con người các em. Và
cũng từ đó có căn cứ và biện pháp để giáo dục các em. Bởi như người ta
thường nói: "Văn là người". Bài văn cho chúng ta nh÷ng thơng tin đầy đủ
để từ đó ta hiểu thêm về con người. Con người như thế nào thì có ý nghĩ
như thế ấy. Thường ngày các em có những suy nghĩ gì, quan tâm tới cuộc
sống ra sao và cách ứng xử như thế nào… tất cả những cái đó vẫn có sẵn
trong các em, gặp cơ hội là được bộc lộ ra bên ngoài (qua bài viết).
Ngày xưa các thầy đồ cũng thường mượn đề văn, câu đối để nhận
định về học trị của mình. Đã có rất nhiều giai thoại hấp dẫn được lưu
truyền. Chẳng hạn câu chuyện thầy giáo Đàm Huy Thận một hôm nhân
trời mưa to, học xong mà học trị khơng thể ra về được, bèn đọc một vỊ
đối bảo học trò đối lại: "Vị vô kiềm tỏa năng lưu khách". (Nghĩa là mưa
khơng có then khóa gì mà có thể (đóng cửa) giữ khách lại khơng cho về).
Có ba học trị đã đối lại như sau:
Ng­êi thứ nhất:"Sắc bất ba đào dị nịch nhân"
(Sắc đẹp khơng có sóng gió gì mà làm đắm được người)
Người thứ hai:"Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân"
(Trăng có cung mà khơng ai bắn)
Người thứ ba:"phẩn bất uy quyền dị sử nhân"
(Cục phân kia chẳng có uy quyền gì mà đuổi được người)
Thầy giáo ấy đã nhận thấy ở học trị: Người thứ nhất say đắm trong
tình trường, người thứ hai thì đơn hậu khơng muốn gây chiến tranh. Cịn
người thứ ba - sao anh ta khơng nghĩ đến cái gì khác mà lại nghĩ ngay đến
bãi phân?.



Từ suy nghĩ ấy thầy giáo đã đoán được tư cách và tương lai của mỗi
học trò.
Như vậy việc ra đề văn nghị luận xã hội và yêu cầu làm văn nghị
luận xã hội đối với học sinh bậc THPT sẽ có tác dụng nhất định đối với
qóa trình tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của các em và đối với quá trình
giáo dục dạy, dỗ, uốn nắn đạo đức học sinh của giáo viên. Nếu hai quá
trình này kết hợp với nhau một cách hài hịa thì hiệu quả thu được sẽ rất
khả quan.
II. Yêu cầu, cách thức ra đề và định hướng cho học sinh tìm hiểu đề.

Đối với giáo viên, một trong những c«ngviƯc gian khó nhất vẫn là
làm thế nào ra được nhiều đề văn phù hợp với đối tượng học sinh. Đặc
biệt là dưới dạng đề văn nghị luận xã hội. Trên thực tế vì số lượng bài
kiểm tra có sử dụng đề văn nghị luận xã hội không nhiều nên phần lớn
giáo viên và người chịu trách nhiệm ra đề trong các kỳ thi thường dựa vào
các đề có sẵn, in trong các sách. Chẳng hạn như:
* Bình luận câu tục ngữ: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn"
* Ơng cha ta thường nói: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng". Em
hãy giải thích câu tục ngữ trên.
Những đề này sẽ có tình trạng học sinh lười suy nghĩ, chỉ tìm cách
chép tài liệu hoặc khn theo một mẫu nào đó. Vì vậy dù đề văn có đề cập
đến phạm vi đạo đức lối sống … thì cũng ít có hiệu quả trong việc gÝup
học sinh tự nhận thức và cũng rất khó khăn đối với mục đích giáo dục của
giáo viên là có thể sát hơn trong việc uốn nắn học sinh.
Vì vậy trước vấn đề này tôi mạnh dạn đề xuất một số yêu cầu trong
việc ra đề và định hướng học sinh tìm hiểu đề.
1. Yêu cầu của việc ra đề
Các vấn đề đặt ra trong nghị luận xã hội thường rất rộng nên chúng

ta có thể vận dụng tục ngữ, ca dao, danh ngôn, những sự kiên nổi bật
trong đời sống chính trị xã hội để ra đề. Và theo tơi, ta có thể ra đề kiểm
tra nghÞ luận xã hội thường xuyên theo yêu cầu của môn học cho cả cấp
học chứ không nên chiếu lệ mỗi năm một bài.
Mới đây báo An ninh thế giới và chương trình "Người đương thời"
(VTV3- Đài truyền hình Việt Nam) có nói về một vị Đại tá quân đội về
hưu đã dùng số tiền gần 2 tư đồng của mình để xây dựng một Bảo tàng về
chiến tranh ở Đồng Híi- Quảng Bình. Bảo tàng đã lưu giữ, làm tái hiện lại


Chiến tranh- những năm tháng khốc liệt xảy ra ở mảnh đất này. Đó là
những khẩu súng đã gỉ sét, những chiếc ba lơ đã cũ nát, những chiếc mị
lỗ chỗ vỊt đạn, những hầm, hào… Bảo tàng ấy được dựng lên, rất nhiều
người đã đến thăm: người hiếu kỳ có, người muốn sống lại kû niệm một
thời có và có cả những người ham tìm hiểu về lịch sử. Những dòng chữ
mà du khách ghi lại trên Sổ lưu niệm của Bảo tàng đã cho thấy Bảo tàng
ấy có giá trị giáo dục rất lớn. Một học sinh đã viết: "Cháu từng được
nghe, được đọc nhiều về chiến tranh. Có những điều cháu đã khơng thể
tin. Có những điều cháu tưởng tượng phải là một cái gì đó thật to tát. Thế
nhưng khi đến đây thì cháu đã hiểu thỊ nào là chiến tranh. Và chiến thắng
của chúng ta bắt đầu từ những cái gì rất giản dị mà lớn lao… Cháu cảm
ơn bác". ThỊ đấy! Vị Đại tá- Người lính của cuộc chiến tranh năm xưa,
nay vừa là một công dân đầy tâm huyết đối với lịch sử của dân tộc, vừa
là người bạn nghĩa tình đối với đồng đội, lại vừa là một nhà giáo dục rất
âm thầm lặng lẽ.
Câu chuyện này khiến tôi nhận ra rằng tất cả những gì xung quanh
ta đều có thể có tác dụng giáo dục. Vì vậy chúng ta nên sưu tầm, vận dụng
những câu ca dao, tục ngữ, những câu danh ngơn, châm ngơn về cuộc
sơng, những sự kiện chính trị -xã hội… để có thĨ có "Vốn" cho việc ra
đề văn góp phần vào việc giáo dục. Đồng thời cũng nên hướng dẫn cho

các em biết về công việc trên để các em có thể tự nhận thức, tự chiêm
nghiệm và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày.
Quay trở lại với yêu cầu của việc ra đề văn nghị luận xã hội, tôi xin
được đề cập một cách cụ thể như sau:
Thứ nhất: Đề văn cần phải thể hiện tính đúng đắn chính xác và phù
hợp. Điều này có nghĩa là đề ra phải trích dẫn đúng câu chữ và đúng quy
cách. Nếu không sẽ khiến cho học sinh khó hiểu hoặc hiểu sai lệch vấn đề.
Hơn nữa là đề văn phải phù hợp với trình độ, năng lực học sinh. Khơng ra
những đề văn vượt khó tầm hiểu biết của các em. Đề văn đúng kiểu bài
với những yêu cầu rõ ràng, sáng sủa cũng là một phẩm chất cần có của
yêu cầu này.
Thứ hai: Đề văn nghị luận xã hội phải đánh trúng đối tượng, tức là
khi ra đề giáo viên phải nắm bắt trước tình hình học sinh để hướng vào
những vấn đề thuộc phạm trù đạo đức mà ở tập thể hoặc cá nhân học sinh
đang có những biểu hiện tiêu cực.
Thứ ba: Đề ra phải "vừa quen vừa lạ". Đề văn quen tức là học sinh
có thể hiểu được, tự mình suy nghĩ và tự mình nói lên tâm tư tình cảm


hoặc cách đánh giá của mình. Cịn đề lạ tức là đề văn phải kích thích được
sự suy nghĩ độc lập và khả năng sáng tạo của học sinh - ngăn chỈ được
tình trạng sử dụng tài liệu và bắt trước máy móc. Chẳng hạn cùng một vấn
đề bàn luận là tinh thần đồn kết nhất trí có thể ra những đề như:
Đề 1: Ơng cha ta có câu: "Mét cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao"
Em hãy chứng minh.
Đề 2: Người xưa có câu: "Nhiều chống càng tốt, nhiều cột càng
bền"
Em hãy chứng minh.
Đề 3: Người xưa từng quan niệm:


"Một hòn bắt chẳng nên non.
Ba hòn chụm lại nên cồn Thái

Sơn"
Em hãy chứng minh.
Hoặc cùng bàn luận về vấn đề biết ơn những người đã tạo dựng
những thành quả cho mình h­ëing thụ có thể có các đề như:
Đề 1: Em hãy suy nghĩ về đạo lý: "Uống nước nhớ nguồn"
Đề 2: Ông cha ta từng dạy rằng: "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kĨ cho dây mà
trồng"
Em hãy giải thích.
Đề 3: Em hãy bình luận câu tục ngữ : "Uống nước sông nhớ mạch
suối".
Một điểm cần lưu ý là khi ra đề văn Nghị luận xã hội hướng tới
mục đích giáo dục đạo đức, giáo viên phải chú ý đến cả mục đích rèn
luyện kỹ năng, thao tác cho học sinh theo yêu cầu của văn nghị luận nói
chung như: giải thích, chứng minh, bình luận…
2. Cách thức ra đề văn nghị luận xã hội:
Khi ra đề giáo viên sử dụng phương pháp phân loại để có thể ra
những đề văn phù hợp vừa phát huy tính tích cực lại cũng có thể ngăn
chặn đẩy lùi những tiêu cực.
a. Phân loại đối tượng:
Đối tượng được đề cập đến để phân loại ở đây là học sinh.


*) Đối với tập thể học sinh:
Ta nªn chọn những vấn đề cập nhật, nóng hổi bức thiết nhất cảu đời
sống xã hội- Đặc biệt có liên quan đến đạo đức, lối sống, niềm tin, lý

tưởng… của học sinh để ra đề. Nhưng cũng cần quan tâm đến những vấn
đề chung cho nhận thức của tất cả học sinh. Theo quan điểm cá nhân thì
qua việc ra đề phải làm thế nào giúp học sinh tái hiện lại được những gì
mà các em đã thấy về đời sống xã hội. Từ đó giúp các em tự nhận thức.
Vấn đề tái hiện lại rất quan trọng, nó giúp cho con người ta lâu nay có thể
là thê ¬, khơng hiểu… sẽ đi đến nhận thức được nhiều điều từ những vấn
đề tưởng chừng như là rất cũ. Và từ đó mà có sự vận động thay đổi trong
chính bản thân mình. Chẳng hạn:
Đề 1: Có người đã cho rằng: "Tất cả những gì trong phim, truyện
avµ trên sân khấu đều đáng để cho chúng ta học tập".
Em có suy nghĩ như thế nßa về vấn đề này?
Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh cách nhìn nhận, đánh giá và
cách thức học hỏi khi tiếp cận những vấn đề xã hội.
Đề 2: Em có suy nghĩ gì về nghề nghiệp tương lai của mình?
Đề văn giúp cho việc giáo dục định hướng nghề nghiệp.
Đề 3: Ơng cha ta có câu: "Tiên học lƠ hậu học văn"
Em hãy giải thích và bình luận câu nói trên.
Tác dụng của đề giáo dục cho học sinh về đạo đức lễ nghĩa.
*). Đối với học sinh cá biệt:
Những biểu hiện ở đối tượng học sinh này đang là một vấn đề nhức
nhối hiện nay. Các em thường vi phạm đạo đức, bê trễ việc học hành, sa
vào những tệ nạn xã hội…vì vậy với bộ môn văn (và cả ở những bộ môn
khác) việc các em làn bài kiểm tra kém chất lượng hoặc thiếu bài kiểm tra
là điều thường xuyên xảy ra. Trong những tr­eêng hợp này chúng ta nên
yêu cầu các em làm đủ bài kiểm tra bằng những đề văn nghị luận xã hội
xã hội. Nhưng cũng têy vào từng đối tượng học sinh để ra đề văn phù hợp.
Chẳng hạn như:
- Với đối tượng học sinh gặp nhiều chuyện đau buồn dẫn đến bi
quan, chán nản, có suy nghĩ tiêu cực, ta có thể ra những đề như:
Đề 1: Em hóy bỡnh lun cõu núi sau õy ca L.Lêônp: "Tt cả mọi

chiến thắng đều bắt đầu từ sự chiến thắng bản thân mình"
Đề 2: A.Xªlèt người ý quan niệm rằng: "Người ta làm cho cuộc đời
thành cao quý ở ngay trong lò đào luyện của tai ương".


Em suy nghĩ như thế nào về vấn đề này.
Những đề văn thuộc dạng này, theo tơi có thể giúp các em nhìn
nhận về xã hội, gia đình, con người và chính bản thân mình để từ đó mà
sống, học tập và l;µm việc một cách có ích.
- Với những học sinh ngổ ngáo hay bỏ giờ, la cà quán xá, vô lễ với
ông bà, cha mẹ, thầy cô, hay gây gỗ đánh nhau, cờ bạc rượu chè… ta cần
nắm bắt những "điểm yếu" của các em để "tấn công" giúp cho các em
nhận ra sai lầm của mình. Ví dụ:
Đề 1: Thang Nhược Sü từng quan niệm: "Không lÂy bậy - tay thơm,
khơng nói bậy - miệng thơm, khơng nghĩ bậy - tâm thơm".
Em hãy giải thích về quan niệm trên.
Đề 2: Có người đã cho rằng: "Tiền bạc là phương tiện của những
người thơng minh, là mục đích của những kẻ ngu ngốc"
Em hãy giải thích và chứng minh câu nói trên.
Đề 3: £-Pic-Tét (HyL¹p) đã từng dạy con rằng: "Khơng được cho
phép mình hưởng bất kỳ thú vui nào mà chỉ được hưởng những thú vui
khơng có gì xấu".
Hãy giải thích tại sao ơng ấy lại dạy con như thế.
b. Phân loại đề để phù hợp với đối tượng và mục đích của việc ra
đề (kể cả mục đích rèn luyện kỹ năng thao tác như giải thích, chứng
minh, bình luận).
Khi phân loại đề, giáo viên phải căn cứ vào tình trạng đạo đức của
học sinh hiện nay để có thể phân ra thành những nhóm đề phù hợp. Qua
khảo sát thực tế tôi nhận thấy học sinh THPT hiện nay có nhiều biểu hiện
sa sút về mặt đạo đức lối sống như: không vâng lời ông bà, cha mẹ, nói

dối gia đình lấy tiền la cà quán xá, vô lễ với thầy cô… Không coi trọng
việc học hành, tu d­ìng đạo đức, có tư tưởng sống gấp rất cá nhân, ích kû.
Có một béphËn học sinh hiểu rất mơ hồ về lĩnh vực chính trị- xã hội.
Chẳng hạn như về chiến tranh, về lịch sử dân tộc. Có em cịn cho rằng:
"Đó là bịa thêm chứ khơng hồn tồn là sự thật". Về nghề nghiệp các em
khơng biết cách định hướng. Điều đáng buồn là có những học sinh sống,
học tập mà không hề biết đến mục đích sống, lý tưởng sống là gì? Khi
được hỏi mục đích đi học của em là gì thì nhiều em trả lời một cách rất tự
nhiên rằng: "Đi học để lấy cái bằng lớp 12 "; "Đi học để sau này khỏi
phải làm ruộng". Một thực tế nữa là có những học sinh khơng may vấp
ngã thì lâm vào tình trạng bi quan chán nản, khơng tự mình đứng dậy


được nên đành tặc lưỡi: "Mặc kệ… đến đâu thì đến". Đó là những biểu
hiện rất nguy hại, nếu khơng có sự can thiệp, giúp đỡ kịp thời thì tương
lai các em sẽ như thế nào?
Trước thực tế đó (Trên cơ sở vấn đề mình đang quan tâm) tơi đã tiến
hành phân loại được một số nhóm đề như sau:

Nhóm 1: Giáo dục học sinh chăm chỉ, cần cù chống thói lười biếng,
dựa dẫm.

Đề 1: B.Phran klin đã nói rằng: "Lười biếng làm mịn rỉ trí tuệ và
thân thể".
Em hãy chứng minh.
Đề 2: Em hiểu như thế nào về câu ngạn ngữ sau: "Người ở khơng
giết thì giờ rồi thì giờ sẽ giết lại người ở không"
Đề 3: Nhà văn Lỗ TÊn (Trung Quốc) đã nói rằng: "Trên đường
thành cơng khơng có vết chân của người lười biếng"
Em hãy bình luận câu nói trên.

Đề 4: Ơng cha ta thường nói: " Đời người có một gang tay, ai hay
ngủ ngày cịn một n­¶ gang"
Em hãy giải thích câu tục ngữ trên.
Đề 5: Em hãy bình luận câu nói của V.Huy- gơ: "Lười biếng là mẹ
đẻ của thói ăn cắp và sự đói rét"
Nhóm 2: Giáo dục tình cảm gia đình, thầy- trị, tình u q hương
đất nước.

Đề 1: Ngạn ngữ có câu: "Chiếc áo máng mẹ ta khâu mặc vào vẫn
Âm, chiếc áo dày người ta may, mặc vào vẫn lạnh".
Em hiểu như thế nào về câu ngạn ngữ trên?.
Đề 2: Người Nhật có câu tục ngữ: " Thói xấu nhất là buông tuồng,
đức quý nhất là đạo làm con"
Em hãy bình luận về điều đó.
Đề 3: Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: "Con cái ngoan làm cho cha
mẹ hạnh phúc, con cái hư là kẻ đào mồ chôn cha mẹ chóng"
Em hãy cho biết ý kiến của mình về câu ngạn ngữ trên?
Đề 4: Ơng cha ta thường nói: "Nhất tự vi sư, bán tự vi sư" (Một chữ
là thầy, nửa chữ cũng là thầy). Quan niệm đó có cịn đúng với xã hội hiện
nay khơng?


Đề 5: Bài thơ "Quê hương" của tác giả Đỗ Trung Quân có đoạn:
"Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người"
Dựa vào ý thơ trên, hãy bình luận về vai trò của quê hương, đất
nước đối với đời sống tâm hồn của mỗi con người.
Đề 6: Tục ngữ Việt Nam có câu: "Con hơn cha là nhà có phúc"

Em hiểu như thế nào về câu tục ngữ trên?
Nhóm 3: Giáo dục lối sống lành mạnh, sống có niềm tin, mục đích
lý tưởng.

Đề 1: Em có suy nghĩ gì về hiện tượng đua địi ăn chơi của một số
bạn trong trường?
Đề 2: Nhà thơ Tố Hữu thường căn dặn thanh niên: "Thanh niên
phải biết ước mơ và hành động" Em hiểu như thế nào về lời căn dặn đó?
Đề 3: Theo em, sống như thế nào là có lý tưởng?
Đề 4: Em có suy nghĩ gì về những câu thơ sau:
-"Trên đời này chỊt chẳng có gì là mới
Nhưng sống trên đời cũng chẳng mới gì hơn"
(£ xê nin)
và:
- "Trên đời này chỊt chẳng có gì là mới
Nhưng gây dựng cuộc đời cịn gian khó hơn nhiều"
(Maiac«pxki)
Đề 5: Một học giả đã nói rằng: "Những đam mê hỗn loạn là nguồn
gốc của mọi tai họa mà người sáng suốt cần phải tránh xa" .
Em hãy giải thích và bình luận ý kiến trên.
Đề 6: "Có những kẻ đeo kính khi mắt cịn rất tốt. Tơi gọi đó là s
hc ũi ngu xun". (Ban zăc).
Em cú ng ý vi ý kiến trên khơng?
Nhóm 4: Giáo dục lịng nhân từ, tính tiết kiệm, sự thận trọng, chín chắn
trong mọi việc:
Đề 1: Lão Tư có câu: "Ta có ba của báu cần phải giữ: Một là nhân
từ, hai là tằn tiện, ba là khơng vội trước thiên hạ. Vì nhân từ nên mới


mạnh, tằn tiện nên mới rộng rãi, không vội vàng nên mới đứng trước

người". Em hãy giải thích và bình luận câu nói trên.
Đề 2: Người Việt Nam có câu: "Hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi
nói"
Em hiểu như thế nào về câu nói này?
Đề 3: Uèc- ban người Hungari cho rằng: "Nếu ta suy nghĩ hai lần
trước khi nói, ta sẽ nói hay gấp đơi".
Em hãy giải thích câu nói trên?
Đề 4: Em hiểu như thế nào về câu tục ngữ: "Ăn có nhai nói có
nghĩ".
Đề 5: Hãy bình luận và chứng minh ý kiến sau: "Sự chăm chỉ siêng
năng là của báu vô giá cũng như sự thận trọng là cái bùa để giữ mình".
Đề 6: Giải thích câu tục ngữ: "Có cơng mài sắt có ngày nên kim"
Nhóm 5: Giáo dục ý thức tự lập, tự chủ và sức mạnh chiến thắng
bản thân.
Đề 1: Có người đã cho rằng: "Trên đường vốn đã có bao nhiêu dấu
chân. Vấn đề là ở chỗ mình phải mạnh dạn bước tới, tìm thấy đường đi
cho riêng mình".
Em hiểu như thế nào về câu nói trên?
Đề 2: L.Lê-«-nèp cho rằng: "Tất cả mọi chiến thắng đều bắt đầu từ
sự chiến thắng bản thân". Em hãy chứng minh
Đề 3: Người Anh có câu ngạn ngữ: "Nhượng bộ khơng phải là bạn
mình; nhận lỗi không phải là nhục nhã".
Em hãy cho biết ý kiến của em về vấn đề này?
Đề 4: Có người đã cho rằng: "Giữ được đạo đức trong thành cơng
cịn quan trọng hơn trong cơn hoạn nạn".
Em hãy cho biết suy nghĩ của mình về vấn đề này?
Đề 5: Người Nga có câu ngạn ngữ: "Sự kiềm chế là bắt đầu của lịch
sự và đạo đức".
Em hãy chứng minh.
Nhóm 6: Giáo dục tinh thần học tập, ý thức học hái

Đề 1: Ngạn ngữ có câu: "Bộ lơng làm đẹp con cơng, học vấn làm
đẹp con người"
Hãy bình luận câu ngạn ngữ trên.


Đề 2: "Cần phải coi việc học tập là điều kiện bình thường cho trí
tuệ giống như người ta phải thở cho thân thể tồn tại"
(S. An tơ nèp)
Em có suy nghĩ gì về câu nói này?
Đề 3: Ơng B. Fran klin đã cho rằng: "Đầu tư cho kiến thức là đầu
tư sinh lợi nhiều nhất"
Em hãy giải thích tại sao?
Đề 4: Có ý kiến cho rằng: "Con người càng phát triển cao về trí tuệ
và đạo đức, càng trở nên tự do hơn và cuộc sống càng thú vị hơn đối với
họ".
Em suy nghĩ như thế nào về nhận định này?
Đề 5: Khổng Tử cho rằng: "Kẻ ham học hỏi thì gần được đức Trí,
kẻ cố gắng làm chuyện phải gần được đức Nhân, kẻ biết xấu hổ gần được
đức Dịng".
Em hãy giải thích vấn đề trên?
Nhóm 7: Giáo dục ý thức trân trọng quá khứ, lịch sử của cha ơng
Đề 1: "Đừng đánh mất q khứ vì với quỏ kh ngi ta xõy dng
tng lai" (Frăng x). Em hãy phát biểu ý kiến của mình về vấn đề này?
Đề 2: Franklin có nói: "Những kẻ rị bỏ q khứ thường chẳng mÂy
khi thành công ở tương lai"
Em hãy bình luận câu nói trên.
Đề 3: Có người đã cho rằng: "Những gì đã qua đều trở nên cũ kỹ,
lỗi thời, khơng có giá trị và chẳng đáng học tập"
Em hãy cho biết ý kiến của mình về vấn đề này?
Đề 4: Giải thích câu tục ngữ : "Uống nước sơng nhớ mạch suối"

Nhóm 8: Giáo dục tính trung thực, sự khiêm tốn…
3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề (Định hướng)
a. Mục đích
Tìm hiểu đề là bước đầu tiên trong quá trình làm một bài văn nghị
luận. Là bước xác định phương hướng, tìm ra một cái đích mà trong quá
trình làm bài học sinh phải đạt cho được. Nói một cách rõ ràng hơn học
sinh phải tìm hiểu đề để xác định đúng đắn hướng làm bài, nội dung, thể
loại (kiểu bài) và phạm vi tư liệu sử dụng theo yêu cầu của người ra đề.


Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề thể hiện rất rõ vai trò của
người thầy. Sách dàn bài tập làm văn 10 có viết: "Có những đề mới trơng
qua cứ tưởng là khó, song nếu thầy giáo biªt khơi gợi, giải thích cho học
sinh hiểu được, đồng thời biết yêu cầu vừa phải đối với học sinh thì từ
những nhận thức và năng lực đầu tiên còn nhỏ bé, học sinh có thể nhanh
chóng và phấn khởi vươn lên trình độ cao hơn"
Những đề văn nghị luận xã hội đặc biệt là đề bài đề cập đến vấn đề
đạo đức thường được diễn đạt dưới những cách nói bóng bẩy, hình ảnh.
Điều này ít nhiều gây khó khăn cho học sinh. Nhưng nếu có sự gợi ý,
hướng dẫn của thầy cơ trong q trình tìm hiểu đề thì chắc chắn các em sẽ
tự nhận thức rồi suy ngẫm để nói lên được tâm tư nguyện vọng của mình.
b. Hướng dẫn cụ thể để học sinh tìm hiểu đề.
Thứ nhất: Cần hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu nội dung,
đây là yêu cầu khó xác định nhất. Thực chất của yêu cầu này là học sinh
phải xác định cho được mình phải viết cái gì trong bài văn. Chẳng hạn với
đề bài: "Thanh niên phải biết ước mơ và hành động" thì định hướng về
nội dung là: Bàn về phương hướng sống của thế hệ trẻ: Phải biết ước mơ
và hành động.
Muốn xác định được yêu cầu về mặt nội dung, người viết có thể
dựa vào mặt ngơn ngữ của đề như những từ ngữ quan trọng, những hình

ảnh hoặc sử dụng từ ngữ một cách hình ảnh để tìm hiểu nghĩa đen của
chúng. Chẳng hạn:
Đề 1: Em hãy bình luận câu tục ngữ : "Có chí thì nên"
Những từ cần chú ý là: Từ "Chí" nói lên lịng quyết tâm, sự kiên trì.
Từ "Nên" nói về sự thắng lợi, thành cơng có được. Từ đó rót ra nội dung
của đề là: Yêu cầu bàn về bản lĩnh sống nếu kiên trì, quyết tâm thì sẽ
thắng lợi, thành cơng.
Đề 2: Em hãy giải thích câu tục ngữ : "Uống nước sơng nhớ mạch
suối"
Sơng hình thành từ nhiều con suối, do đó uống nước sơng (Hưởng
thụ thành quả) cần nhớ tới nguồn cội ( Người làm ra thành quả đó).
Yêu cầu nội dung của đề: Bàn về vấn đề tư tưởng, đạo lý đó là lịng biết
ơn những người đã làm nên thành quả cho mình hưởng thụ.
Đề 3: Hãy giải thích câu tục ngữ: "Ăn như thuyền chở mã
Làm như ¶ chơi trăng"
Xác định nội dung của đề thơng qua lối so sánh trực tiếp:


- Ăn như thuyền chở mã: ăn khỏe
- Làm như ¶ (chị) chơi trăng: Làm thì nhởn nhơ, khơng hiệu quả
Do đó yêu cầu nội dung cần phê phán thói lười biếng siêng ăn, nhác
làm.
Thứ hai: Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu về mặt hình thức.
Đây thực chất là định hướng về phương pháp làm bài, thể loại làm bài.
Thơng thường thì u cầu này thường được diễn đạt bằng những từ ngữ
cụ thể như: Giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích nhưng cũng có
thể được thể hiện ở các dạng khác như : hãy làm sáng tỏ, hãy minh họa
(kiểu bài chứng minh); Em hiểu như thế nào? Tại sao lại nói như vậy? Thế
nào là? (kiểu bài giải thích); Hãy cho biết ý kiến? Y kiến của en như thế
nào? Em có suy nghĩ gì?...(kiểu bài bình luận)…Có một số trường hợp

u cầu thể loại bị giấu kín (để chìm). Chẳng hạn như:
Đề 1: Tác hại của thuốc lá
Đề 2: Không thầy đố mày làm nên
Những đề này khó khn vào một thao tác nghị luận cụ thể, người
viết cần phải sử dụng hỗn hợp các thao tác, chủ yếu là giải thích, chứng
minh và bình luận.
Có những đề u cầu nội dung đã rõ nhưng khơng thuộc các kiểu
bài nghị luận đã học. Ví dụ: "So sánh mối quan hệ thầy- trò ở thời phong
kiến và thời hiện đại". So sánh là một thao tác của tư duy logic nhằm chỉ
ra những nét giống và khác nhau của sự vật hiện tượng thông qua nh÷ng
tiêu chí so sánh cụ thể. Trong văn nghị luận kiểu bài này hàm chứa các
thao tác : giải thích, đối chiếu, liên hệ, chứng minh, bình luận.
Những dạng đề trên rất cần sự hướng dẫn, gợi ý của giáo viên, nếu
khơng học sinh sẽ khó nắm bắt dẫn đến xác định sai phương pháp làm bài.
Thứ ba: Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu tài liệu (Còn gọi là
phạm vi dẫn chứng). Đa số các đề văn nghị luận xã hội không thể hiện rõ
yêu cầu này. Do đó việc lấy dẫn chứng khơng bị bó hẹp, có thể lấy bất kỳ
dẫn chứng nào trong đời sống. Chẳng hạn:
Đề 1: Giải thích câu tục ngữ "Chí thấy sóng cả mà ngã tay chèo"
Phạm vi tài liệu: Dẫn chứng trong đời sống.
Đề 2: "Cách sử dụng thời gian rỗi là thước đo chân chính sự giàu
có của con người" (K. Marx)
Em có suy nghĩ gì về câu nói trên?
Phạm vi tài liệu: Dẫn chứng trong đời sống thực tế.


Tất nhiên vẫn có những đề nêu rõ yêu cầu này. Chẳng hạn :
Đề 1: Từ thực tế học tập, tu dưỡng của bản thân em hãy chứng
minh rằng: "Không thầy đố mày làm nên"
Phạm vi tài liệu: Từ thực tế học tập, tu dưỡng của bản thân.

Đề 2: Hãy nói lên ý kiến của em về tình trạng học sinh bỏ giờ, trốn
tiết ở trường em
Phạm vi tài liệu: Dẫn chứng từ trường học của mình.
Đề 3: Qua những hiểu biết về thực tế và lịch sử, em hãy chứng
minh: "Chiến tranh đã gây nên và để lại những hậu quả hết sức nặng nề
và thảm khốc"
Phạm vi tài liệu: Dẫn chứng từ thực tế và lịch sử trong và ngồi
nước.
Trong ba nội dung trên thì việc hướng dẫn cho học sinh xác định
yêu cầu về mặt nội dung là quan trọng nhất. Vì u cầu này khó xác định,
nếu khơng hướng dẫn, khơi gợi thì học sinh dễ phạm lỗi viết lan man,
không tập trung hoặc lạc đề. Đồng thời đây cũng là cơ hội để giáo viên
thực hiện được một phần nào đó mục đích của việc ra đề là tập trung vào
giáo dục đạo đức học sinh bởi định hướng để học sinh tự nhận thức cũng
là một khâu của quá trình giáo dục.
III. về việc chÂm, trả bài.

Đây là dịp tốt nhất để chúng ta nắm được đời sống tâm lý, cách
nhìn nhận của học sinh về các vấn đề xã hội và những bộc lộ thuộc về cá
tính hay đạo đức của từng em để từ đó có phương pháp, biện pháp giáo
dục thích hợp.
1. Chấm bài:
Ngoài việc đánh giá chất lượng và chữa những sai phạm trong bài
làm của học sinh theo yêu cầu của công tác giảng dạy Văn, Giáo viên cần
chú trọng đến việc phát hiện, phân loại bài làm của học sinh để có hướng
giáo dục phù hợp. Cụ thể:
a. Phân loại bài làm về mặt hình thức: (Bố cục, kết cấu, chữ viết,
cách dùng từ, diễn đạt…) thành các loại sau:
- Bài làm có hình thức tốt
- Bài làm có hình thức trung bình



- Bài làm chưa đạt yêu cầu về hình thức.
b. Phân loại bài làm về mặt nội dung:
- Bài làm đảm bảo u cầu nội dung, có thiên hướng tích cực
- Bài làm thể hiện rõ cá tính hoặc bộc lộ những tâm sự thầm kín của
các nhân học sinh.
- Bài làm chưa đạt về nội dung hoặc thể hiện những nhận thức sai
lầm.
Khi ra đề văn Giáo viên nên thể hiện dụng ý của mình. Chẳng hạn
trong lớp học sinh có hiện tượng bỏ học, bỏ giờ, cần phải tìm hiểu nguyên
nhân. Nếu ra đề văn đề cập đến vấn đề đó khi chÂm bài chóng ta sẽ nắm
bắt được ngun nhân hoặc ít ra cũng có thể tìm hiểu được tâm tư tình
cảm của đối tượng về vấn đề mà giáo viên đang quan tâm.
¥ lớp 11C khóa học 2002-2005 Trường THPT Lê Văn Linh khi tôi
ra đề văn "Suy nghĩ của em về nghề nghiệp tương lai", em Lê Ngọc TÊnmột học sinh cá biệt, hay bỏ giờ đã viết: "Em rất thích trở thành bác sü
thú y để chữa bệnh cho những con vật. Nhưng đã muộn mất rồi. Em đành
để cho mình trượt dài, trượt mãi sang thế giới bên kia" Đây là bài viết thể
hiện tâm lý bi quan, chán nản, tuyệt vọng do có những nhận thức sai lầm.
Nếu khơng kịp thời phát hiện "Chữa trị" thì hậu quả sẽ khơn lường.
Như vậy việc phân loại bài làm nhất là về phương diện nội dung có
thể nói là việc làm hữu ích vì thực chất cũng chính là sư phân loại đối
tượng học sinh để tìm ra các đối tượng cần quan tâm giúp đỡ, giáo dục.
Một vấn đề nữa là khi chấm bài làm văn Nghị luận xã hội, Giáo
viên nên chú ý đánh giá những bài làm thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình
cảm đúng đắn, chân thật. Có thể bài làm đó có những điểm chưa đạt về
hình thức nhưng rất cần trân trọng những nhận thức đúng đắn và tình cảm
chân thật của các em. Nếu vì lỗi hình thức mà cho điểm kém thì chưa chắc
đã là một biện pháp giáo dục hay. Mặc dù việc cho điểm bài làm văn của
học sinh hiện nay còn nhiều điều đáng bàn nhưng theo tôi khi chấm điểm

ta nên đặt ra những yêu cầu nhất định cả về nội dung và hình thức đối với
bài làm của học sinh. Thực hiện đúng u cầu đó thì cho điểm 10. Khơng
thực hiện được bao nhiêu % thì trừ đi. Như nhà giáo Đỗ Kim Hồi đã nói:
"Nên xuất phát từ điểm 10 để suy ra điểm 5, chứ không nên từ điỈm 5 để
suy ngược mãi lên điểm 10". Việc cho điểm không phải là cách để cải
thiện chất lượng học văn cũng như đạo đức học sinh. Nhưng chúng ta phải
cho điểm để làm sao lần sau học sinh vẫn mạnh dạn viết ra được những
điều các em đã nghĩ, đã nhận thức.


2. Trả bài
Chương trình của bộ mơn Văn trong nhà trường có một đặc điỈm là
có thêm các tiết trả bài. Đây cũng là một tiết học nên giáo viên phải thực
hiện đầy đủ tuần tự các bước lên lớp như:
- Yêu cầu và hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề
- Nhận xét chung về ưu, khuyết điểm của bài làm
- Chữa lỗi về hình thức và nội dung
- Cơng bố kết quả
- Bài tập vận dụng
Giờ trả bài là khâu cuối cùng hồn chỉnh mục đích của việc ra đề
văn. Vì vậy, ở bước thứ nhất giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện
việc tìm hiểu đề lại. Sau đó giả viên nhấn mạnh vấn đề mà đề bài yêu cầu,
chỉ ra những dẫn chứng thực tế trong đó có những biểu hiện mang tính
tính cực lẫn tiêu cực có liên quan đến đề.
Sau khi nhận xét chung và chữa một số lỗi về hình thức và nội dung
trong bài làm của học sinh, giáo viên có thể đọc một số bài văn tiêu biểu
đã được phân loại khi chấm bài và cho các học sinh khác nhận xét. Đó
cũng là một lần giáo dục các em.
Riêng đối với những học sinh có nhận thức sai lầm, lệch lạc hoặc
có tâm sự riêng thì tùy từng trường hợp cơ thể giáo viên có thể gặpp gì,

trao đổi ngoài giờ.

IV.kết quả thực nghiệm

1. Kết quả chung
Thực hiện ý tưởng của mình, trên cơ sở bám sát chương trình phân
môn Làm văn, từ năm học 2000-2001 đến nay tôi đã thường xuyên ra đề
văn Nghị luận xã hội cho tất cả các lớp mà tôi được phân công giảng dạy
tại trường. Đồng thời tôi cũng đã trao đổi vấn đề này với các đồng nghiệp,
được các thầy cô nhất trí cao và cùng thực hiện ở các lớp khác. Kết quả là
chất lượng giáo dục đạo đức và một số mặt khác trong nhà trường được
nâng lên một cách rõ rệt.


Theo thống kê của Nhà trường, kết quả rèn luyện đạo đức của học
sinh từ năm học 1999- 2000 đến năm học 2003- 2004 như sau:
Tốt

Khá

Trung bình

(Tư lệ%)

(Tư lệ%)

1999- 2000

73,20


2000- 2001

XL

Kém

(Tư lệ%)

Yếu
(Tư lệ %)

(Tư lệ%)

20,38

5,90

0,52

0,00

73,8

19,81

5,90

0,49

0,00


2001- 2002

74,5

19,44

5,70

0,46

0,00

2002- 2003

76,20

17,86

5,50

0,44

0,00

2003- 2004

78,70

15,40


5,50

0,40

0,00

N.H

Trong những năm qua, năm nào Nhà trường cũng được đánh giá là
trường có nề nếp tốt trong số các trường THPT trên địa bàn.
Việc tu dưỡng rèn luyện đạo đức của mỗi người là cả một quá trình
thường xuyên liên tục và phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì vậy những con số
trên chỉ là những kết quả bước đầu và cũng chưa nói lên được điều gì lớn.
Tuy vậy cũng là sự động viên, khích lệ bản thân trong q trình nghiên
cứu.
Có những học sinh sau khi ra trường đã gửi về trường những dịng
thư đầy xúc động:
"Thầy, cơ kính mến!
… Vậy là đã hai năm em xa trường. Trường mình giờ chắc đã đổi khác
rất nhiều… Nhưng mái trường Lê Văn Linh vẫn mãi là dịng sơng hiền
hịa tắm mát các thế hệ học sinh. Mỗi lớp học như những con đị, thầy cơ
là người chèo lái con đị ấy… Tất cả chúng em- những học sinh tị mái
trường Lê Văn Linh ra đi đều mang theo trong mình một lịng kính trọng
và biết ơn các thầy cơ. Cảm ơn các thầy cô đã cho chúng em những kiến
thức để hôm nay chúng em vững bước vào đời…"
(Thư của học sinh Lê Thị Thúy Khóa học 1999-2002)
"Các thầy các cơ kính nhớ!
… Vậy là thế hệ học trò thứ hai của trường Lê Văn Linh tất cả đã
trưởng thành. Chúng em mỗi ngưêi đã chọn con đường đi riêng cho mình

để lập nghiệp nhưng luôn ghi nhớ lời thầy cô dạy bảo. Dù đi đâu, làm gì


chúng em vẫn lấy cái thiện làm mục tiêu chính. Hơm nay nhân ngày nhà
giáo Việt Nam em chẳng có gì để tặng thầy cơ ngồi tấm lịng của người
học trò đã từng vinh dự được học dưới mái trường thân yêu và còn rất trẻ
này…"
(Thư của học sinh Trịnh Thanh Hưng Khóa học 1999-2002)
"… Em khơng biết nói gì hơn ngồi lời cảm ơn thầy cơ đã dìu dắt
chúng em đi qua những con ®­ång đầy sỏi đá để vươn tới ước mơ của
mình. Bây giờ em mới hiểu được rằng thế giới này thật là rộng lớn và
những gì mình có chưa đủ để làm métcon người hồn thiện. Chúng em
phải học và học nữa. Cho đến lúc này em đã đạt được ước mơ của mình
nhưng em vẫn thấy ân hận và hối tiếc những tháng ngày đã qua chúng em
chơi mà quên đi học hành và không nghe lời thầy cô…"
(Thư của học sinh Lê Công Huyên Khóa học 2000-2003)

2. Kết quả cụ thể ở một số lớp và cá nhân học sinh.
a . Đối với tập thể lớp
Tôi đã tiến hành ra đề văn nghị luận xã hội thuộc các nhóm đề đã
phân loại cho tất cả các lớp được phân công giảng day.
Dưới đây là một vài trường hợp:
* Trước tình trạng học sinh khi kiểm tra, thi cử thường sử dụng tài
liệu, nhìn bài của bạn hoặc nộp giấy trắng ( Nguyên nhân là do các em
không chịu học, lười suy nghĩ, trông chờ û lại vào tài liệu), bài kiểm tra số
2 năm học 2000- 2001 tôi đã ra một số đề thuộc Nhóm 1 cho các lớp 11B,
11D, 11I. Kết quả thu được về hiện tượng sử dụng tài liệu… ở bộ môn
văn như sau:
Lớp


Số
HS

Trước khi ra đề

Trong khi làm bài

Sau khi trả bài

SL

%

SL

%

SL

%

11 I

55

55

100

30


54,5

15

27,3

11B

55

55

100

40

72,7

25

45,5

11D

53

53

100


40

75,5

27

50,9


Con số này tiếp tục giảm sau khi các em đã xác định được khối thi
vào Đại học- Cao đẳng…
*Lớp 12A năm học 2003- 2004:
Lớp có một bộ phận học sinh có ý thức học tập kém khơng nghe
lời bố mẹ, thầy cô. Khi kiểm tra bài viết số 1 tơi đã ra đề: Ngạn ngữ Trung
quốc có câu "Con cái ngoan làm cho cha mẹ hạnh phúc, con cái hư là kẻ
đào mồ chơn cha mẹ chóng".
Kết quả khảo sát vỊt tinh thần ý thức học tập trên lớp ở bộ môn văn
sau khi trả bài như sau:

Thái độ
học tập
Tập trung
Thiếu
trung
Bỏ giờ

tập

Trước khi ra đề


Sau khi trả bài

SL

Tư lệ%

SL

Tư lệ%

30/54

55,6

42/54

77,8

20/54

37

12/54

22

4/54

7,4


0

0

Bốn học sinh thường xuyên bỏ giờ nói tới ở trên là các em: Phạm
Phó Thành, Lê Trung Trường, Hồng Xuân Dòng, Trần Đăng Tiên. Khi
làm đề văn này các em đã thể hiện suy nghĩ và nhận thức của mình:
Bài văn của học sinh Lê Trung Trường có đoạn viết: "Trong gia
đình con cái như ngọn nến. Nến sáng thì nhà cửa sẽ sáng và ấm áp. Nếu
nến tắt thì nhà cửa thật tối đen, lạnh lẽo. Con cái ngoan hiền, thành đạt
nên người như ngọn nến đang cháy sáng thì gia đình ln hạnh phúc. Con
cái hư hỏng lầm đường lạc lối như ngọn nến lụi dần rồi tắt thì gia đình
khơng được n, mỗi người một nơi".
Học sinh Phạm Phó Thành thì viết:
"Hạnh phúc của con tìm được là nhờ những nếp nhăn, những nỗi
nhọc nhằn hằn sâu trên khn mặt mẹ, những sợi tóc bạc của cha… và
chúng ta phải biết tìm niềm hạnh phúc cho cha mẹ… Chúng ta phải biết ý
thức trong từng việc làm của mình. Phải đi đến nấc thang của sự thành
đạt. Cha mẹ luôn dõi theo từng bước chân của chúng ta. Vì vậy chúng ta
phải học hành chăm chỉ, giỏi giang thì đó chính là niềm hạnh phúc của
cha mẹ…Những nếp nhăn, những sợi tóc bạc của cha mẹ chính là do


chúng ta mang lại cùng thời gian. Bây giờ chúng ta lại phụ lịng cha mẹ
thì chúng ta q tàn nhẫn và bất hiếu. Tuổi thơ của chúng ta đã cướp đi
của cha mẹ tuổi thanh xuân và sức khỏe, khi trưởng thành chúng ta lại
cướp đi niềm tin của cha mẹ giành cho chúng ta. Ôi bất hiếu thay!..."
Học sinh Trần Đăng Tiên cũng đã bộc lộ những điều rất thật vÌ
mình :

"… bản thân tơi trước đây ln là một đứa con ngoan- Gia đình tơi
vốn có nề nếp. Cha mẹ luôn vui vẻ làm việc mặc dù vất vả. Nói chung gia
đình tơi ln hạnh phúc, làng xóm ln ca ngợi tơi là hiền. Vậy mà khơng
ai có thể nói trước được điều gì. Năm 15 tuổi với một chút nổi trội tơi đã
có quan hệ rộng rãi, bạn bè nhiều. Với xã hội khơng có điều gì là đơn
giản. Bạn bè rủ rê, bản thân khơng tự chủ. Vậy là tơi đã có những cuộc đi
chơi thâu ngày đêm. Cuộc đời tơi đã quayvỊ một hướng hồn tồn khác,
mọi người khơng thể tưởng tượng nổi… Tơi bây giờ muốn quay lại nhưng
thời gian không chờ đợi, nó cứ tiếp tục vận chuyển. Vậy là tơi vẫn là tơi,
ln trơi theo dịng chảy của thời gian để có một kết quả như ngày nay:
Cha mẹ buồn rầu, luôn nghi ngờ tôi, tất cả mọi việc tôi đều bị giám sát…
Có thể nói tơi đã tự chơn vùi mình và đã đào mồ chơn cha mẹ…"
Trong thực tế vẫn có những bài văn viết sáo khơng xuất phát từ
nhận thức, tâm tư, tình cảm của mình. Nhưng đó không phải là tất cả.
Những học sinh kể trên sau bài làm đó đã có những thay đổi rõ rệt cả về ý
thức học tập và tư cách đạo đức.
* ở lớp 11C năm học 2003- 2004 để thăm dò việc định hướng nghề
nghiệp của học sinh, khi kiểm tra bài viết số 5 tôi đã ra đề : "Suy nghĩ của
em về nghề nghiệp tương lai" . Kết quả khi chấm bài có:
- 28/56 (50%) học sinh đã có định hướng nghề nghiệp.
- 17/56 (31%) học sinh còn phân vân chưa biết chọn nghỊ gì.
- 11/56 (19%) học sinh còn chưa nghĩ đến.
Kết quả trên cho thấy một vấn đề đáng lo ngại nên phần bài tập vận
dụng sau giờ trả bài tôi đã ra đề : "Em hãy giải thích lời căn dặn của Tố
Hữu với thanh niên "Thanh niên phải biết ước mơ và hành động". Từ đó
nói lên ước mơ của mình về nghề nghiệp sau này".


×