Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

SKKN: Giải pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thạnh Đông A2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.97 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU:
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Học tiếng Việt, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản và tối cần thiết
giúp các em hoà nhập với cộng đồng và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội,
phân môn tập làm văn là phân môn thực hành, tổng hợp của tất cả các phân môn thuộc
mơn tiếng Việt (tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện). Chính vì thế, việc dạy
và học làm văn là vấn đề ln ln cần có sự đổi mới. Không thể cứ áp dụng mãi
phương pháp học hôm qua vào hôm nay và mai sau.
Đối với việc dạy cũng thế, trong việc kế thừa cái cũ, cái vốn có địi hỏi phải là
một sự sáng tạo. Trong thực tế, giáo viên thường chưa quan tâm, chưa chú trọng lắmm
đến phân môn này, thường chỉ hướng dẫn qua loa cho học sinh về nhà tự viết… Cịn
việc học thì sao?: Ngồi sách giáo khoa tiếng Việt thì hiện nay có rất nhiều loại sách
tham khảo cho học sinh, giúp cho HS có có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Nhưng
những cuốn sách tham khảo của phân môn tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn
mẫu hoàn chỉnh nên khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi cịn
sao chép y nguyên bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách cảm, cách nghĩ của các
em không phong phú mà thường đi theo lối mịn khn sáo, tẻ nhạt, các em viết văn
theo kiểu công thức cứng nhắc, câu văn chỉ dừng ở mức độ có đủ chủ ngữ, vị ngữ rất ít
những câu văn có sử dụng các biện pháp nghệ thuật, bài văn thiếu sinh động, hấp dẫn.

1


Từ những lý do khách quan và chủ quan trên, để khắc phục những hạn chế trong việc
dạy tập làm văn ở tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học trong nhà trường,
tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “Giải pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh
lớp 5 trường Tiểu học Thạnh Đông A2"
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
- Tìm hiểu sâu sắc hơn về yêu cầu, nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn lớp 5,


thể loại văn miêu tả .
- Đề xuất một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh lớp 5 luyện tập các kĩ năng
viết văn miêu tả theo hướng đổi mới, phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng
tạo của học sinh.
- Trao đổi trong tổ chuyên môn cùng áp dụng thực hiện góp phần khắc phục
những hạn chế trong việc hướng dẫn học sinh các kĩ năng viết văn miêu tả (đặc biệt là
kiểu bài tả người và tả cảnh)
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ GIỚI HẠN (PHẠM VI) ĐỀ TÀI NGHIÊN
CỨU:
1. Phạm vi nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi Trường Tiểu học Thạnh Đông A2 với
việc dạy và học tập làm văn lớp 5
2. Đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu việc dạy học tập làm văn lớp 5, đề xuất một số biện pháp khi rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
3. Thời gian nghiên cứu:
- Từ tháng 9/ 2017 đến tháng 5/ 2018
IV. PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để đạt hiệu quả trong q trình nghiên cứu tơi đưa ra những phương pháp nghiên
cứu sau.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp điều tra phỏng vấn
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm.
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thống kê toán học

2



B. NỘI DUNG:
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ:
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Trong q trình học tập môn Tiếng Việt của học sinh ở trường tiểu học, bài tập
làm văn là nơi để các em thể hiện vốn sống, vốn văn học, khả năng cảm thụ văn học,
các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt một cách tổng hợp. Tập làm văn có vai trị quan trọng
là trau dồi vốn sống, cảm thụ văn bản, cảm nhận, diễn tả và luyện cho các em cách thể
hiện suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của mình bằng ngơn ngữ nói và viết.
Trong phân mơn Tập làm văn, thể loại văn miêu tả là thể loại văn dùng lời có
hình ảnh và cảm xúc làm cho người đọc, người nghe hình dung một cách rõ nét, cụ thể
về đối tượng miêu tả như nó vốn có trong đời sống. Văn miêu tả có đặc điểm là giàu
cảm xúc, giàu trí tưởng tượng và sự đánh giá của người viết đối với đối tượng được
miêu tả. Tuỳ từng đề bài mà các em nhấn mạnh mặt nào hơn. Ví dụ: Khi tả người chú
ý đến cả hình dáng hoạt động, tính tình. Ba mặt này thường thống nhất với nhau làm rõ
hình thái tính cách của người được tả. Cịn tả cảnh sinh hoạt phải dùng lời nói để vẽ
lên bức tranh giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanhvề hoạt động của nhiều
người trong cùng một thời gian và địa điểm thì lúc này phong cảnh chỉ là nét phụ.
Năm học 2017 - 2018 tơi đã tích cực tìm tịi, nghiên cứu sách vở, tài liệu và học
hỏi đồng nghiệp, tích luỹ được một số kinh nghiệm "rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 5".
Thể loại văn miêu tả trong chương trình tập làm văn lớp 5 gồm 43 tiết, trong đó
có 10 tiết ơn tập về tả đồ vật, cây cối, con vật và 33 tiết học bài mới (tả cảnh: 18 tiết, tả
người: 15 tiết) .Về thời lượng chiếm

phân môn của môn Tập làm văn. Mặt khác ,đối

với học sinh tiểu học, việc viết được bài văn miêu tả đã khó, viết được bài văn hay lại
càng khó. Chính vì vậy, tơi nghiên cứu và sáng kiến kinh nghiệm này để nâng cao kĩ
năng tập làm văn cho học sinh lớp 5 (khi hồn thành chương trình tiểu học).

Tập làm văn là một phân mơn rất quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu
học. Để làm một bài văn hay, có hình ảnh, cảm xúc đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng
các kiến thức ở các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện và rộng hơn nữa
là các mơn Khoa học xã hội, Khoa học tự nhiên.Vì các kiến thức ở các bộ môn này sẽ
giúp học sinh có được tư liệu để viết bài văn và biết cách trình bày suy nghĩ của mình
một cách mạch lạc, rõ ràng, sáng sủa và hấp dẫn. Thế nhưng chỉ có kiến thức nói trên
thơi thì chưa đủ bởi vì Tập làm văn là một phân mơn độc lập, nó có hệ thống lý thuyết

3


riêng nhằm xây dựng các thể loại (loại bài) văn chương như miêu tả , tự sự (kể
chuyện), viết thư, đơn từ và ở từng thể loại bài lại đòi hỏi phải rèn luyện để có được
những kĩ năng cần thiết.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Là một giáo viên dạy lớp 5 nhiều năm liền, tôi luôn chú trọng và quan tâm rèn
cho học sinh viết tập làm văn. Thấy các em văn cịn nhiều khó khăn, tơi rất buồn lịng.
Đặc biệt là khi chấm bài tập làm văn miêu tả của các em thì thật là khổ sở. Các em viết
thì khơng dài nhưng để đọc và sửa lỗi cho các em thì thật là vất vả. Chất lượng học
tập, tỉ lệ các em lên lớp cao hay thấp phần lớn là dựa vào việc viết tốt bài tập làm văn.
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Những năm gần đây , sách tham khảo viết về phân môn Tập làm văn lớp 5 để
phục vụ việc dạy và học được đề xuất, luận bàn khá nhiều. Những cuốn sách đó
thường phân hố theo hai hướng: Một là thiên về lí thuyết, hai là cung cấp những dàn
bài hoặc bài văn mẫu của học sinh. Kết hợp với đọc sách, tài liệu với phương pháp
giảng dạy (được học tập qua các lớp bồi dưỡng thường xuyên), đội ngũ giáo viên tiểu
học đã giúp học sinh có được những bài văn tốt, những câu văn hay với những chi tiết
độc đáo. Song số học sinh viết được những bài văn có bố cục rõ ràng, biết lựa chọn
những chi tiết hợp lí, hình ảnh chính xác cịn rất hiếm. Kết quả đó một phần do cách
dạy của giáo viên chưa chú trọng tới việc hướng dẫn học sinh cách làm bài, còn yêu

cầu học sinh đọc nhiều văn mẫu để nhớ nên những bài văn này thường khơ khan, tình
cảm thiếu chân thực và đơi chỗ lời văn, ý văn cịn y ngun hoặc na ná một bài tập đọc
hay một bài văn mẫu. Ví dụ: Khi làm một bài văn tả cảnh sơng nước, có nhiều học
sinh đã sao chép một số câu văn. Cá biệt có những em sao gần như tồn bộ bài
"Hồng hơn trên sơng Hương"(Sách Tiếng Việt lớp 5 tập 1).
Ngoài việc "sao chép" văn mẫu, trong thực tế cịn có tình trạng học sinh cịn lẫn
lộn các kiểu bài mặc dù yêu cầu khác nhau. Lỗi dùng từ, viết câu, liên kết ý cũng rất
phổ biến trong quá trình viết văn miêu tả của học sinh tiểu học.
Với cấu trúc chương trình như vậy địi hỏi lao động sư phạm của giáo viên ở mức
độ cao hơn rất nhiều, giáo viên không thể chỉ sao chép lại các nội dung của sách bài
soạn, sách hướng dẫn, mà địi hỏi phải có sự chuẩn bị cụng phu, có sự linh hoạt, sáng
tạo trong quá trình lên lớp. Phải dạy sao cho giờ học là giờ hoạt động của học sinh, học
sinh có hứng thú, tự giác, tích cực hoạt động, hoạt động, sáng tạo đi trên con đường

4


đúng để phát hiện tri thức mới, chiếm lĩnh tri thức một cách nhẹ nhàng nhưng đậm nét,
khó phai.
* Các bước cơ bản khi làm một bài văn miêu tả :
Đối với bất cứ một bài văn nào , kể cả bài văn miêu tả ,khi viết , các em cũng cần
phải thực hiện 5 bước sau đây:
1. Tìm hiểu đề.
2. Quan sát.
3. Tìm ý và lập dàn ý.
4. Viết bài.
5. Hoàn chỉnh bài viết.
Với 5 bước trên, học sinh cần có các kĩ năng tương ứng bởi vậy hướng dẫn học
sinh các kĩ năng tìm hiểu đề, quan sát, tìm ý, lập dàn ý, viết bài và hồn chỉnh bài là
việc làm quan trọng.

CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM:
* Hướng dẫn học sinh rèn các kĩ năng viết văn miêu tả:
1. Kĩ năng tìm hiểu đề:
Việc phân tích tìm hiểu đề giúp các em xác định được yêu cầu , giới hạn của đề
bài.Với mỗi đề bài cụ thể , khi phân tích tìm hiểu đề cần hướng dẫn cho học sinh trả
lời các câu hỏi : Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai? Thái độ cần bộc lộ trong
bài là thái độ như thế nào? Đích của bài viết không phải lúc nào cũng nhận thấy. Ví dụ:
Với đề bài "Em hãy viết một bài văn tả một người thân yêu nhất đối với em." Nhưng
thực ra mục đích thực sự của bài viết này là thơng qua việc miêu tả ngoại hình và tính
nết, các em cần thể hiện được tình cảm thân thương đối với đối tượng miêu tả. Trong
khi tìm hiểu đề, có những học sinh vì khơng xác định được rõ thái độ cần có khi tả nên
khi tả người hoặc tả cảnh mình u mến lại có những chi tiết phản ánh một thái độ
khơng ưa thích hay khơng bộc lộ được tình cảm đối với đối tượng miêu tả. Đó cũng
chính là lí do khiến mỗi giáo viên chúng ta khi dạy học sinh làm một bài văn miêu tả
không thể bỏ qua việc rèn cho học sinh bộc lộ rõ thái độ, tình cảm của mình khi viết.
Vì vậy cần xen vào bài làm những câu văn nêu nhận xét suy nghĩ của mình. Nhưng
tình cảm, thái độ khơng phải lúc nào cũng thể hiện ở những câu nói trực tiếp như: em
rất yêu …, em rất thích …, em rất quý …, mà có thể thểhiện qua cách miêu tả.

5


2. Kĩ năng quan sát:
Điều quyết định sự thành công của một bài văn miêu tả là nội dung bài văn nên
các em phải "có cái gì để viết" mới có thể tả được. Một trong những cách để "có cái gì
để viết" là quan sát. Muốn quan sát có hiệu quả, giáo viên cần phải dạy học sinh xác
định mục đích quan sát, hơn thế nữa, các em phải có tấm lịng, biết u, biết ghét, phải
có cách nghĩ, cách cảm riêng của mình. Quan sát sao cho khi làm văn phản ánh được
đối tượng vừa cụ thể, chi tiết, vừa có tính khái qt. Chi tiết phải làm cho người đọc
thấy được bản chất của sự vật. Vì vậy, cần dạy học sinh khi quan sát phải lựa chọn .

Bài văn cần có các chi tiết cụ thể nhưng đó khơng phải là chi tiết rời rạc, hay mang
tính liệt kê mà đó là những chi tiết lột tả được cái riêng của người và vật.Ví dụ tả ngoại
hình của người, khơng nhất thiết phải tả hết cả mắt, mũi, tai, miệng, da, tóc, …mà phải
tập trung vào những nét nổi bật, gây ấn tượng của người đó. Thậm chí đối với những
học sinh giỏi, có năng khiếu viết văn, có thể hướng dẫn học sinh cách đặc tả (quan sát
và miêu tả một đặc điểm nổi bật của đối tượng mà vẫn làm nổi bật được hình ảnh của
đối tượng).
3. Kĩ năng tìm ý, lập dàn ý:
Quan sát phải ln gắn với việc tìm ý và tìm các từ ngữ. Cách diễn đạt để tả. Sau
khi học sinh đã quan sát và có được các ý cần hướng dẫn các em luyện cách lập dàn ý,
sắp xếp ý bằng một loạt các câu hỏi gợi ý.
Ví dụ: Với đề văn "Tả một bạn nhỏ ngoan ngoãn, chăm học chăm làm dược
nhiều người quý mến", giáo viên có thể đặt những câu hỏi để học sinh trả lời và tìm ý
như sau:
-Bạn nhỏ tên là gì? Học lớp mấy? ở đâu? Vì sao bạn được mọi người yêu mến?
- Vóc dáng, khn mặt, mái tóc…cách ăn mặc của bạn có gì nổi bật gây được
cảm tình của mọi người?
- Bạn nhỏ có những biểu hiện gì thể hiện sự ngoan ngỗn? Bạn có lễ độ khơng ?
- Bạn nhỏ chăm học, chăm làm như thế nào?
- Bạn nhỏ đã có việc làm gì để giúp đỡ gia đình, bạn bè , những người xung
quanh?
- Em có cảm nghĩ gì về bạn nhỏ định tả trong bài? Những người xung quanh có
tình cảm như thế nào đối với bạn đó?
Việc đặt câu hỏi gợi ý sẽ giúp các em trình bày nội dung bài viết một cách đầy
đủ, mạch lạc, giúp các em diễn đạt các ý sinh động và chặt chẽ. Và khi lập dàn ý, các

6


em phải biết đâu là ý chính của bài. Ví dụ:Tả cảnh gặt lúa trên cánh đồng thì ý bao

trùm ý chính phải là cảnh làm việc nhộn nhịp trên cánh đồng. Còn tả quang cảnh làng
em lúc bắt đầu một ngày mới thì hoạt động của mọi người trong làng bắt đầu một ngày
là quan trọng nhất, lúc này phong cảnh làng xóm chỉ làm nền.
Bên cạnh việc xác định ý chính của bài, học sinh cần cần biết sắp xếp các ý theo
một trình tự thời gian, trình tự tâm lí…Việc thực hiện bố cục ba phần của bài văn cần
được thực hiện một cách tự nhiên, không gị bó, khn sáo. Để hướng dẫn luyện tập
cách lập dàn ý nên hướng dẫn học sinh một số bài tập lập dàn ý như: từ một bài văn
hoàn chỉnh, hãy lập dàn ý của nó hoặc cho sẵn những dàn ý chưa phù hợp yêu cầu học
sinh chữa lại cho đúng.
4. Kĩ năng viết bài và hoàn chỉnh bài:
Khi đã có cái để viết, có dàn ý, các em chuyển sang các bước luyện viết các đoạn
và viết bài. Đây là một khâu rất quan trọng. Từ dàn ý đã có, giáo viên cần hướng dẫn
học sinh viết từng đoạn (mở bài, thân bài, kết bài) rồi viết cả bài.
4.1 . Hướng dẫn học sinh luyện viết đoạn mở bài:
Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu đối tượng sẽ miêu tả trong phần
thân bài đồng thời khêu gợi, lôi cuốn sự chú ý của người đọc đối với đối tượng được
miêu tả. Khi làm bài, đa số học sinh mất khá nhiều thời gian mà vẫn khơng có được
mở bài hay. Vì vậy cần hướng dẫn các em thực hành nhiều cách mở bài.
a .Mở bài trực tiếp:
Theo cách này, chúng ta có thể hướng dẫn học sinh giới thiệu trực tiếp đối tượng
được miêu tả.
b. .Mở bài gián tiếp:
*. Mở bài bằng cách nêu lí do:
Với cách này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu rõ được nguyên nhân, hoặc
dịp nào đó các em gặp đối tượng miêu tả.
*. Mở bài bằng cách nêu tình huống:
Với cách này, chúng ta có thể hướng dẫn học sinh sử dụng một từ ngữ hoặc một
câu của một nhân vật để có thể nêu tình huống dẫn tới việc xuất hiện đối tượng miêu tả
c. Mở bài bằng một đoạn văn miêu tả hoặc kể chuyện:
Với 4 cách mở bài (một cách trực tiếp và ba cách gián tiếp) đã nêu trên, học sinh

có thể lựa chọn, để áp dụng cho từng bài tập làm văn .

7


Để giúp học sinh luyện tập cách mở bài, ngoài những vấn đề trong chương trình
Tiếng Việt 5, giáo viên có thể tự biên soạn thêm một số đề bài sao cho phù hợp với học
sinh. Có thể ra các đề tả người thân như ông bà, cha mẹ, anh chị em, người hàng xóm,
thầy cơ giáo, bạn bè hoặc tả cảnh vui chơi, đêm trăng, cảnh sinh hoạt văn nghệ, thể
thao,…để học sinh có nhiều điều kiện rèn kĩ năng viết phần mở bài.
4.2 Hướng dẫn học sinh viết phần thân bài:
Sau khi đã có mở bài tốt rồi thì vấn đề quan trọng là biết diễn đạt nội dung hay.
Nhiều khi chúng ta bắt gặp ở bài làm của học sinh mở bài rât hấp dẫn song phần thân
bài lại lủng củng. Để giúp học sinh tránh được điều đó, giáo viên có thể sử dụng các
cách sau:
a .Hướng dẫn học sinh sử dụng đại từ, liên từ và giới từ:
Qua bài văn, người đọc có thể nhận thấy được thái độ kính mến, thương yêu hay
giận hờn, căm ghét đối với đối tượng được miêu tả. Điều ấy được thể hiện qua việc lựa
chọn từ ngữ. Từ xưng hô trong tiếng Việt rất giàu màu sắc biểu cảm và hết sức phong
phú. Trong bài văn miêu tả của học sinh, đại từ "em", "con" được sử dụng nhiều hơn
cả, các đại từ đó bộc lộ thái độ lễ phép, trân trọng đối với người đọc song nếu cần bộc
lộ tình cảm thân mật, gần gũi, có thể sử dụng đại từ "tơi" hoặc mình để xưng hơ.
Khơng chỉ ở cách xưng hô, các từ ngữ nối như : vâng, đúng vậy, chà, này nhé, ôi chao,
quả thật, gớm, ấy vậy mà,…cũng góp phần tạo nên ấn tượng như học sinh đang nhận
xét và đối thoại trực tiếp với người đọc khiến đoạn văn trở nên tự nhiên hơn.
b . Hướng dẫn học sinh viết từ độc đáo:
Một bài văn miêu tả là một bài văn mà ở đó học sinh biết cách dùng từ độc đáo.
Trong việc làm một bài văn miêu tả nếu học sinh biết dùng từ đúng lúc đúng chỗ sẽ vẽ
lên được một chân dung có hồn khiến người đọc như có thể nhìn thấy, sờ thấy được.
Đối với học sinh lớp 5, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đạt được mục đích trên

bằng cách hướng dẫn học sinh sử dụng linh hoạt các từ láy, từ ghép, từ tượng thanh, từ
tượng hình, từ nhiều nghĩa …
Có thể cho học sinh phân tích những đoạn văn ngắn có sử dụng nhiều từ láy, từ
tượng hình, từ tượng thanh, từ đa nghĩa để phát hiện (có thể nêu tác dụng). Hoặc có thể
chọn đoạn văn ngắn có nhiều chỗ trống yêu cầu học sinh tự tìm từ thích hợp (từ láy, từ
tượng thanh, từ tượng hình từ gần nghĩa …) điền vào chỗ trống. Hoặc có thể cho đoạn

8


văn có gạch chân các từ đơn yêu cầu học sinh tìm từ láy, từ tượng thanh , từ tượng
hình để thay thế.
c. Hướng dẫn học sinh viết câu văn có hình ảnh:
Văn miêu tả (đặc biệt là kiểu bài tả người và kiểu bài tả cảnh sinh hoạt) là loại
văn ghi lại những nét tiêu biểu về hình dáng hay hoạt động của cảnh vật hay con
người. Khi viết học sinh dễ sa vào kể lể một cách khô khan khơng có cảm giác thích
thú cho người đọc.
Có thể đưa ra các đoạn văn có những hình ảnh sinh động, yêu cầu học sinh phát
hiện hoặc yêu cầu học sinh dùng biện pháp so sánh, nhân hoá đẻ viết đoạn văn.
d . Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn:
Có được những câu văn đúng ngữ pháp, có hình ảnh chưa đủ, học sinh còn cần
biết liên kết các câu, các ý thành đoạn văn.Có thể có các đoạn văn như sau:
Mơ hình 1: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
Mơ hình 2: Câu mở đoạn -> Câu diễn tả.
Mơ hình 3: Các câu diễn tả - > Câu kết đoạn.
Khi hướng dẫn học sinh , giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tập viết theo một
trong 3 cấu trúc trên, hoặc dưa ra các câu văn rời rạc yêu cầu học sinh sắp xếp lại
thành một đoạn văn thích hợp.
4.3. Hướng dẫn học sinh viết phần kết luận :
Phần kết luận trong bài văn rất quan trọng. Nó sẽ để lại ấn tượng đẹp trong lòng

người đọc nếu được viết ngắn gọn, tinh chắc. Có thể hướng dẫn học sinh viết phần kết
luận bằng nhiều cách:
- Cách 1: Nêu cảm tưởng, suy nghĩ thực của bản thân đối với đối tượng được
miêu tả .
- Cách 2: Kết luận bằng cách nêu lời của đối tượng miêu tả hoặc nhân vật khác.
- Cách 3: Có thể dùng cử chỉ, một hoạt động của đối tượng miêu tả để kết luận.
4.4. Hướng dẫn học sinh hoàn chỉnh bài:
Để hoàn chỉnh được bài viết, sau khi viết nháp, học sinh phải biết đọc lại bài làm
và tự sửa chữa. Giáo viên có thể dùng cho từng cặp học sinh tự chấm bài của nhau
để tìm ra khuyết điểm của bạn. Lúc ấy, giáo viên đóng vai trò trọng tài, giám sát chặt
chẽ việc kiểm tra đánh giá của học sinh, giải đáp các thắc mắc của học sinh cả về cách
chọn ý, dùng từ diễn đạt trên cơ sở tôn trọng những ý tưởng sáng tạo của học sinh.

9


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ:
1. Bài học kinh nghiệm:
Trong quá trình áp dụng kinh nghiệm rèn cho học sinh viết văn miêu tả, tôi đã
theo dõi kết quả một số bài làm của học sinh lớp 5A để làm nổi bật kết quả khi áp dụng
SKKN này trong giảng dạy.
2. Kết luận:
Qua thực tế áp dụng SKKN vào giảng dạy, tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm: Để
học sinh lớp 5 có thể viết tốt một bài văn miêu tả (đặc biệt là kiểu bài tả người, tả cảnh
sinh hoạt) mỗi giáo viên cần:
1. Hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ các kĩ năng:
- Phân tích, tìm hiểu đề: Tránh lan man lạc đề.
- Quan sát: Yêu cầu học sinh huy động các giác quan (mắt, mũi, tai, óc tưởng
tượng) để quan sát. Đặc biệt rèn học sinh khả năng tưởng tượng về đối tượng miêu tả .
- Tìm ý, lập dàn ý: Chọn ý tiêu biểu, sắp xếp ý hợp lí.

- Viết bài và hồn chỉnh bài: Lưu ý với học sinh cách viết câu văn bộc lộ được
cảm xúc với đối tượng được miêu tả.
2. Khi lên lớp, giáo viên cần biết sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học
thích hợp để phát huy tính tích cực chủ động trong học tập của học sinh.
3. Trong các giờ Tập làm văn kể cả giờ tìm ý, lập dàn ý, làm văn miệng, làm văn
viết và giờ trả bài, giáo viên cần biết tổ chức điều khiển lớp học, khéo léo gây bầu
khơng khí vui tươi thoải mái, kích thích hứng thú học tập, trí tưởng tượng sáng tạo của
học sinh.
4. Hướng dẫn các em biết tự đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi bài viết. Việc làm
này sẽ là nhân tố quan trọng đảm bảo thành công cho các bài viết sau.
Dạy văn miêu tả lớp 5 là một việc làm khó, nhất là nếu chúng ta đơn độc thực
hiện lại càng khó hơn nên rất cần sự đóng góp trí tuệ của tập thể, của bạn bè đồng
nghiệp. Vì vậy, chúng ta cần nghiêm túc trao đổi cùng bạn bè đồng nghiệp về chuyên
môn nghiệp vụ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn. Như vậy sẽ phát huy được sức
mạnh của tập thể và mỗi chúng ta cũng học hỏi được từ đồng nghiệp rất nhiều.
Thạnh Đông A2, ngày 26 tháng 09 năm 2017
Xác nhận của nhà trường

Người viết

10


Phạm Vũ Nguyên An

11




×