Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.24 KB, 7 trang )

Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
SÁNG TÁC CỦA NAM CAO
Thời gian và không gian trong sáng tác của Nam Cao cũng như mọi hiện tượng của
thế giới khách quan, khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng tình cảm, được nhào
nặng và tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo thấm đẫm cá tính sáng tạo
của nhà văn. Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về con người và
cuộc đời, gắn bó với mơ ước và lí tưởng của nhà văn.
Cho tới nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu cơng phu, nghiêm túc về Nam cao.
Tuy nhiên, phương diện thời gian và không gian nghệ thuật chưa được chú ý và xem xét
riêng.
Những nhân vật của Nam Cao sống, như thường lệ, trong thời gian hiện thực. Một
trong những nét đặc sắc của thời gian nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao là đã tạo ra
một kiểu thời gian hiện thực hằng ngày, trong đó các nhân vật của ơng dường như bị
giam hãm, tù túng, luẩn quẩn trong vòng những lo âu thường nhật (nhà cửa, miếng cơm,
manh áo, thuốc men…). Các nhân vật đau buồn của Nam Cao bị hành hạ, bị giày vị, bị ám
ảnh bởi cái đói, “lúc nào cũng lo chết đói, lúc nào cũng lo làm thế nào cho khơng chết đói”.
Cả thế giới nhân vật “bị áo cơm ghì sát đất” của ơng như xuội đi trong cái vòng luẩn quẩn
của thời gian hàng ngày mòn mỏi.
Thời gian, trong nhiều tác phẩm của Nam Cao như là đơng đặc lại. Nó tù đọng,
đóng kín, xoay theo cái quỹ đạo tưởng chừng như không thay đổi. Thế giới bên ngồi
dường như khơng bị thống trị bởi nó. Có thể nói, cùng với việc phác hoạ những chi tiết chân
thực, khắc hoạ những tính cách điển hình, mơ tả những quan hệ nhân sinh, Nam Cao đã
sáng tạo ra trong những tác phẩm của ông một kiểu thời gian hiện thực hàng ngày luẩn
quẩn với những lo âu về sinh kế, mịn mỏi về tinh thần, góp phần tạo nên hình ảnh một
cuộc sống mịn bế tắc, ngột ngạt khá điển hình.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Nam Cao đã sử dụng phạm trù hồi tưởng như là
một yếu tố của thời gian nghệ thuật. Như mọi người đều biết, hồi tưởng thường xuất hiện
trong quá trình sáng tạo tác phẩm theo quy luật tương phản hoặc theo nguyên tắc liên
tưởng. Trong thế giới nghệ thuật của Nam Cao, hồi tưởng hiện ra từ từ, không cố ý, ngỡ


như vơ tình, thậm chí ngay cả khi nhà văn chủ tâm đi vào thế giới hồi tưởng của nhân vật.
Nó không tồn tại một cách độc lập mà trong mối liên hệ thường xuyên, chặt chẽ với hệ
thống thời gian nghệ thuật. Hồi tưởng không đơn giản đẩy lùi ra những phạm vi thời gian
của sự trần thuật, trái lại, nó tạo ra khả năng đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại và có thể
nhìn thấy những viễn cảnh và những chu tuyến của tương lai.
www.hoc360.vn


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

Trong sáng tác của Nam Cao, những kỉ niệm cũ hiện lên thơng qua sự hồi tưởng của
nhân vật có thể trong sáng ấm áp, nhưng bao giờ cũng gợi lên một nỗi buồn. Đó là “một
buổi chiều có sương bay” ngày dì Hảo đi lấy chồng (Dì Hảo). Đó là nỗi nhớ bà cơ phúc hậu,
mù lồ, bị lãng quên, bỗng trào lên trong tâm trí đứa cháu giữa một đêm vui – đêm tân hôn
- với một niềm day dứt, ân hận (Chuyện buồn giữa đêm vui).
Điền trong Trăng Sáng, Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn cũng thường quay
về với quá khứ, với những hồi ức của mình. Đối với họ, những cảnh vật ngày hơm nay như
khêu gợi những kỉ niệm của ngày qua. Và những kỉ niệm cũ hiện về chỉ làm tăng thêm nỗi
buồn chán khổ đau trước mắt. Thời gian như là người bạn đường của sự khổ đau. Có thể
nói, trong nhiều sáng tác của Nam Cao, nhân vật vơ hình chủ yếu chính là thời gian đã mất.
Hầu như trong mỗi tác phẩm của ông đều tồn tại “nhân vật” vơ hình này, hoặc là hàm ý sự
có mặt của nó. Với tư cách là nhà văn hiện thực, Nam Cao ý thức sâu sắc được tính khơng
đảo ngược của thời gian. Nhiều nhân vật thuộc những tầng lớp xã hội khác nhau của ơng
đều nhìn thấy thời gian trơi đi một cách tàn nhẫn. Họ suy ngẫm về thời gian với sự xúc
động, với niềm nuối tiếc, với tình cảm cay đắng của sự mấtmát khơng gì bù đắp nổi. Đối với
Điền (Trăng Sáng), Hộ (Đời Thừa), Thứ (Sống mòn) thời gian như là chiếc bào bào mòn
những mơ ước. Đối với Chí Phèo (Chí Phèo) thời gian khơng chỉ tàn phá nhân hình mà cịn
huỷ hoại cả nhân tính, cả tâm hồn con người. “Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi
rồi. Ba mưoi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay là ngồi bốn mươi ? Cái mặt hắn khơng
trẻ cũng khơng già ; nó khơng cịn phải là mặt người : nó là mặt một con vật lạ. Nhìn mặt

những con vật có bao giờ biết tuổi ?” Những cơn say vô tận, những việc “ức hiếp, phá
phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm là chính cuộc đời hắn ; cuộc đời mà
hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi.” Hắn đã mất ý thức về thời gian. Nhưng sau
lần gặp thị Nở, tình cảm tự nhiên và sự săn sóc tận tình của người đàn bà tội nghiệp này đã
góp phần đánh thức ý thức về nhân phẩm và cùng với nó là ý thức về thời gian của Chí
Phèo : “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn cịn cơ độc. Buồn thay cho đời ! Có lí nào như thế
được ? Hắn đã già rồi hay sao ?”
Trong một vài tác phẩm, Nam Cao đã miêu tả viễn cảnh của tương lai. Hiện tại tối
tăm, ảm đạo, còn tương lai cũng nhuốm màu xám xịt. Tương lai của dì Hảo (Dì Hảo) là sự
cơ đơn nghèo đói và bệnh tật. Tương lai của Chí Phèo cịn khủng khiếp hơn hiện tại : “Chí
Phèo hình như đã trơng thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cơ độc, cái này
cịn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Đối với nhân vật người kể chuyện trong Mua nhà,
tương lai bị giày vò bởi một nỗi niềm ân hận. Hiện tại đối với Thứ thật là mòn mỏi, nhưng
tương lai còn thê thảm hơn nhiều. “Nhưng nay mai mới thật buồn. Y sẽ chẳng có việc gì
làm, y sẽ ăn bám vợ! Đời y sẽ mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra, ở một xó nhà quê.
Người ta khinh y, vợ y sẽ khinh y, chính y sẽ khinh y. Rồi y sẽ chết mà chưa làm gì cả, chết
mà chưa sống.” (Sống mòn)
www.hoc360.vn


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

Song tương lai trong sáng tác của Nam Cao không hoàn toàn tuyệt vọng. Trong cái
thế giới nghệ thuật nhuốm màu ảm đạm của ông đôi khi cũng bất chợt loé lên những tia hi
vọng. Kết thúc truyện Điếu văn, Nam Cao viết : “Sự đời không thể cứ mù mịt mãi thế này
đâu. Tương lai phải sáng sủa hơn. Một rạng đông đã báo rồi. Một mặt trời mới sẽ mọc lên
bên trên nấm mồ anh và bên trên đầu hai đứa con côi anh để lại. Một bàn tay bè bạn sẽ
nắm lấy bàn tay chúng và dắt chúng cùng đi tới một cuộc đời đẹp hơn.” Ở đoạn kết của
Sống mòn, Thứ cũng hi vọng vào một sự đổi thay : “Lòng Thứ đột nhiên lại hé ra một tia
sáng mong manh : Thứ lại thấy hi vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến này, có lẽ cuộc

sống sẽ dễ dàng hơn, công bằng hơn, đẹp đẽ hơn.” Thời kỳ này, Nam Cao cùng với những
nhà văn trong nhóm Văn hố cứu quốc hay nói tới tương lai với những tâm trạng náo nức
và hi vọng, trong khi văn chương lãng mạn lúc bấy giờ thì âm hưởng chủ đạo là bi quan,
tuyệt vọng với những “chiều mồ côi”, “chiều tận thế”. Những yếu tố lạc quan chủ nghĩa của
dòng văn học hiện thực phê phán như thổi một luồng sinh khí mới vào nền văn học dân tộc.
Đó là những yếu tố lạc quan cách mạng, “một đặc điểm có tính lịch sử độc đáo” của xu
hướng văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Song những tia sáng lạc quan cách mạng ấy,
nhìn chung, cịn rất mong manh, chưa có cơ sở chắc chắn trong thế giới quan của nhà văn,
thường được “lắp ghép” một cách ngẫu nhiên vào tác phẩm, và vì thế khơng đủ sức xua tan
khơng khí bi quan, ảm đạm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Cũng như thời gian trong thế giới quan, thời gian nghệ thuật trong sáng tác của
Nam Cao là một tập hợp của nhiều thời gian riêng biệt. Bên cạnh dòng thời gian thường
nhật, sáng tác của Nam Cao cịn có thêm một dịng thời gian tâm trạng. Đối với cô bé
Ninh (Từ ngày mẹ chết), thời gian ngót ba năm là quá nặng nề, là dài dằng dặc vì nó mang
theo một nỗi mất mát khơng gì bù đắp nổi : “Bu chết đã ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba
năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ tưởng bu chết đã lâu lắm rồi”. Có khi thời gian mang đậm
màu sắc ấn tượng : “Người u em đang ngồi vá áo dưới đất, ngay chỗ cửa ra, ngẩng mặt lên
một thoáng rồi lại cúi mặt xuống im lặng vá. Thứ có cảm tưởng như thị vá, chỉ vì đêm dài
q, khơng sao ngủ hết, cũng như bà ngoại y thường bắt rận vào những đêm trời rét, vì
khơng ngủ được !” (Sống mịn). Nói chung, dòng thời gian tâm trạng trong sáng tác Nam
Cao thường nặng nề, chậm chạp, gây cảm giác lâu hơn, dài hơn so với thời gian khách quan
vì gắn liền với tâm trạng đau buồn và bi kịch của nhân vật.
Các thời gian riêng biệt nói trên liên hệ với nhau, tạo nên nh ịp điệu chung của sự
vận động trong tác phẩm Nam Cao - một nhịp điệu chậm chạp, nặng nề, nhàm
chán, mòn mỏi. Trong cái nhịp điệu chung ấy, đời sống các nhân vật của ông như bị tù
đọng, ứ lại. Từ cảnh sống nặng nề, u uất của những Thứ, những Hộ, những Điền, những
Hài… đến cảnh sống đoạ đày khốn khổ cùa dì Hảo, lão Hạc… đến cảnh sống đơn điệu, tẻ
ngắt, nhàm chán của gia đình ơng Học, tất cả hiện lên giống như những đường, những nét

www.hoc360.vn



Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

tạo thành một bức tranh tổng hợp về một lối sống mòn vừa đáng thương mà lại vừa đáng
giận.
Trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, quá khứ hội tụ trong hiện tại, và hiện tại như
gợi lại những hình ảnh của quá khứ. Ở đây, hiện tại và quá khứ soi sáng cho nhau, tạo nên
sự cộng hưởng về cảm xúc và ấn tượng cho người đọc. Những tiếng dùi đục kêu chan chát,
ghê rợn của bọn thợ dở nhà gợi lại trong tâm trí trẻ thơ của bé Ninh nỗi đau thương cũ :
“Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi, vào cái ngày mẹ chết. Người ta
đóng chiếc săng của mẹ.” (Từ ngày mẹ chết). Sự đối chiếu so sánh những cảm giác của cô
gái trong quá khứ và hiện tại làm tăng thêm tính chất bi thảm của sự việc đang diễn ra. Ở
đoạn kết của tác phẩm Chí Phèo, khi nghe tin Chí Phèo chết, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng,
trong óc thị thống hiện ra cái lị gạch cũ bỏ khơng, xa nhà cửa và vắng người qua lại. Ở
đây, quá khứ, hiện tại và tương lai như hoà nhập làm một.
Đôi khi Nam Cao dường như kéo căng hoặc rút ngằn thời gian hành động
được miêu tả. Bữa cỗ thịt chó của người cha (có khác chi lồi cầm thú) trong truyện ngắn
Trẻ con khơng được ăn thịt chó càng dềnh dàng bao nhiêu thì sự chờ đợi, cơn đói cồn cào
của lũ trẻ tội nghiệp càng bị kéo căng ra bấy nhiêu. Thời gian ở đây bị kéo dài ra một cách
quá quắt, nhấn mạnh thêm cái dư vị đắng cay của tình huống. Thời gian trong Một bữa no
như cũng bị chùng xuống, trong tình huống bữa ăn chực của bà lão khiến người đọc thêm
thấm thía cái cảnh ngộ trớ trêu và nỗi tủi nhục của bà già khốn khổ.
Quá trình học quét nhà của bé Hồng trong Bài học quét nhà được mô tả tỉ mỉ chậm
rãi giống như những thước phim quay chậm, trong đó mỗi thước phim đều in đậm những
tình cảm nhân văn.
Nhiều sự kiện trong sáng tác của Nam Cao thường xảy ra trong thời gian ốm đau của
trẻ em, trong những buổi chiều mùa đông lạnh lẽo, trong mưa bão hoặc những sự kiện xảy
ra lúc ban đêm. Ông thường quay về với quá khứ, lươt qua những năm tháng trong cuộc
đời nhân vật của mình và chỉ dừng lại ở những thời điểm, những giai đoạn có ý nghĩa nhất.

Nam Cao chú ý đặc biệt tới thời gian hiện tại, một cái thời gin hiện tại khơng bị chìm đi
trong q khứ, cũng khơng bị mờ đi vì ảo ảnh của tương lai mà hiện ra rõ ràng hơn, cụ thể
hơn, sinh động hơn, sâu sắc hơn, vì mang theo cả cái chiều dài và bề sâu thăm thẳm của
quá khứ, hiện tại và tương lai cộng lại. Biết dừng ở thời điểm hiện tại của các sự kiện, khám
phá tính chất phong phú, đa dạng của nó, điều đó gắn liền với sở trường của bút pháp Nam
Cao – khám phá thế giới bên trong, thế giới tâm hồnnhân vật và lối kể chuyện theo quan
điểm của nhân vật.
Nam Cao khai thác khơng gian nghệ thuật – cái có liên quan tới quan niệm và cảm
quan của ông về thời gian, trong q trình khám phá những tính cách, những tình huống
trong đường đời của nhân vật. Trong khơng gian nào những hằng số thời gian này tồn tại,
www.hoc360.vn


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

những lãnh địa nào phù hợp với chúng ? Thiếu câu trả lời về vấn đề này, khó có thể hiểu
sâu sắc những đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực và quan niệm về cuộc đời và con người
của Nam Cao.
Không gian trong sáng tác của Nam Cao trước hết là vùng nông thôn, những căn
nhà nơi thôn dã, những con đường làng… Trong những mối liên hệ của thời gian và khơng
gian, làng q, ngơi nhà, con đường hố ra là cơ bản và quan trọng nhất : tất cả những mối
liên hệ còn lại hoặc bị chúng cuốn hút, hoặc là trở thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật
của nhà văn.
Thành phố không phải một lần được nhắc đến, nhưng nó chỉ thống hiện ra như là
một cai gì xa lạ, bí ẩn. Người ta hướng tới nó niềm hi vọng tìm thấy một lối thốt cho cuộc
sống cùng quẫn, buồn chán và tẻ nhạt ở nhà quê. Trong sáng tác của Nam Cao, Hà Nội, Sài
Gòn là nơi mà các nhân vật của ông gửi biết bao hi vọng háo hức, nhưng rồi bị chết dần,
chết mịn những mơ ước ở đó, cuối cùng, như một quy luật họ buộc phải quay về quê
hương đem theo cả sự nghèo đói, cả suy sụp về tinh thần lẫn thể xác.
Thường xuyên hơn cả, ta bắt gặp trong sáng tác của Nam Cao cái làng Vũ Đại (chính

là cái làng Đại Hồng q hương ơng), ngoại ơ làng Thuỵ (Sống mon, nơi có cái trường tư
Thứ dạy thuê để kiếm sống cùng với xóm Bài Thơ (Truyện người hàng xóm) với “những mái
lá xác xơ trơng tiều tuỵ như những cái nón rách trên gáy những người ăn mày ngồi xúm xít
với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh” hiện ra như là những bức phối cảnh của làng Vũ Đại.
Khác với cái làng Đông Xá huyên náo, dồn dập tiếng trống thúc sưu trong Tắt đèn
của Ngô Tất Tố, nơng thơn trong tác phẩm của Nam Cao có cái vẻ vắng lặng, hoang vu của
một vùng quê xác xơ vì nghèo đói. “Một cái làng q u tịch đơi khi chết lặng vì cái nắng trưa
gay gắt của mùa hè, xao xác vào những ngày cuối chu, tả tơi vào những mùa mưa bão,
quạnh vắng vào những đêm trăng.” (1) Không gian ở đây “yên tĩnh quá” đến nỗi người ta
có thể nghe thấy “tiếng thở ra u ám” của những “giậu tre rậm như rừng”, thậm chí có thể
nghe thấy cả “tiếng kêu rầm rĩ của những thớ gỗ trong cái kèo cái cột, hình như chúng tê
mỏi mà vươn mình hay sốt ruột mà rên lên” (Nửa đêm). Cái không gian vắng lặng ấy đôi khi
cũng bị khuấy lên bởi những tiếng hờ, tiếng khóc, tiếng chửi trời chửi đất, sau đó, cả làng
quê lại như chìm lặng đi trong đói khát, ốm đau và tủi nhục.
Khơng gian trong sáng tác của Nam Cao ít được sử dụng làm nền cho những xung
độ xã hội mà chủ yếu là không gian riêng tư, cá nhân, không gian sinh tồn của một làng
quê cổ hủ. Trong cái không gian tù hãm như bị vây bọc bởi những luỹ tre xanh, biết bao
nhân vật của Nam Cao bị cầm tù, bị đày ải, nếu không cam phận sống thệit thịi, tủi nhục
như một kẻ tơi địi (Ở hiền) thì cũng sống âm thầm nhẫn nai trong đắng cay, chua xót (dì
Hảo), nếu khơng bị chết vì đói, vì bệnh tật (Ngèo, Điều văn) thì cũng chết khốn khết khổ vì
bả chó (Lão Hạc) hay bội thực vì “Một bữa no” quá hiếm hoi (Một bữa no…)
www.hoc360.vn


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

Không gian nhà ở, căn buồng là không gian trung tâm trong sáng tác của Nam Cao.
Không gian nghệ thuật của ông được mở ra trước hết và chủ yếu ở cái khơng gian đời tư,
gia đình này, có thể nói, khơng gian nhà ở, căn buồng như một áp lực thu hút các nhân vật
của ơng.

Chính khơng gian nhà ở, căn buồng (tương ứng với nó là thời gian cá nhân hàng
ngày) đã tạo ra điều kiện thuận lợi cho Nam Cao khai thác triệt để cái hàng ngày của đời
sống. Đời sống thật của các nhân vật hiện lên cụ thể, chân thật, sinh động trong cái không
gian riêng tư, gia đình của chính mình. Trong rất nhiều tác phẩm của am Cao, những biến
cố, sự kiện, những hành động, suy nghĩ v.v… của nhân vật chủ yếu diễn ra trong khơng
gian đó (Trăng sáng, Nghèo, Từ ngày mẹ chết, Bài học quét nhà, Con mèo v.v… )
Trong không gian nhà ở, căn buồng, các nhân vật của Nam Cao đã phải đối diện với
các chất văn xuôi tầm thường phàm tục của đời sống. Những tiếng “diếc lác dằn vặt, hắt hủi
và khóc lóc” hằng ngày đã làm xói mịn dần những rung động, những mơ ứơc của những
Điền, những Hộ, những Hài, những Thứ. Những xích mích vặt vãnh, những ghen tng giận
hờn, đố kị nhỏ nhen của Thứ, San, Đích, Oanh cũng phơi bày bằng hết trong cái không gian
chật hẹp ở cái trường tư ngoại ô Hà Nội, trong căn gác xép hoặc trong cái buồng th của
ơng Học. Có thể nói, dựng lên không gian nhà ở, căn buồng, nơi diễn ra những đói khát, ốm
đau, bệnh tật cùng với biết bao những cái hàng ngày vặt vãnh, tầm thường, vô vị, Nam Cao
đã phản ánh chân thật cuộc sống tù đọng, ngột ngạt đến mức không chịu nổi của xã hội
Việt Nam đêm trước Cách mạng Tháng Tám.
Những nhân vật của Nam Cao dường như muốn thốt ra khỏi khơng gian ngột ngạt,
tù túng nhưng đành bất lực. Không gian cư trú như một sợi dây vơ hình trói buộc con người.
Hộ trong Đời thừa nhiều khi “khơng cịn chịu nổi cái khơng khí bực tức ở trong nhà, hắn
đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước mắt, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra
phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn.” Điền trong Trăng sáng biết bao lần muốn thoát khỏi cảnh
sống nheo nhóc nhưng rốt cuộc khơng tài nào thốt được. Trong Sống mịn, Thứ hiểu khá
rõ tình trạng “Sống mịn” của mình, nhưng cam chịu vì sợ hãi trước sự đổi thay. Ngồi trên
con tàu từ Hà Nội về quê, Thứ miên man nghĩ : “Trên những bãi sông kia, trong những làng
mạc, những khóm xanh xanh kia, có bao nhiêu người sốn gnhư y, nhưng không bao giờ
dám cưỡng lại đời mình.” Nam Cao cắt nghĩa chính “thói quen, lòng sợ hãi sự đổi thay, sợ
hãi những cái gì chưa tới đã ngăn cản người ta đến một cuộc sống rộng rãi hơn, đẹp đẽ
hơn”.
Không gian nhà ở, căn buồng trong sáng tác của Nam Cao cũng chính là khơng gian
suy tưởng. Nhân vật Thứ trong Sống mịn cho rằng : “Sống tức là cảm giác và suy tưởng,

sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ, có cảm giác, có tư tưởng
mới sinh ra hành động…” Một quan niệm về con người như thế đã chi phối quá trình sáng
tạo của Nam Cao. Trong sáng tác của ông, những sự kiện, những cử chỉ hành động của
www.hoc360.vn


Công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ Giáo dục IDJ

nhân vật bị đẩy xuống hàng thứ yếu, chỉ là cái cớ để nhà văn phân tích diễn biến tâm lí và
q trình tư tưởng của nhân vật (Mua nhà, Trăng sáng, Bài học qt nhà, Sống mịn…)
Khơng gian cá nhân bị dồn nén tới mức ngột ngạt thường xuất hiện cùng với sự cô
đơn của nhân vật đã tạo điều kiện thuận lợi cho nó bộc lộ cái “bản tính cốt yếu nhất” của
mình như một con người giàu suy tưởng. Dứơi những mái nhà tranh, nhân vật của Nam Cao
thường miên man trong những lo toan, suy nghĩ, độc thoại nội tâm triền miên, âm thầm,
chua chát. Nhiều nhân vật cứ nằm ngay trên giường mà suy nghĩ. Bà cái đĩ (Một bữa no)
“nằm ẹp thành nước mắt”. Phúc trong Điều văn năm trên giường “như một cái xác trong mả
lạnh, chua chát nghĩ rằng : Mình khơng ăn nhập gì với cảnh đùa vui của người.” Nhân vật
Điều trong Nước mắt chỉ khi về tới nhà “quăng mũ, quăng áo, quăng cái thân xác mệt mỏi
xuống giường” mới suy nghĩ một cách sâu sắc, thấm thía về cái khổ, nỗi uất ức của mình
sau một ngày nhịn đói, về cái lí do làm cho người vợ hay mắng chửi con, hay đay nghiến,
gắt gỏng với chồng và làm việc ơng kí nhà ga gây sự với y buổi sáng. Ở ngoại ô làng Thuỵ,
trong căn buồng thuê của ông Học, Thứ thường nằm dài trên giường suy nghĩ rất lung về
cái kiếp sống mịn của mình… Có thể nói, khơng gian nhà ở, căn buồng là khơng gian chủ
yếu để các nhân vật của Nam Cao suy tưởng qua các hình thức đối thoại, độc thoại, độc
thoại nội tâm, thậm chí cả dịng ý thức.
V.E.Khalizev cho rằng : “Những khái niệm về không gian trong tác phẩm văn học
thường có ý nghĩa khái quát” (2) Trong nhiều tác phẩm của Nam Cao, khơng gian là hình
ảnh của một cuộc sống khốn cùng, quẩn quanh, tù túng, ngột ngạt. Trong tiểu thuyết Sống
mịn, khơng gian là hình ảnh của sự sống mòn. Thứ từ làng quê vào Sài Gịn, mơ ước đi Pari
nhưng vì ốm phải về q, rồi đi Hà Nội dạy học, nằm bẹp ở gác xép của ngơi trường tư, sau

đó chuyển sang buồng th của ông Học, rốt cuộc lại phải trở về quê cũ, nơi xuất phát, nơi
mà y cầm chắc đời y sẽ “mốc lên, sẽ rỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra”, khép kín cái vịng đời mịn
mỏi, luẩn quẩn, bế tắc của mình. Nam Cao như muốn đạt ra câu hỏi day dứt mn thuở :
Liệu con người có khả năng thốt ra khỏi tình trạng sống mịn khơng ?
Là một nghệ sĩ bậc thầy, Nam Cao đã sử dụng linh hoạt các yếu tổ của thời gian và
không gian trong quá trình sáng tạo tác phẩm của mình. Từ không gian trung tâm là nhà ở,
căn buồng, không gian nghệ thuật của Nam Cao cịn vươn tới cái khơng gian khác kể cả
không gian tâm tưởng. Cùng với việc đổi thay không gian, thời gian nghệ thuật cũng
được mở ra nhiều chiều nhờ những hồi tưởng, ước mơ và suy tưởng của nhân vật. Những
nhân vật của Nam Cao từ thời hiện đại có thể quay về quá khứ hoặc hướng tới tương lai,
thậm chí có khi xáo trộn cả khơng gian với thời gian. Điều đó làm cho tác phẩm của Nam
Cao mới thoạt nhìn bề ngồi tưởng như rất phóng túng, tuỳ tiện, nhưng thực ra lại rất chặt
chẽ bởi vì chúng được chỉ đạo nhất quán. […]
Tài liệu sưu tầm
www.hoc360.vn



×