Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

SKKN: Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.7 KB, 13 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG HỌC SINH
YẾU KÉM


SƠ LƯỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC
________________________________________________________________

I. THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN
1. Họ và tên: Phạm Thị Vân.
2. Ngày tháng năm sinh: 06/06/1975.
3. Nam, nữ: Nữ
4. Địa chỉ: 1472 tổ 1, ấp 1, xã Tà Lài, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai.
5. Điện thoại: Cơ quan: 0613 791029
ĐTDĐ: 0988 502 877
6. Fax:
7. Chức vụ: Giáo viên dạy lớp.
8. Đơn vị cơng tác: Trường Tiểu học Nguyễn Trung Trực.
II. TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO
- Học vị (hoặc trình độ chun mơn, nghiệp vụ) cao nhất: Cử nhân khoa
học.
- Năm nhận bằng: 2007.
- Chuyên ngành đào tạo: Giáo dục Tiểu học – Hệ đào tạo từ xa.
III. KINH NGHIỆM KHOA HỌC
- Lĩnh vực chun mơn có kinh nghiệm: Dạy lớp bậc Tiểu học.
Số năm có kinh nghiệm: 14 năm.
- Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây:
Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém (Đã được
Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2008 – 2009 cơng nhận ).


Vận dụng phương pháp tích cực vào việc dạy giải Tốn có lời văn cho
học sinh lớp 4 (Đã được Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2009 – 2010
công nhận).
Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém (Đã được
Hội đồng thẩm định SKKN năm học 2010 – 2011 công nhận ).
Một vài kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm ở lớp Bốn (Đã được Hội
đồng thẩm định SKKN năm học 2011 – 2012 công nhận ).


Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HỌC SINH YẾU KÉM
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vấn đề học sinh yếu kém luôn là vấn đề được được tất cả các ngành, các
cấp và toàn xã hội quan tâm. Đặc biệt vấn đề này càng được ngành giáo dục
Việt Nam hết sức chú trọng trong các năm học gần đây và đã đưa vào nội
dung của cuộc vận động “Hai không” để triển khai thực hiện sâu rộng trong
tồn ngành. Thật xót xa làm sao khi mà hằng ngày, hàng giờ, các phương tiện
thông tin đại chúng vẫn đưa tin về khơng ít học sinh đang “ngồi nhầm lớp”,
thậm chí có em đã lên học cấp THCS mà vẫn chưa đọc thông, viết thạo, …
Để học sinh yếu kém, “ngồi nhầm lớp” thực sự là một cái “Tội” – Tội của
thầy và tội cho cả học sinh.
Thực tế cho thấy, bên cạnh số học sinh khá - giỏi, trong một lớp học bao
giờ cũng có vài em học sinh yếu kém. Điều đó đã dẫn đến sự chênh lệch về
trình độ tiếp thu của các em và nhất là đối với học sinh yếu kém thì học tập
quả là một gánh nặng. Gánh nặng đó, khiến các em khó vượt qua để theo kịp
với các bạn trong lớp.
Qua 15 trực tiếp giảng dạy, tơi đã gặp khơng ít học sinh yếu kém, các em
yếu kém ở nhiều dạng khác nhau, điều đó đã gây khơng ít khó khăn cho công
tác chủ nhiệm của tôi. Vậy làm cách nào để tạo động cơ học tập cho học sinh
yếu kém ? Đó chính là vấn đề mà tơi và tất cả các đồng nghiệp ln trăn trở

và cần có hướng giải quyết ngay từ khi vừa nhận lớp.
Từ các lí do trên, sau nhiều năm vận dụng và chọn lọc, tôi mạnh dạn đưa
ra “Một số biện pháp để nâng cao chất lượng học sinh yếu kém”.
II. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Bác Hồ đã từng căn dặn học sinh: “Non sơng Việt Nam có trở nên tươi
đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với
các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công
học tập của các em….”
Muốn thực hiện tốt lời căn dặn đó của Người, địi hỏi mỗi học sinh Tiểu
học phải đạt được các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng của lớp mình đang
học. Thế nhưng, trong một lớp học, bao giờ cũng có vài em chưa thực sự đạt
đến chuẩn đó, khiến cho giáo viên phải mất nhiều thời gian và công sức để
kèm cặp mà hiệu quả đôi khi không được như mong đợi. Vì vậy, khơng giáo
viên nào muốn lớp mình phụ trách có học sinh yếu kém. Nhưng, sự xuất hiện
của những học sinh này lại là điều khó tránh khỏi. Năm học này có vài em,
năm học sau lại xuất hiện vài em. Và cũng khơng ít giáo viên đã xếp các em
học sinh yếu kém vào diện học sinh cá biệt. Đây quả là một sai lầm đáng
tiếc, bởi lẽ, một học sinh yếu kém vẫn có thể là một học sinh ngoan, chuyên
cần, lễ phép, … Còn một học sinh được xem là cá biệt chỉ khi học sinh đó có
vấn đề gì đó chưa ổn về đạo đức, lối sống,…


Thực tế cho thấy, khơng có học sinh dốt mà chỉ có học sinh khơng biết
cách học hoặc khơng được giáo dục đúng cách. Nhìn chung, học sinh yếu kém
có một số đặc điểm chung là:
- Tâm lí khơng được ổn định, thiếu sự tự tin trong học tập.
- Một số em ngơn ngữ tiếng Việt cịn bị hạn chế (nhất là những học sinh
dân tộc Tày ở khu vực ấp 6, ấp 7 của xã Tà Lài).
- Khả năng tư duy, ghi nhớ, năng lực khái quát hóa, tổng hợp hóa cũng

hạn chế dẫn tâm lý ngại đến lớp, ngại học bài và làm bài.
- Khả năng tập trung chú ý khơng bền.
- Thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình và sự hỗ trợ của cộng đồng.
- Do bị mất căn bản mà không được phụ đạo kịp thời, dễ chán nản khi
thấy việc học quá sức của mình.
- Do chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học, lơ là, chểnh mảng
trong học tập, đến trường cho có lệ, học khơng có mục đích, kết quả cuối cùng
là học tập sa sút, đi dần đến yếu kém.
2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài.
Theo tôi, biện pháp giáo dục học sinh yếu kém hữu hiệu nhất chính là cần
xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho các em, nghĩa là động cơ phải xuất
phát từ chính việc học, học tập để có kết quả tốt, để mai sau trở thành một
công dân tốt, một người lao động năng động, sáng tạo. Bởi lẽ, động cơ tạo nên
động lực học – một thành tố quan trọng trong cấu trúc hoạt động học tập của
trẻ.
 Để giúp các em học sinh yếu kém vươn lên theo kịp với trình độ
chung, ngay từ những ngày đầu vừa nhận lớp, tôi đã thông qua nhiều kênh
thơng tin để nắm bắt chính xác số lượng học sinh yếu kém và phát hiện những
học sinh có dấu hiệu sa sút, chểnh mảng việc học. Tìm hiểu nguyên nhân vì
sao các em yếu kém ? Từ đó tơi định hướng những biện pháp giáo dục phù
hợp cho từng trường hợp cụ thể.
Muốn làm được điều này, tôi đã thông qua nhiều nguồn như:
Thứ nhất, thông qua nghiên cứu lí lịch học sinh, tơi sẽ nắm được hồn
cảnh gia đình; điều kiện kinh tế; nghề nghiệp của phụ huynh; gia đình đơng
con hay ít con; phụ huynh có quan tâm đến việc học tập của con cái hay
không; các mối quan hệ bạn bè; điều kiện về sức khỏe, năng lực của trẻ,...
Thứ hai, thông qua nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: học bạ, sổ liên
lạc, biên bản bàn giao chất lượng và kết quả bài khảo sát chất lượng học sinh
đầu năm, … tôi sẽ nắm được mặt mạnh cũng như mặt hạn chế của từng học
sinh trong lớp. Từ đó tơi đề ra kế hoạch dạy học cho cả lớp nói chung và đặc

biệt là kế hoạch phụ đạo cho từng học sinh yếu kém nói riêng. Tơi vừa dạy
vừa theo dõi để phát hiện kịp thời các lỗ hổng trong kiến thức mà học sinh vấp
phải cũng như tham khảo ý kiến của giáo viên lớp trước để đưa ra những nhận
định chính xác nhất và phân loại học sinh yếu kém theo các nhóm để đề ra
giải pháp dạy học phù hợp.


Ví dụ: Nhóm yếu tốn về cộng, trừ; nhóm yếu về nhân, chia, nhóm
khơng biết giải tốn có lời văn; nhóm đọc chưa thơng, phải nhẩm vần, nhóm
viết chậm,
mắc nhiều lỗi chính tả; nhóm gặp khó khăn khi tìm từ diễn đạt, ý để đặt
câu;…
Tùy vào tình hình thực tế mà tơi có thể phân ra nhiều nhóm đối tượng cụ
thể hơn. Khi đã tách được từng loại đối tượng như thế, tơi có các hình thức và
phương pháp đặc trưng phù hợp với từng nhóm đối tượng.
Chẳng hạn, với những em yếu về cộng, trừ, tôi cho các em giải các bài tập
riêng: cộng, trừ với các số có 2 – 3 chữ số, từ khơng nhớ đến có nhớ ở 1 hàng,
dần dần nâng lên có nhớ ở 2 hàng (khơng ra các bài tập cộng, trừ có nhớ ở 2
hàng liên tiếp nhau và có thể cho các em sử dụng que tính để tính tốn và loại
bỏ que tính dần dần theo sự tiến bộ của các em).
Đối với những em yếu về đọc, trong giờ Tập đọc, tôi cho các em đọc một
câu hoặc một đoạn ngắn, gợi ý thêm một số câu hỏi phụ chỉ cần trả lời vài từ
để các em trả lời, cho các em điền từ còn thiếu vào các câu đơn giản (để hình
thành các sự kiện trong bài đọc). Thường xuyên mời các em đọc một vài đoạn
ngắn ở các môn học khác để nâng cao dần kĩ năng đọc cho các em.
Thứ ba, tôi thông qua trao đổi với phụ huynh học sinh để nắm bắt được
sự quan tâm giáo dục hay thờ ơ của họ. Từ đó có sự tư vấn và phối hợp chặt
chẽ giữa giáo viên và phụ huynh để cùng thống nhất đề ra biện pháp giáo dục
khả thi nhất nhằm phát huy những mặt mạnh của học sinh và loại trừ dần
những mặt cịn hạn chế.

Đồng thời, tơi ln quan tâm, trao đổi, lắng nghe ý kiến của học sinh, lấy
tình yêu thương để giáo dục các em, tạo ra động cơ học tập cho học sinh.
Khuyến khích, động viên các em nói lên những mong muốn, khó khăn của
mình. Từ đó, tơi nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng, sở thích, thái độ trong
quan hệ với mọi người của học sinh. Và cũng từ đây, tôi sẽ phát huy sở trường
của học sinh, tạo động lực kích thích các em học tập.
Ví dụ: Năm học 2009 – 2010, lớp tơi có em Trần Quốc Đạt hạn chế về
mặt phát âm. Em chỉ nói và đọc được phần vần của tiếng cịn phụ âm đầu
phần lớn là em không đọc được. Các bạn trong lớp thường cười ầm lên mỗi
khi em đọc bài hoặc phát biểu. Mỗi lần như thế, tôi thấy được sự buồn tủi trên
gương mặt của em, dần dần em sống co mình lại, khơng chịu đọc bài (nếu có
đọc thì đọc rất nhỏ) và khơng tham gia phát biểu xây dựng bài dẫn đến sức
học của em ngày càng sa sút. Nắm được điều đó, tơi đã gặp riêng từng học
sinh trong lớp, nói cho các em biết khơng được cười bạn, vì làm như thế là
độc ác. Vào giờ Tập đọc, tôi mời em đọc bài và khuyến khích em phát biểu
thật nhiều, khen ngợi khi em có những ý kiến hay, hướng dẫn em đọc đúng
tiếng có phụ âm đầu vào giờ chơi, giờ hoạt động tập thể. Từ đó, các bạn trong
lớp quên dần việc em Đạt đọc ngọng, còn Đạt dần dần lấy lại sự tự tin, đọc đỡ
ngọng hơn.
 Bước tiếp theo tôi phân loại và chia nguyên nhân dẫn đến tình trạng
yếu kém của học sinh thành 3 loại chính để đề ra biện pháp giúp đỡ các em.
a) Yếu kém do hoàn cảnh gia đình:


Tơi nhận thấy, học sinh yếu kém do hồn cảnh gia đình chủ yếu do các
nguyên nhân như:
- Vì cuộc sống gia đình q khó khăn, thiếu thốn về kinh tế, gia đình
đơng con, cha mẹ có thu nhập khơng ổn định, đau ốm, bệnh tật,… trẻ phải phụ
giúp bố mẹ làm một số cơng việc nào đó để kiếm tiền, phải trơng em, làm cỏ,
chăn bị, …, khiến trẻ khơng có điều kiện và thời gian dành cho việc học, dẫn

đến học tập sa sút, trẻ sinh ra chán nản, lười học.
- Do gia đình bất ổn như cha mẹ khơng hịa thuận, li hơn, trẻ phải sống
với cha hoặc mẹ hoặc ơng bà, cơ bác. Trẻ ít được quan tâm, mất đi chỗ dựa từ
phía gia đình. Trẻ sống “co mình” lại, mất dần đi hứng thú học tập.
- Do kinh tế gia đình khá giả, cha mẹ chỉ lo kiếm tiền, ít quan tâm đến
việc học tập của con. Họ nghĩ rằng thương con chính là cho tiền con tiêu xài
thoải mái mà không nghĩ đến cần phải rèn luyện cho con thói quen học tập.
Chính vì quá nuông chiều con như vậy nên đứa trẻ sinh ra tính ỷ lại vào cha
mẹ, ham chơi hơn ham học, suốt ngày chìm đắm trong các trị chơi điện tử,
lực học cứ thế mà sa sút dần.
Với các em yếu kém do hồn cảnh gia đình, tơi đã có các biện pháp
như sau:
- Giúp học sinh xây dựng thói quen tự học. Đây chính là biện pháp hữu
hiệu nhất trong việc nâng cao chất lượng cho học sinh yếu kém. Bởi lẽ, thời
gian học sinh ở trường chỉ có 4 giờ, thời gian chủ yếu là ở nhà vì vậy vấn đề
tự học là vô cùng quan trọng. Để làm được điều này, tơi đã phối hợp với gia
đình các em có học lực yếu để giúp đỡ các em về điều kiện học tập (góc học
tập, dụng cụ học tập, đồng hồ báo thức,…) và thời gian học tập (chẳng hạn, từ
5 giờ đến 6 giờ: học bài, từ 19 giờ đến 20 giờ 30 phút: làm bài tập) và tùy
hồn cảnh của mỗi em mà tơi có thể kèm trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua
bạn cùng lớp, gần nhà.
- Trao đổi trực tiếp với phụ huynh
học sinh. Thông qua các buổi họp phụ
huynh học sinh hoặc các buổi thăm
viếng của giáo viên, tơi đã tìm hiểu để
nắm bắt được hồn cảnh giáo dục, khơng
gian học tập cũng như sự quan tâm của
gia đình đối với trẻ. Từ đó thống nhất
với phụ huynh các biện pháp giáo dục
học sinh ở trong và ngoài nhà trường.

- Tạo mối quan hệ mật thiết giữa
Trao đổi với Phụ huynh học sinh
giáo viên và phụ huynh. Hợp tác giữa
giáo viên và phụ huynh là điều cần thiết để học sinh học tập và rèn luyện. Qua
đó, giáo viên sẽ thơng tin kịp thời đến phụ huynh về kết quả học tập, hạnh
kiểm, các mặt tham gia hoạt động, … của học sinh. Thông qua sổ liên lạc,
giáo viên và phụ huynh cần phải có sự liên kết hai chiều nhằm có biện pháp
tác động phù hợp. Động viên khuyến khích khi các em tiến bộ, uốn nắn kịp
thời khi các em có biểu hiện sa sút. Đồng thời, giáo viên lưu ý phụ huynh cần
quan tâm đến việc đọc sách và xem phim của trẻ cũng như các mối quan hệ
bạn bè của con mình.


- Mời phụ huynh gặp mặt: Đây là biện pháp tốt nhưng không nên lạm
dụng. Giáo viên chỉ mời phụ huynh khi thật sự cần thiết để bàn bạc biện pháp
giáo dục các em. Tuyệt đối không được trao đổi, phê bình học sinh trước lớp.
- Tạo điều kiện tốt nhất về thời gian để học sinh có thể hồn thành bài học
ngay lại lớp. Tạo điều kiện cho các em được tham gia vui chơi, hoạt động tập
thể.
- Đối với những em yếu kém do kinh tế gia đình khó khăn, tơi đã đề xuất
với Ban Giám hiệu nhà trường và địa phương để có hướng hỗ trợ cho các em
về mặt vật chất như giúp cho em tập vở, sách giáo khoa, … để em có thể an
tâm học tập.

Mạnh thường quân tặng quà, đồ dùng học tập cho học sinh nghèo vượt khó.

- Biện pháp tối ưu nhất vẫn là sự quan tâm, thương yêu của giáo viên đối
với học sinh. Làm nghề giáo muốn thành công phải thật sự u nghề, mến trẻ.
Bởi chỉ có lịng yêu thương thật sự chúng ta mới quan tâm, chăm sóc, mới tìm
hiểu và khích lệ trẻ. Nhất là đối với các em thiếu sự quan tâm của gia đình thì

sự động viên, khích lệ của giáo viên sẽ giúp các em tự tin hơn, thích được bộc
lộ mình hơn.
Ví dụ: Năm học 2010 - 2011, lớp 4/3 do tôi chủ nhiệm có em Sầm Văn
Hồng học kém ở tất cả các môn, em lại thường xuyên không học bài và làm
bài ở nhà. Qua tìm hiểu, tơi được biết bố mẹ em đã li hôn, em đang sống với
bà ngoại. Thương cháu côi cút, bà ngoại em cứ hay cho tiền em để ăn quà, từ
đó em sinh ra nghiện chơi games, sao nhãng dần việc học.
Tơi đã tìm gặp bà ngoại của em trao đổi, đề nghị bà quản lí chặt giờ giấc
của em và khơng cho tiền nữa để em “cai nghiện” games. Ở lớp, tôi tranh thủ
phụ đạo cho em vào thời gian chuyển tiết. Hằng tuần, tơi cịn kèm thêm cho
Hồng vào chiều thứ ba. Đồng thời, tơi cịn biểu dương, khen ngợi mỗi khi em
có sự cố gắng hay tiến bộ.
Được sự động viên, khích lệ, giúp đỡ từ phía giáo viên và gia đình em đã
học
tập chăm chỉ hơn. Cuối năm học, tuy em chỉ được xếp loại trung bình nhưng
tơi rất vui vì sự tiến bộ của em.
b) Yếu kém do mất căn bản hay gọi cách khác là bị hổng kiến thức:
Đối với dạng yếu kém này, tôi đã thường xuyên thực hiện các biện pháp
sau:
- Giúp các em hiểu được phần cốt lõi của của bài cũ trước khi học bài
mới. Phương pháp dạy học cơ bản đối với học sinh yếu kém là giúp học sinh


tích cực, tự tin tham gia học tập bằng những câu hỏi, bài tập có nội dung vừa
sức để các em có thể thực hiện được. Đồng thời, tơi cịn thường xuyên giúp
các em hệ thống kiến thức theo chương trình bằng cách bám sát yêu cầu cơ
bản của chuẩn kiến thức, kĩ năng để lựa chọn nội dung, thời lượng, phương
pháp và hình thức thích hợp, kể cả việc sử dụng các đồ dùng dạy học gần gũi
với cuộc sống xung quanh của học sinh. Nội dung phụ đạo ghi chép ở một vở
riêng để tôi dễ kiểm tra, đánh giá, ghi điểm (học sinh bậc Tiểu học rất thích

được thầy cơ chấm điểm). Mục đích của các việc làm này là để học sinh có
thể luyện tập kiến thức mới và ôn lại kiến thức đã học.
- Sắp xếp lại chỗ ngồi cho học sinh yếu kém. Chẳng hạn, cho các em ngồi
bàn đầu để giáo viên dễ kèm cặp, cho ngồi gần các bạn học khá, giỏi để các
bạn ấy giúp đỡ thêm, thành lập “Đôi bạn cùng tiến”, …
- Quan sát và theo dõi từng hoạt động của các em bằng nhiều hình thức tổ
chức (thi đua cá nhân, thi đua tổ nhóm, đố vui, giải trí,…), phân cơng cụ thể
nhiệm vụ cho từng em, đặc biệt là học sinh yếu kém. Kết hợp kiểm tra thường
xuyên việc học của các em mỗi ngày nhằm rèn thói quen học bài và làm bài,
kích thích hoạt động trí tuệ cho các em.
- Lập kế hoạch giúp đỡ từng học sinh, phụ đạo bổ sung kiến thức bị
hổng, kiến thức cơ bản trong từng tiết học và phụ đạo ngoài giờ vào các ngày
nghỉ. Kết hợp học kiến thức mới với ơn luyện kiến thức cũ. Có nghĩa là trong
suốt quá trình giảng dạy, thực hiện chương trình đều chú ý đến công tác phụ
đạo học sinh yếu kém. Từng bài Giáo án, từng giờ lên lớp phải chú trọng đến
nội dung câu hỏi, thời lượng cần thiết cho đối tượng học sinh yếu kém. Không
chủ quan, trông chờ vào kế hoạch phụ đạo
của nhà trường mà phải tự đề ra kế hoạch,
nội dung phụ đạo cho từng đối tượng học
sinh yếu kém. Điều quan trọng là tôi khơng
dạy nhiều kiến thức cùng một lúc, dạy ít
nhưng phải chắc chắn và phải đảm bảo cả
ba yêu cầu: Học sinh hiểu mình đang học
cái gì; bài tập vừa sức để học sinh có thể
hiểu và làm được; thời gian dành cho các GV trực tiếp kèm thêm vào chiều thứ năm
em giải quyết cơng việc có thể nhiều hơn
so với các học sinh khác.
- Tạo môi trường học tập thân thiện giữa thầy và trò, giữa học trò với
nhau, khơng có sự phân biệt đối xử mà phải biết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Thực vậy, nếu khơng khí lớp học thân thiện thì cả thầy và trị đều cảm thấy

thoải mái để đi đến đích của bài học mà
không phải chịu bất cứ áp lực nào. Đưa
công nghệ thơng tin vào một số tiết học
cũng có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ đối
với những học sinh yếu kém, lơi kéo các
em vào mơi trường học tập tích cực.
- Động viên, khích lệ, tuyên dương
kịp thời nhằm xác nhận sự tiến bộ ở học
sinh; kích thích sự say mê, hứng thú học
Niềm vui khi thấy bạn tiến bộ


tập cho các em, giúp học sinh tự tin là mình có khả năng học được, mình cũng
có thể giỏi như các bạn,…
Ta thấy rằng, con người ln ln có hai nhu cầu đối lập nhau là tự khẳng
định mình và đồng nhất mình với người khác. Do vậy, trong giảng dạy, giáo
viên cần nắm vững điều này để kích thích học sinh hứng thú say mê học tập.
Ví dụ: Em Lê Văn Thủy, học lớp 4/, năm học 2011 – 2012.
Thủy học yếu tất cả các môn do khả năng ghi nhớ kém, em học trước
quên sau, lại thêm ham chơi không chịu rèn luyện trong hè nên mặc dù đã học
lớp Bốn rồi mà kĩ năng đọc của Thủy còn rất hạn chế, đọc thường sai từ, thiếu
từ, viết thì 10 chữ sai đến 7 – 8; mỗi bài văn của em chỉ vỏn vẹn 3 – 4 dịng.
Khi làm tốn, dù là với những phép tính đơn giản nhất như 2 + 1 em cịn phải
xịe ngón tay để đếm….
Tìm hiểu kĩ về em, tơi biết được Thủy là một cậu bé khá hiếu động khi
chơi nhưng lại vô cùng trầm lặng khi học. Tôi đã giao cho lớp trưởng - là học
sinh giỏi cũng là bạn gần nhà giúp đỡ Thủy. Trong giờ học, tôi thường xuyên
gọi em đọc bài, mỗi lần chỉ là một đoạn ngắn. Tôi luôn động viên em cố gắng
học tập, chú ý nghe giảng, điều gì chưa hiểu cứ mạnh dạn hỏi để tôi giảng lại.
Lúc đầu, Thủy rất dè dặt, không muốn tiếp nhận sự giúp đỡ của tôi, câu nói

cửa miệng của em là “Em hiểu rồi cơ” nhưng kì thực em chẳng hiểu bài tí nào
cả, mỗi khi làm bài hoặc thi cử, dù bạn che bài cách nào Thủy cũng cóp-pi
được.
Ngồi giờ học, tơi tìm cách gần gũi em để khuyên nhủ và phân tích cho
em thấy tầm quan trọng của việc học, rằng cóp-pi bài của người khác là một
hành vi xấu, … Tôi mua tặng em vở Bài tập Toán lớp Hai và lớp Ba để em
học vào các buổi học kèm. Tơi cịn tặng em quyển truyện “Gương hiếu học
xưa và nay” của Nhà xuất bản Lao động do Trần Thanh Hà chủ biên, khuyến
khích em mỗi tuần đọc một truyện để kể lại cho cơ nghe vì “cơ bận q khơng
có thời gian đọc”. Tôi dạy em với phương châm “Mưa dầm thấm đất”, khơng
nơn nóng cũng khơng vội vàng. Và quả thật, “mưa” mãi cũng có ngày “thấm
đất”, Thủy đã dần tiến bộ hơn, trong giờ học Thủy đã chú ý nghe giảng, đơi
lúc cịn giơ tay xin phát biểu, những lúc đó tơi ln ưu tiên mời em phát biểu,
mà bỏ qua các cánh tay giơ lên của các học sinh khác. Mỗi khi em giơ tay xin
phát biểu hoặc trả lời đúng tôi đều khen ngợi và đề nghị lớp vỗ tay biểu dương
em. Bên cạnh đó, tơi cịn liên lạc thường xuyên với bố mẹ em qua điện thoại
để thông báo sự tiến bộ của em cũng như các nội dung cần kèm thêm cho em
ở nhà. Nhờ sự giúp đỡ của tôi, của bố mẹ và các bạn trong lớp, Thủy đã có
được ý thức tự học, bỏ hẳn thói quen cóp-pi bài bạn, đọc, viết, tính tốn cũng
tốt hơn. Cuối năm học, điểm học lực các môn đánh giá bằng điểm số của
Thủy đều được xếp loại khá.
c) Yếu kém do chưa nhận thức được nhiệm vụ học tập sinh ra lười
học:
Những học sinh rơi vào tình trạng trên là do thường xuyên không học bài,
không làm bài, vừa học vừa chơi, không tập trung, hay làm việc riêng, nghịch
ngợm trong giờ học, hay lo ra, … Để giáo dục các em, ngồi việc thành lập
các “Đơi bạn cùng tiến”, “Đơi bạn cùng sở thích”, xây dựng thói quen “15
phút ơn bài đầu giờ học”, tơi cịn thông qua tài liệu, qua thực tế dạy học, tham



khảo cùng tổ khối để nắm vững và phối hợp nhịp nhàng các phương pháp dạy
học, thay đổi bằng hình thức trò chơi học tập, sử dụng phong phú đồ dùng học
tập, tùy tình hình mà giao cho các em phụ trách một số công việc của lớp để
các em thấy mình là “người quan trọng”, được cơ tin tưởng và tín nhiệm, …
Mục đích là giúp các em lấy lại niềm tin, hứng thú học tập, có thể hiểu bài, tự
bản thân mình giải quyết các bài tập cơ giao. Tơi cịn động viên các bạn trong
tổ nhắc nhở và giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi các em vấp phải những lỗi trên.
Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên để ý, kiểm tra xem các em đã hiểu đến
đâu, cần bổ sung điều gì để các em có thể hiểu bài ngay tại lớp. Tăng cường
cho
các
em
luyện
tập
áp
dụng
kiến
thức
vừa
học thông qua các bài tập vừa sức,
…Tơi khơng địi hỏi một học sinh
yếu kém phải giỏi ngay lập tức. Mà
điều tôi mong muốn là sự tiến bộ
từng bước ở các em so với thời gian
trước.

Ơn bài đầu giờ ở lớp 4/2

Hình
ảnh

giờ
tự
học
của
lớp
4/2

Trao đổi PPDH trong giờ ra chơi

Ngồi ra, tơi thường xun trao đổi trực tiếp với từng đối tượng học sinh
bằng lời nói, cử chỉ, mệnh lệnh thật thuyết phục.
Do tâm lý lười học nên khi được cha mẹ nhắc nhở học bài, làm bài ở nhà,
nhiều học sinh yếu kém không ngần ngại nói dối “Cơ con khơng có cho bài tập về
nhà”. Để khắc phục tình trạng này, từ giữa học kì I năm học 2010 – 2011, tơi đã
triệt để khai thác tác dụng của Sổ liên lạc bằng cách dán thêm vài đôi giấy vào
Phần liên lạc và trao đổi (nhà trường – gia đình). Sau mỗi buổi học, tôi cho các
em chưa tự giác học tập ghi lại những việc cần làm, cần chuẩn bị trước ở nhà và
đưa cho ba mẹ xem, kí tên, ngày hơm sau tơi sẽ kiểm tra nhanh xem phụ huynh có
kí tên sau nội dung dặn dị của tơi hay khơng khi các em viết nội dung dặn dò cho
ngày kế tiếp. Mục đích của việc làm này là để phụ huynh các em biết cần nhắc
con em mình học gì, làm gì. Từ đó, lớp tơi chấm dứt hẳn tình trạng các em không
học bài, làm bài ở nhà.
Bên cạnh phương pháp giáo dục trực tiếp đến từng đối tượng học sinh. Tơi
cịn phối hợp phương pháp giáo dục tập thể bằng cách tạo ra một tập thể lớp có
tinh thần tự quản cao, tạo tinh thần đoàn kết giữa các thành viên trong lớp, có ý
thức giúp nhau cùng tiến bộ. Dùng dư luận của tập để khêu gợi động lực học tập
cho học sinh, học vì danh dự bản thân và danh dự tập thể, mỗi thành viên tự giác
điều khiển hành vi của bản thân mình.



Ví dụ: Tơi lập bảng “Hoa điểm 10” để động viên học sinh bằng cách cắm
hoa khi được điểm mười, có tổng kết, tun dương sau từng tháng để bình chọn
cá nhân và tổ xuất sắc. Tổ chức thi : “Em vui học cùng bạn trong tổ, trong lớp”
và lập bảng “Người tốt, việc tốt trong tuần”. Sau mỗi tuần có tổng kết, biểu dương
và đăng tin, đăng hình lên bảng đã lập, chẳng hạn: “Đây là bạn Thanh Thảo, tuần
vừa qua bạn ấy đã đạt được 5 điểm 10, bạn ấy còn đạt giải ba vở sạch chữ đẹp
cấp tỉnh nữa đó. Chúng ta cùng học tập bạn ấy nhé !” Đây là một hình thức giúp
học sinh phát huy năng lực của mình và thi đua học tập một cách lành mạnh.
Trong từng buổi học, tôi luôn biểu dương kịp thời những cố gắng – dù là rất
nhỏ – để khơi gợi niềm tin trong học tập cho trẻ. Bởi vì bất kì một sự khen thưởng
nào đúng lúc, đúng đối tượng đối với các em đều góp phần vào việc hình thành
nhân cách và tạo niềm tin cho trẻ. Đối với học sinh Tiểu học, giáo viên khơng nên
nặng lời hoặc phê bình học sinh trước lớp với bất kì lí do gì. Đồng thời, cần uốn
nắn kịp thời những biểu hiện sa sút ở trẻ, tuyệt đối khơng nên trách phạt các em,
vì nếu lạm dụng trách phạt sẽ hạn chế sự độc lập, sáng tạo của học sinh. Phải kiên
trì, nhẫn nại, khơng được nơn nóng, vội vàng, biết hi sinh vì lịng u trẻ.
Cuối cùng, tôi luôn kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của các em theo từng
chương, từng giai đoạn cụ thể để từ đó điều chỉnh nội dung phụ đạo sao cho thật
sát, thật phù hợp với từng đối tượng yếu kém. Đây là việc làm vô cùng quan
trọng. Tuy nhiên, việc đánh giá kết quả học tập đối với học sinh yếu cần nghiêm
túc, trách nhiệm cao nhưng cũng cần nhẹ nhàng hơn so với các học sinh khác,
đánh giá mang tính khích lệ, động viên là chính.

Bảng “Người tốt, việc tốt trong tuần”

Học sinh cắm “Hoa điểm 10”

III. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI
Sau nhiều năm vận dụng các biện pháp trên, tôi nhận thấy tỉ lệ học sinh yếu
giảm rõ rệt theo từng thời điểm. Đặc biệt, đề tài của tôi đã được triển khai ở Tổ

khối và được nhiều lớp trong trường áp dụng đạt hiệu quả. Điều này khích lệ tơi
rất nhiều trong cơng tác giảng dạy của mình. Sau đây là một minh chứng cụ thể
cho sự chuyển biến đó ở các lớp do tơi phụ trách:


NĂM
HỌC

LỚP

PHỤ
SỐ
TRÁCH

HỌC SINH YẾU
ĐẦU
NĂM
SL

GIỮA
HKI

(%) SL

CUỐI
HKI

(%) SL

GIỮA

HKII

CUỐI
HKII

(%) SL (%) SL (%)

2007-2008

4/2

32

7

21,9

5

15,6

2

6,25 0

0

0

0


2008-2009

4/2

28

7

25

5

17,9

2

7,1

1

3.6

0

0

2009-2010

4/4


24

12

50

7

29,2

3

12,5 1

4,2

0

0

2010-2011

4/3

20

4

20


3

15

2

10

0

0

0

0

2011-2012

4/2

27

4

14,8

2

7,4


1

3,7

0

0

0

0

IV. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
Như vậy, việc giáo dục học sinh yếu kém luôn là một vấn đề khó khăn và
phức tạp. Muốn làm tốt việc này, mỗi giáo viên cần phải dùng tình thương, lương
tâm và trách nhiệm của một nhà giáo để dạy dỗ các em. Cụ thể:
- Người giáo viên phải có kiến thức vững chắc, có kĩ năng sư phạm, phải
hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Phải thực sự u trẻ, coi các em như
chính con em của mình. Đồng thời phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Cẩn trau dồi thêm kiến thức, tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ nhằm nâng cao
tay nghề.
- Có tinh thần trách nhiệm cao. Phải nhiệt tình, kể cả kiên nhẫn.
- Lập và lên kế hoạch cụ thể. Hiểu và nắm bắt tình hình học tập của lớp. Cải
tiến phương pháp và hình thức và tổ chức dạy học.
- Thường xun theo dõi, nắm bắt hồn cảnh gia đình của từng em, giúp đỡ
các em có hồn cảnh khó khăn.
- Ngồi ra cịn phải kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, phối hợp với các ban
ngành đoàn thể trong nhà trường, địa phương… nhằm thắt chặt mối quan hệ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội.

Tóm lại, tùy vào tình hình từng lớp và từng đối tượng học sinh mà giáo viên
phải linh động và khéo léo vận dụng sao cho phù hợp, nhằm đạt kết quả cao trong
quá trình dạy học. Những ai yêu nghề thật sự, những người “Tất cả vì tương lai
con em chúng ta” nhất định sẽ tìm ra biện pháp giáo dục hiệu quả nhất để giáo
dục học sinh yếu.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã - đang sử dụng và đạt hiệu quả
cao trong việc giáo dục học sinh yếu kém ngay tại lớp mình phụ trách. Theo tơi,
kinh nghiệm này có thể áp dụng cho tất cả các khối lớp ở bậc Tiểu học. Tuy
nhiên, trong quá trình trình bày sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót, kính mong
sự góp ý của q đồng nghiệp để tơi hồn thiện hơn nữa đề tài của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn.
Tà Lài, ngày 18 tháng 8 năm 2012
NGƯỜI THỰC HIỆN


Phạm Thị Vân
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
- “Thư gửi các học sinh” của Hồ Chủ Tịch – Tiếng Việt 5 – tập 1 – Nhà xuất
bản Giáo Dục.
- Dạy học cho trẻ có hồn cảnh khó khăn – Tài liệu của Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo do Nhà xuất bản Thanh Niên phát hành năm 2007.
- Dạy học lấy học sinh làm trung tâm – Tài liệu của Bộ Giáo Dục và Đào
Tạo do Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm phát hành năm 2008.



×