Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

SKKN: Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi dân tộc thiểu số trường Mầm non Kim Thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 14 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN
NGỮ CHO TRẺ 5 TUỔI DÂN TỘC THIỂU
SỐ TRƯỜNG MẦM NON KIM THỦY


A. Mở đầu
V.I. Lê Nin từng cho rằng “Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với
cộng đồng. Giao tiếp là một đặc trưng quan trọng nhất của con người. Ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất”. Trong tiến trình phát triển của
lồi người, ngơn ngữ là phương tiện để con người hiểu được nhau và hoạt
động cùng nhau. Nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể truyền đạt, tiếp thu
những kinh nghiệm xã hội từ đời này sang đời khác. Nhờ ngôn ngữ mà các
thao tác muôn màu muôn vẽ của tư duy mới thực hiện được. “Ngôn ngữ là cơ
sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng của mọi kiến thức. Tất cả mọi
sự hiểu biết đều bằng ngôn ngữ, thông qua ngôn ngữ và trở lại cũng bằng
ngôn ngữ” (Usinxki).
Đối với trẻ em, ngôn ngữ là phương tiện để giáo dục trẻ một cách tồn
diện. Theo Galperin: Ngơn ngữ giữ vai trị quyết định tâm lí trẻ em. Nó giúp
trẻ mau chóng trở thành một thành viên của xã hội lồi người. Ngơn ngữ là
cơng cụ hữu hiệu để trẻ mở rộng giao tiếp với thế giới phong phú, đa dạng
xung quanh. Thơng qua đó, trẻ biết được tên gọi, đặc điểm, màu sắc, công
dụng… của chúng, biết được cái hay - dở, tốt - xấu… để phản ứng cho phù
hợp. Đồng thời nhờ ngơn ngữ, trẻ có thể bày tỏ nguyện vọng của mình từ khi
cịn rất nhỏ để người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ, tạo điều
kiện cho trẻ tham gia vào hoạt động nhằm góp phần hình thành nhân cách trẻ.

B. Nội dung
I. Cơ sở khoa học
Nội dung chương trình chăm sóc giáo dục trẻ theo hướng đổi mới của


ngành giáo dục mầm non hiện nay yêu cầu trẻ được phát triển qua 5 mặt: Thể
chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẫm mỹ, tình cảm - xã hội. Trong đó nội dung
phát triển ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của giáo
viên mầm non.
Ngơn ngữ đóng vai trị quan trọng trong quá trình giáo dục trẻ. Sự phát
triển chậm trễ về mặt ngơn ngữ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển toàn diện
của trẻ. Trường mầm non là trường học đầu tiên của trẻ. ở đây trẻ có điều kiện
và cơ hội nhiều hơn để phát triển ngơn ngữ.
Tuổi mẫu giáo trẻ đang trong q trình học nói, việc cung cấp vốn ngơn
ngữ cho trẻ là nhiệm vụ cần thiết để thực hiện nội dung chương trình chăm
sóc giáo dục mầm non mới nhất là Tiếng Việt và đặc biệt là đối với trẻ dân
tộc thiểu số. Bởi vì phần đa các cháu dân tộc thiểu số đều dùng tiếng mẹ đẻ
trong tất cả các quá trình giao tiếp, chỉ khi được đến trường các cháu mới
dùng Tiếng Việt do đó việc tiếp thu lời giảng của cô bằng ngôn ngữ Tiếng


Việt là vấn đề vơ cùng khó khăn đối các cháu mầm non. Chính vì thế, việc
phát triển ngơn ngữ Tiếng Việt cho trẻ dân tộc thiểu số là vấn đề được Đảng
và Nhà nước vô cùng quan tâm nhằm hình thành và phát triển những kĩ năng
cần thiết cho trẻ trong việc học Tiếng Việt không những ở trong nhà trường
phổ thông mà ngay cả trong nhà trường mầm non
Tuy nhiên, trong thực tiễn cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ cho thấy,
mặc dù trường mầm non đã chú ý việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
các hoạt động nhưng nhiệm vụ này vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa
tương xứng với tầm quan trọng của nó. Nhiều giáo viên chưa nhận thức đầy
đủ vai trị của công tác này nên hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa
đạt hiệu quả cao.

II. Cơ sở thực tiễn
Năm học 2009-2010, tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo

lớn đổi mới kể từ tháng 10 năm 2009 với tổng số cháu là 15. Hầu hết các cháu
chưa có ý thức ham học, khơng chịu đến lớp để học, bản thân tơi trực tiếp đến
từng gia đình trẻ để huy động cháu ra lớp.
Đến lớp, đa số trẻ khơng tích cực tham gia vào các hoạt động, khả năng
chú ý của trẻ chưa cao, cô và trẻ có sự bất đồng về ngơn ngữ. Đồ dùng học tập
đối với trẻ còn nhiều xa lạ.
Nhiệm vụ, nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa được đưa ra một
cách độc lập và chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù hoạt động này được
lồng ghép vào trong các hoạt động khác nhưng chưa đủ bởi chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển ngôn ngữ của trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Với tình hình thực tế của lớp tơi như vậy, bản thân tôi luôn trăn trở, suy
nghĩ, nhiều lúc thấy vơ cùng lo lắng khơng biết làm gì và làm như thế nào,
bằng phương pháp gì để giúp trẻ nhận biết, phát âm chuẩn 29 chữ cái, hiểu và
nói được Tiếng Việt một cách trơi chảy, tập tơ chữ cái thành thạo. Chính vì
điều băn khoăn, trăn trở ấy, bản thân tơi đã tìm tịi, mạnh dạn thực hiện một
số biện pháp nhằm giúp trẻ ham thích được đến lớp, ham thích học tập và
nhất là ham học hỏi Tiếng Việt để trẻ học tốt tất cả các môn học và tạo đà cho
các cấp học sau.

1. Thuận lợi
- Bộ GD&ĐT đã xác định rõ việc dạy Tiếng Việt cho trẻ dân tộc
thiểu số là một nhiệm vụ quan trọng; Sở GD&ĐT đã đưa nội dung này
vào kế hoạch nhiệm vụ năm học 2009-2010.
- Giáo dục mầm non ngày càng được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp,
các ngành để nâng cao chất lượng và hiệu quả chăm sóc, giáo dục trẻ. Trường
mầm non Kim Thủy được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất khá đầy đủ, phịng
học rộng, thống mát, bàn ghế đẹp, đúng quy cách.


- Được sự quan tâm của Phòng giáo dục trang bị cho lớp một máy vi

tính nhằm thuận lợi cho việc giảng dạy của giáo viên.
- Trẻ trong một lớp ở cùng độ tuổi nên dễ tổ chức hoạt động. Đây là
một tiền đề thuận lợi cho việc tổ chức phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ.
- Bản thân là giáo viên đã đạt chuẩn nên có khả năng tiếp thu và theo
kịp chương trình.
- Chương trình giáo dục hiện hành có những thay đổi, thuận lợi cho bản
thân tơi linh hoạt lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức hoạt động cho trẻ phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương sao cho trẻ có thể phát triển ngôn
ngữ ở mọi lúc, mọi nơi.
- Bản thân tôi nhiều năm liền phụ trách lớp mẫu giáo lớn, là thành viên
hội đồng thanh tra, hội đồng chuyên môn của Phịng giáo dục, tham gia tích
cực vào các đợt thao giảng, sinh hoạt chun mơn do Phịng giáo dục, cụm,
Nhà trường tổ chức. Từ đó, bản thân tơi đúc rút được nhiều kinh nghiệm.
- Một số phụ huynh quan tâm đến việc học của con, họ nhận thức được
tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt cho trẻ như thế nào.

2. Khó khăn
- Cháu thường dùng tiếng dân tộc, ít hiểu Tiếng Việt nên việc tiếp thu
lời giảng của cô hiệu quả không cao.
- Khả năng nhận thức của trẻ khơng đồng đều, nhiều trẻ cịn hạn chế về
một số kỹ năng: kỹ năng phát âm, kỹ năng nhận biết mặt chữ,…
- Phụ huynh các cháu hầu hết đều khơng biết chữ, ít quan tâm đến việc
học hành của con cái nên công tác phối kết hợp với giáo viên để dạy trẻ theo
một phương pháp nhất định cịn gặp nhiều khó khăn.
- Tài liệu phục vụ công tác phát triển ngôn ngữ cho trẻ chưa phong phú
nên giáo viên chưa có điều kiện để nắm các nhiệm vụ của hoạt động này.
- Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ dạy học còn nhiều thiếu thốn.

3. Điều tra thực tiễn
Nội dung

Nhận biết, phát âm chữ
cái
Phát triển vốn từ
Trả lời câu hỏi mạch lạc
Kĩ năng tô

Tốt

Khá

Đạt yêu cầu
SL
%

SL

%

SL

%

3

20

4

26.6


8

53.3

2
2
3

13.3
13.3
20

3
2
3

20
13.3
20

10
11
6

66.6
73.3
60


III. Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi

dân tộc thiểu số trường mầm non kim thuỷ
1. Dạy trẻ nhận biết và luyện phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng
Việt
Nội dung phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt cho trẻ không chỉ là dạy trẻ
phát âm, dạy trẻ tập tơ chữ cái mà cịn dạy trẻ đọc đúng các từ, hiểu được nội
dung của từ và biết dùng từ để diễn đạt thành câu. Muốn được như vậy, trước
hết ta phải giúp trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong Tiếng Việt.
Chúng ta biết trẻ nhỏ thường phát âm khơng chính xác (chẳng hạn: chữ
"s" (sờ) phát âm thành “xờ”, Chữ "l" (lờ) phát âm thành “nờ”, những chữ cái
có cấu tạo khó "e", “r”, “g”…trẻ khó phát âm). Việc phát âm của trẻ không
đúng chủ yếu là do cơ quan phát âm của trẻ chưa linh hoạt, chưa nhạy cảm và
chưa chính xác. Trẻ chưa biết cách điều chỉnh hơi thở ngôn ngữ và giọng nói
cho phù hợp với nội dung nói nên việc phát âm các chữ cái là rất khó. Mặt
khác, đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là “dễ nhớ dễ quên”. Vì vậy, các kiến
thức mới cung cấp cho trẻ nếu không thường xuyên ôn luyện trẻ sẽ nhanh
chóng qn ngay khi lĩnh hội kiến thức khác.
Vì vậy, để trẻ phát âm đúng và ghi nhớ chữ cái được lâu cần phải được
luyện tập thường xuyên, mọi lúc mọi nơi và thời gian lâu dài. Trước khi cho
trẻ làm quen một chữ cái mới, tôi chú ý phát âm mẫu rõ ràng, chính xác và
sau đó tập cho trẻ phát âm nhiều lần. Trẻ làm quen không chỉ đơn thuần là
chữ cái mà gắn liền với các từ ngữ có ý nghĩa kèm theo hình ảnh hay đồ dùng
trực quan, sinh động gây hứng thú cho trẻ.
Ví dụ: Khi cho trẻ làm quen với chữ cái “g” trong chủ điểm “Phương
tiện giao thông”, tôi cho trẻ xem tranh nhà ga có nhiều người qua lại và dưới
bức tranh có từ “Nhà ga”. Tơi cho xuất hiện thẻ chữ rời được xếp thành từ
“Nhà ga”. Trẻ nhận biết trong từ “Nhà ga” có bao nhiêu tiếng? Có mấy con
chữ cái? Sau đó tơi cho trẻ tìm và đọc những chữ cái trẻ đã được học. Cứ thế,
tôi lần lượt giới thiệu chữ cái mới, phát âm mẫu và cho trẻ phát âm nhiều lần.
Tơi chú ý phân tích rõ cấu tạo chữ để trẻ ghi nhớ được sâu hơn cấu tạo của
chữ cái và trẻ nhận biết một cách chính xác từng chữ cái. Mặt khác, trong

hoạt động mọi lúc mọi nơi, tôi thường chú ý luyện tập cho trẻ nói đúng, sữa
sai kịp thời nhất là đối với trẻ yếu.
Bên cạnh đó, tơi cũng chú ý giúp cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái
dễ dàng thông qua các trò chơi đơn giản nhưng khá hứng thú đối với trẻ. Trẻ
ở lứa tuổi này các hoạt động thường được tổ chức dưới hình thức học mà
chơi, chơi mà học. Trẻ rất ham thích được học qua hình ảnh trực quan, tổ
chức hoạt động thơng qua các trị chơi. Nắm bắt được đặc điểm này, tôi đã


khơng ngừng sưu tầm những trị chơi hay, mới lạ trên sách báo, tạp chí để đưa
vào dạy trẻ phù hợp theo nội dung từng chủ điểm.
Ví dụ : Trị chơi luyện phát âm chữ cái “m”
Khi học chữ cái “m” tơi cho trẻ đọc các bài thơ có vần điệu dễ đọc:
“Mèo con đi học
“Mẹ Minh đi chợ
Mèo khóc meo meo
Mua một cây mía
Mèo mẹ mĩm cười
Mẹ mang về nhà
Meo meo meo meo”
Minh kêu: Mía mía”
Ngồi ra, tơi cịn cho trẻ nhận biết và phát âm chữ cái qua nhiều trò
chơi khác như: “Xếp chữ cái bằng hột hạt”, “Nối chữ cái với từ có chứa chữ
cái đó”, “Chọn chữ cái theo yêu cầu của cô” gắn trên đồ dùng đồ chơi, “Xếp
các nét cơ bản tạo thành chữ cái”, “Tìm và gạch chân các chữ cái có trong từ,
câu, bài thơ, đồng dao…”. Bên cạnh đó, tơi ln tranh thủ thời gian tự làm
thêm một số đồ dùng đồ chơi cho trẻ được thực hành trải nghiệm. Tôi thiết
nghĩ trẻ được thực hành trải nghiệm nhiều với đồ dùng đồ chơi sẽ giúp trẻ ghi
nhớ chữ cái một cách sâu sắc hơn. Từ đó cũng góp phần khơng nhỏ vào việc
cung cấp vốn Tiếng Việt cho trẻ. Qua một thời gian thực hiện, lớp tôi tiến bộ

rõ rệt. Cháu hứng thú trong học tập, nhiều cháu thuộc chữ cái và phát âm
đúng chữ cái do tôi cung cấp.
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua một số hoạt động ( HĐC,
HĐG, Sinh hoạt chiều, đón trẻ, trả trẻ…)
Đa số tất cả các hoạt động ( HĐC, HĐG, Sinh hoạt chiều, mọi lúc mọi
nơi…) đều có thể phát triển ngơn ngữ cho trẻ nếu chúng ta biết tìm tòi, khám
phá, lựa chọn nội dung phù hợp để truyền tải đến trẻ. Trong đó phải kể đến
một số hoạt động ưu thế (văn học, môi trường xung quanh, hoạt động góc,
mọi lúc mọi nơi…).
Hoạt động làm quen với văn học là tiết học chiếm ưu thế nhất so với
các tiết học khác khi thực hiện nhiệm vụ giáo dục ngơn ngữ, đặc biệt là hình
thành và phát triển vốn từ, phát triển lời nói mạch lạc và phát triển ngôn ngữ
nghệ thuật. Tôi luôn chú ý linh hoạt trong việc lựa chọn cho trẻ tiếp xúc với
ca dao, đồng dao, thơ, truyện,…Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học,
tôi không chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản là cho trẻ nhớ nội dung truyện, nhớ
lời thoại và một số sắc thái biểu cảm, mà tôi chú ý nghiên cứu kĩ tác phẩm để
đưa ra hệ thống câu hỏi logíc để trẻ dễ dàng tiếp thu được nội dung tác phẩm.
Hình thức đóng kịch và kể chuyện sáng tạo được xem là một hình thức để trẻ
có thể thể hiện lại một cách phong phú và sáng tạo những gì trẻ thu nhận được
sau khi nghe kể chuyện cũng được tôi chú trọng. Khi trẻ trả lời các câu hỏi
chưa trọn câu hoặc câu sai về trật tự từ tôi chú ý sửa sai cho trẻ, nhắc nhở trẻ
trả lời trọn câu.


Làm quen với môi trường xung quanh cũng là một trong những hoạt
động tạo cơ hội cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua việc cung cấp cho trẻ
những biểu tượng về thế giới xung quanh. Qua đó trẻ biết được những từ chỉ
tên gọi, đặc điểm, tính chất, cơng dụng, cách sử dụng chúng. Từ đó vốn từ của
trẻ được mở rộng và phong phú hơn. Tôi luôn chú ý sử dụng các nhóm
phương pháp trực quan, dùng lời, thực hành, trò chơi để trẻ dễ dàng tiếp thu

kiến thức, tham gia vào hoạt động tích cực hơn.
Ví dụ: Đối với một số tiết học theo chủ điểm gần gũi với trẻ, chẳng hạn
“ Thế giới thực vật” tôi đã sử dụng các loại hoa quả thật cho trẻ được tri giác,
nếm, ngửi kích thích sự hứng thú của trẻ khi tham gia hoạt động. Tôi sử dụng
phương pháp dùng lời, cho trẻ được phát biểu ý kiến riêng của mỗi trẻ. Tôi
chú ý sữa lỗi ngữ pháp cho trẻ bằng cách nhắc lại những câu trẻ nói sai giúp
trẻ sữa lại cho đúng.Trong q trình đàm thoại tơi thường dùng những câu hỏi
mở để kích thích sự phát triển tư duy của trẻ.Cứ thế trẻ được thoải mái bày tỏ
những hiểu biết của mình.
Ví dụ: Câu hỏi “ Cháu đang làm gì thế?”, “Cháu thấy trị chơi đó như
thế nào?” thay cho những câu hỏi “ Cháu đang xem tranh à?”, “ Cháu có thích
trị chơi đó khơng?”
Khơng những thế, vào các hoạt động mọi lúc mọi nơi tôi cũng
dành nhiều thời gian rãnh rỗi cung cấp thêm cho trẻ phát triển vốn từ, diễn đạt
mạch lạc.
Giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn vui vẽ, gần gũi, thân thiện trò chuyện với trẻ
về những kiến thức trẻ học trong ngày, những sinh hoạt ở gia đình trẻ kích
thích trẻ trả lời. Từ đó tơi có thể nắm bắt khả năng phát triển ngơn ngữ của trẻ
và có biện pháp phù hợp luyện tập thêm cho trẻ.
Giờ chơi tự do tơi hay dẫn trẻ đến các góc trị chuỵện và phát âm, đọc
các từ có trong tranh, từ ở mỗi góc, tơi cho trẻ chỉ vào chữ và phát âm nhiều
lần. Qua nhiều lần trẻ lớp tôi phát âm chuẩn hơn, mạnh dạn hơn trong giao
tiếp với cô, với bạn, bạn biết chỉ cho bạn chưa biết, hoặc mạnh dạn đến hỏi
cơ, trẻ lớp tơi khơng cịn rụt rè nữa. Ngồi ra trong giờ hoạt động ngồi trời
tơi cho trẻ ơn kiến thức đã học qua trị chuyện, đọc thơ, kể chuyện, chơi các
trò chơi dân gian, cho trẻ đọc đồng dao, ca dao trong hoạt động này giúp trẻ
phát âm, đọc thành thạo hơn, lưu loát hơn.
Hay vào các giờ hoạt động góc, chủ yếu ở các góc phân vai, tôi chú ý
hướng dẫn gợi mở cho trẻ được giao lưu trao đổi mua bán trò chuyện với
nhau. Từ đó khắc sâu, mở rộng thêm cho trẻ vốn từ, diễn đạt câu mạch lạc,

mở rộng vốn kinh nghiệm sống.
Những buổi sinh hoạt chiều, tôi thường tổ chức cho trẻ tập kể chuyện
sáng tạo từ những bức tranh. Trẻ được quan sát, thảo luận cùng nhau và kể lại
câu chuyện theo sự tưởng tượng, sáng tạo của mỗi trẻ. Chính nhờ vậy mà lớp


tôi đa số trẻ biết dùng từ để diễn đạt thành câu có nghĩa trong giao tiếp với
bạn, với cơ.
3. Phát triển vốn từ, ngôn ngữ mạch lạc thông qua việc tạo mơi
trường chữ trong và ngồi lớp, các đồ dùng đồ chơi, các góc
Đối với trẻ mầm non, lớp học chính là mái nhà thứ hai của trẻ. Cảm
giác đầu tiên khi trẻ bước vào cửa lớp đó là sự gần gũi, thân thiện giống nhà
của mình. Trong ngơi nhà ấy phải có sự tươi mới, hấp dẫn của những bức
tranh, bức ảnh trang trí phù hợp theo chủ điểm, phù hợp với lứa tuổi của trẻ.
Vì vậy để trẻ hứng thú khi đến lớp tôi đã chú ý trang trí tranh ảnh, mơi
trường chữ viết ở các góc, các mảng trong lớp đầy đủ. Ví dụ như các bài thơ
câu chuyện trong và ngồi chương trình được tơi nắn nót viết trên khổ giấy rơ
ky trang trí ở góc học tập cho trẻ được tập đọc, tri giác các dịng chữ. Tơi
thường lựa chọn các cỡ chữ cho phù hợp với góc, dán chữ ở độ cao vừa tầm
nhìn của trẻ để trẻ dễ nhìn thấy. đặc biệt kiểu chữ phải chuẩn, hầu hết các kiểu
chữ này tôi thường để ở dạng chữ in thường với màu sắc đẹp phù hợp với
mảng hoạt động và hình ảnh minh họa của góc. Vào những lúc đón trẻ hoặc
trả trẻ tơi thường cùng trẻ trị chuyện đàm thoại về các nội dung trong bức
tranh, cho trẻ đọc các bài thơ, câu chuyện, các dịng chữ chú thích bức tranh
nhiều lần, cho trẻ hiểu nội dung bức tranh là gì. Từ đó trẻ sẽ dần dần tri giác,
ghi nhớ được các từ một cách chính xác.
Ngay từ khi nhận lớp và ổn định danh sách lớp, tôi tạo cơ hội để trẻ tiếp
xúc với chữ, với từ, tên của mình bằng cách: Viết các danh sách của ba tổ có
kèm theo kí hiệu để trẻ biết tên mình ở chổ nào, có những bạn nào trong tổ
của mình. Chữ của trẻ tôi thường viết ở dạng chữ in thường và chữ viết hoa

(vì đây là tên riêng) kèm theo kí hiệu. Trẻ được khắc sâu hình ảnh tên của
mình và được làm quen với các kiểu chữ. Vì thế mà trẻ dễ dàng nhận biết các
đồ dùng cá nhân như khăn mặt, ca, cốc, vở tập tơ, vở tốn, vở tạo hình…khi
trẻ hoạt động. Hàng ngày trẻ sử dụng đồ dùng, biết tên, kí hiệu của mình, của
bạn, biết tên của mình có chữ gì, biết thứ tự của từng chữ từ trái sang phải của
các chữ như thế nào.
Thực tế cho thấy, trẻ đến trường ngồi hoạt động có chủ đích, hoạt
động ăn, ngủ, cịn các thời gian khác trẻ hoạt động với mơi trường bên ngồi
như: mảng tun truyền, khu vực để đồ dùng cá nhân của trẻ. Đây là nơi trẻ
thường xuyên hoạt động nên có tác dụng ôn tập cũng cố chữ cái và từ rất tốt.
Ví dụ như nơi để đồ dùng cá nhân giày, dép, mũ, túi xách của trẻ tơi đều quy
định vị trí của mỗi trẻ cụ thể và kèm theo ký hiệu tên riêng của mỗi trẻ. Từ đó
mỗi khi trẻ hoạt động không những rèn khả năng tự phục vụ cho trẻ mà còn
bổ trợ rất hiệu quả trong việc phát triển ngôn ngữ, vốn từ cho trẻ.
Mỗi một môi trường hoạt động của trẻ, tôi đều chủ động tạo môi trường
để trẻ có cơ hội được luyện phát âm, ơn luyện chữ đã biết, làm quen chữ mới


và làm quen từ. Đây là một trong những hình thức phát triển vốn từ cho trẻ
một cách rất tự nhiên, thoải mái, khơng gị bó áp đặt trẻ và trẻ cũng rất thích
thú khi tham gia.
4. Cung cấp Tiếng Việt thơng qua việc cho trẻ tập tơ
Nghe, nói, đọc, viết là những nội dung cơ bản của phát triển ngơn ngữ.
Giữa những nội dung đó có sự gắn bó mật thiết, bổ trợ cho nhau. Hoạt động
tập tô là tiền đề của hoạt động tập viết, là một trong những hoạt động góp
phần khơng nhỏ vào sự phát triển ngôn ngữ và việc rèn luyện các kỹ năng cần
thiết làm tiền đề cho trẻ bước vào học phổ thông được thuận lợi, dễ dàng. Tuy
nhiên, để tổ chức một hoạt động tập tơ có hiệu quả là một điều rất khó, nhất là
đối với các cháu dân tộc miền núi. Bởi vì hoạt động tập tơ có cấu trúc gần
giống tiết học ở trường phổ thơng nên ít nhiều mang tính chất bắt buộc, có tổ

chức chặt chẽ. Trẻ dân tộc miền núi rất nhút nhát, tự do, khả năng tập trung
chú ý chưa cao, kỹ năng tơ cịn nhiều hạn chế, nhiều trẻ chưa biết cách cầm
bút như thế nào, tơ như thế nào. Bởi vậy, để có được sự dẫn dắt, uốn nắn trẻ
đúng đắn đòi hỏi mỗi giáo viên phải biết khéo léo, linh hoạt trong tổ chức
hoạt động. Tơi ln cố gắng tìm tịi những biện pháp phù hợp áp dụng vào
dạy trẻ. Tất cả các thao tác tôi luôn hướng dẫn tỉ mỉ và làm mẫu cho trẻ quan
sát từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, tập dần dần cho trẻ. Từ cách cầm
bút thế nào, cách ngồi đúng tư thế đến cách giở vở, lật từng trang vở, cách tô
theo quy trình con chữ khơng lem ra ngồi… đều được tơi kiên trì hướng dẫn
cho trẻ cụ thể.
Ví dụ: Hướng dẫn cách tô chữ, cách cầm bút: Tôi luôn hướng dẫn trẻ tơ
theo đúng quy trình con chữ, theo chiều mũi tên, tơ trùng khít lên nét chấm
mờ sao cho khơng bị lem ra ngồi, biết đưa mắt khi tơ. Cách cầm bút bằng tay
phải và cầm bằng 3 ngón tay (ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa), khơng cầm cao
q hay thấp quá, không chặt quá hay lỏng quá… Đặc điểm của trẻ dân tộc
thiểu số là tiếp thu rất chậm và lại quên rất nhanh. Kết hợp cho trẻ tô viết các
nét cơ bản hay tô viết các chữ cái, một số từ tôi đều cho trẻ luyện phát âm,
đọc theo cô nhiều lần. Dần dần tôi thấy trẻ có phần tiến bộ hơn, ham thích
được tập tơ, nhiều cháu tơ đẹp, đúng quy trình, trình bày khoa học hơn và
phát âm chuẩn các chữ cái.
Bên cạnh đó, vì điều kiện miền núi khó khăn, tơi đã tận dụng những
quyển vở tập tô cũ để cho trẻ tập tô. Tơi dùng tẩy tẩy lớp chì trẻ đã tơ sau đó
cho trẻ tập tơ nhiều lần. Đây là một hình thức vừa tiết kiệm vừa tạo cơ hội cho
trẻ được hoạt động thoải mái.
5. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc làm quen công nghệ
thông tin


Để đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ đồng thời thực hiện mục tiêu
nhiệm vụ của Nhà trường giao đó là việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin, giáo

án điện tử vào giảng dạy thông qua việc khai thác trò chơi Kidsmart, các
nguồn dữ liệu thiết kế trên máy tính.
Tơi tham khảo trong chương trình Kidsmart, cho trẻ ơn chữ đã học
thơng qua các trị chơi: “Đuổi hình bắt chữ”, “Ơ chữ kì diệu”, “Bé nhanh trí”,
“Trổ tài cùng gấu Pooh”, “Thử tài của bé”. Các trò chơi này được thiết kế sẵn,
có hình ảnh đẹp, hấp dẫn, phong phú, có tính thẩm mỹ và tính giáo dục cao,
kích thích sự hứng thú tham gia của trẻ. Có rất nhiều trò chơi nhưng điều
quan trọng là sử dụng làm sao cho phù hợp và trẻ ln tỏ ra thích thú mới là
điều quan trọng. Tơi ln tìm tịi, sắp xếp, lồng ghép sao cho trò chơi phải
phù hợp và có sự bổ trợ tích cực cho hoạt động chung. Trẻ được chơi dưới
hình thức chọn chữ cái theo yêu cầu, Trẻ quan sát phát âm các chữ cái tìm
được và đọc các từ dưới hình ảnh, và ngẫu nhiên trẻ được ôn luyện, phát triển
ngôn ngữ rất nhẹ nhàng thơng qua các trị chơi này. Khơng chỉ bổ trợ cho hoạt
động chung mà ở các hoạt động mọi lúc mọi nơi như hoạt động góc, hoạt
động chiều tơi thường xuyên cho trẻ được chơi. Những câu chuyện bài thơ mà
trẻ lớp tôi dễ thuộc mà nhớ lâu cũng nhờ vào cơng nghệ thơng tin. Các câu
chuyện với những hình ảnh sóng động, hấp dẫn, lời kể nhẹ nhàng truyền cảm
gây hứng thú làm cho trẻ không bao giờ nhàm chán. Qua đó tơi nhận thấy đa
số trẻ rất hứng thú và đặc biệt vốn từ của trẻ cũng được tăng dần lên đáng kể.

6. Kết hợp với phụ huynh
Phụ huynh các cháu dân tộc miền núi hầu hết ít quan tâm đến việc học
hành của con cái. Nhiều phụ huynh chưa phối kết hợp với giáo viên để dạy trẻ
theo một phương pháp nhất định. Nắm bắt điều này, ngay từ khi nhận lớp, tôi
tiến hành nắm bắt nhận thức của trẻ và tiến hành tổ chức họp phụ huynh nhằm
tuyên truyền thông báo về khả năng học lực của mỗi trẻ. Qua đó yêu cầu phụ
huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc dạy dỗ các cháu. Mới đầu phụ
huynh chưa thực sự quan tâm nhưng dần dần tôi tranh thủ thời gian đến từng
nhà dân động viên các bậc phụ huynh kèm cặp con em mình nhiều hơn về các
mơn học, đặc biệt là chữ cái. Tuyên truyền cho các bậc phụ huynh biết một số

cách thức tập luyện chữ cái chính xác. Ví dụ hiện nay một số phụ huynh dạy
các cháu phát âm một số chữ cái chưa đúng:
+ Chữ “q” đọc là “Cu” nhưng có một số phụ huynh lại dạy cho trẻ là
“Quờ”.
+ Hay chữ “l”, “m”, “n” lại đọc là “e lờ”, “e nờ”, “e mờ”
Nếu không thống nhất trẻ sẽ giao động không biết thế nào là đúng, hơn
nữa nếu đã đọc sai thì rất khó sữa.


Bên cạnh đó trong q trình gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh, tôi nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc học ngôn ngữ Tiếng Việt sẽ thuận lợi cho trẻ
rất nhiều trong việc tiếp thu bài học không chỉ ở cấp học mầm non mà còn cả
cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan tâm đến
con em hơn. Chăm lo cung cấp vốn Tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn. Cho
nên trẻ lớp tơi hiện nay nói khá lưu lốt ngơn ngữ Tiếng Việt, biết dùng từ,
câu để diễn đạt điều trẻ muốn nói, khơng cịn trẻ nói câu khơng rõ nghĩa, câu
thiếu chủ ngữ vị ngữ. Trẻ mạnh dạn giao lưu cùng cô cùng bạn. Đa số phụ
huynh hưởng ứng, ủng hộ nhiệt tình.
IV. Kết quả đạt được
Qua quá trình thực hiện, bản thân tôi rất phấn khởi khi kết quả đạt được khá
cao.
* Đối với trẻ:
Nội dung
Nhận biết, phát âm chữ
cái
Phát triển vốn từ
Trả lời câu hỏi mạch lạc
Kĩ năng tô

Tốt


Khá

SL

%

SL

%

13

85

2

13.3

8
7
8

53.3
46.6
53.3

6
6
5


40
40
33.3

Đạt yêu cầu
SL
%

1
2
2

20
13.3
13.3

Nhiều trẻ tỏ ra mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, khả năng sáng tạo được
bộc lộ rõ rệt.
* Đối với giáo viên:
Giáo viên nắm chắc phương pháp, linh hoạt trong các tiết dạy, đúc rút
được nhiều kinh nghiệm cho bản thân.
* Đối với phụ huynh:
Đa số phụ huynh hưởng ứng nhiệt tình. Giữa nhà trường - giáo viên - phụ
huynh có sự hợp tác tích cực. Nhiều phụ huynh ngày càng tin tưởng, chăm lo
hơn đến phương pháp giáo dục trẻ, có ý thức đóng góp đồ dùng, đồ chơi.
V. Bài học kinh nghiệm
Qua quá trình thực hiện, bản thân tôi đã học tập và đúc rút được nhiều kinh
nghiệm quý.
1. Trẻ nhận biết và luyện phát âm đúng cần phải có sự luyện tập

thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi và thời gian lâu dài.


2. Cần biết nắm bắt những hoạt động ưu thế, khai thác những nội
dung để lồng ghép, phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp.
3. Cần tạo môi trường chữ trong và ngoài lớp, trên các đồ dùng đồ
chơi để trẻ được làm quen, được tri giác và phát triển ngôn ngữ được tốt.
4. Tận dụng vật liêu, phế liệu (vở cũ), rèn luyện tập tô thông qua
mọi lúc mọi nơi, chú ý rèn luyện kỹ năng tô, cách cầm bút, kỹ năng ngồi
cho trẻ.
5. Tìm tịi, học hỏi cơng nghệ thơng tin áp dụng có hiệu quả trong
cơng tác giáo dục trẻ trên mọi lĩnh vực nhất là phát triển ngơn ngữ.
6.Bản thân tích cực phối kết hợp với phụ huynh trong cơng tác
chăm sóc giáo dục trẻ, đăc biệt là trao đổi về kiến thức mơn tốn, làm
quen chữ cái , cách phát triển ngôn ngữ.


c. kết luận
“Tiếng Việt ta vừa giàu lại vừa đẹp. Tiếng nói ấy lâu đời như dịng
giống Việt Nam, nó trở nên thứ của cải vô cùng quý báu của dân tộc” - Hồ
Chí Minh. U.U. Rêz-nep-xki cũng đã từng nói: “Q trình phát triển tiếng mẹ
đẻ đối với con người khơng gián đoạn theo thời gian”. Vì vậy ngay từ tuổi
mầm non, phát triển hoạt động ngôn ngữ cho trẻ là một nhiệm vụ vô cùng
quan trọng - học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan trọng nhất, cần thiết nhất,
phải được bắt đầu sớm nhất và cần phải được quan tâm nhất. Để giúp cho trẻ
mẫu giáo 5 tuổi vùng dân tộc thiểu số phát triển ngôn ngữ được tốt cần chuẩn
bị cho các cháu nhiều phương diện cần thiết ở những mức độ sơ giản ban đầu.
Nội dung, phương pháp và hình thức chuẩn bị có hình thức rõ ràng, phù hợp
với lứa tuổi, tạo được sự liên thơng với chương trình lớp 1 sẽ góp phần tạo
điều kiện thuận lợi giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.

Kết quả thực hiện hoạt động phát triển ngôn ngữ ở lớp mẫu giáo lớn
Cụm Chuôn do bản thân tôi trực tiếp chủ nhiệm trong năm học 2009 – 2010
bước đầu có hiệu quả đáng trân trọng nhưng bản thân nhận thấy vẫn còn
nhiều vấn đề tiếp tục học hỏi, tìm kiếm giải pháp, đúc rút kinh nghiệm của các
đơn vị bạn để không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động phát triển ngôn
ngữ ở trường mầm non Kim Thủy nói riêng và các trường mầm non trên địa
bàn Lệ Thủy nói chung. Bản thân rất mong nhận được sự góp ý, trao đổi ý
kiến của Hội đồng khoa học các cấp để bản sáng kiến cải tiến kĩ thuật của tơi
hồn thiện hơn, áp dụng rộng rãi hơn.

Kim Thủy, ngày 20 tháng 05 năm
2010
Hội đồng khoa học nhà trường

Người viết

Võ Thị Ngân


Mục lục

A.Mở
đầu.....................................................................................................Trang 1
B. Nội
dung..................................................................................................Trang 1
I. Cơ sở khoa
học...............................................................................Trang 1
II. Cơ sở thực
tiễn..............................................................................Trang 2
1. Thuận

lợi.............................................................................Trang 2
2. Khó
khăn.............................................................................Trang 3
3. Điều tra thực
tiễn.................................................................Trang 3
III. Một số biện pháp nâng cao chất lượng phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi dân tộc miền
núi....................................Trang 4
1. Dạy trẻ nhận biết và luyện phát âm đúng 29
chữ cái Tiếng
Việt........................................................................Trang 4
2. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua một số hoạt động
...Trang 5
3. Phát triển vốn từ, ngôn ngữ mạch lạc
.................................Trang 6
4. Cung cấp Tiếng Việt thông qua việc cho trẻ tập
tô.............Trang 7
5. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc làm quen
công nghệ thông
tin...............................................................Trang 8
6. Kết hợp với phụ
huynh........................................................Trang 9
IV. Kết quả đạt
được.........................................................................Trang 9
V. Bài học kinh
nghiệm.....................................................................Trang 10
C. Kết
luận...................................................................................................Trang 1




×