Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.53 KB, 104 trang )





Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Nguyễn Thị Nga -
Giảng viên trường Đại học Quảng Bình đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để
tôi hoàn thành khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn tập thể giảng viên khoa Sư phạm Tiểu học -
Mầm non đã thương yêu, động viên, tạo mọi điều kiện cho tôi trong thời gian
học tập và hoàn thành khóa luận.
Qua đây, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo và các
em học sinh trường Tiểu học Hải Thành đã giúp đỡ, hợp tác, động viên tôi
trong suốt quá trình thực tập, giảng dạy và tìm hiểu thực tế tại trường.
Nhân dịp này tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè,
người thân đã luôn lo lắng, động viên và ủng hộ tôi trong suốt thời gian học
tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng do điều kiện thời gian cũng như
kinh nghiệm chưa có nhiều nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong các thầy cô và bạn đọc góp ý để đề tài được hoàn chỉnh.
Xin chân thành cảm ơn!
Đ

ồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Thùy Linh






LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của chính tôi thực hiện dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Nga. Các tài liệu, những nhận định là trung thực.
Tôi xin chịu hoàn thành trách nhiệm về nội dung khoa học của công trình này.
Đồng Hới, tháng 6 năm 2015
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Thùy Linh























KÍ HIỆU VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

TT Kí hiệu Chú giải
1 [17. Tr 144] Trích dẫn từ tài liệu tham khảo 17 trang 144
2 GV Giáo viên
3 HS Học sinh
4 TLV Tập làm văn
5 SGK Sách giáo khoa
6 TV Tiếng Việt






MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu: 4
6. Đóng góp của đề tài 5
7. Cấu trúc của đề tài 5
PHẦN 2: NỘI DUNG 6
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài 6

1.2. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 4, 5 với việc dạy học văn miêu tả 10
1.3. Ý nghĩa của việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5 11
1.2. Cơ sở thực tiễn 11
1.2.1. Văn miêu tả trong trường Tiểu học 11
1.2.2. Thực trạng về việc làm văn miêu tả của giáo viên, học sinh ở một số trường
Tiểu học. 13
2.3. Cấu trúc chương trình TLV lớp 4, 5 21
TIỂU KẾT CHƯƠNG I 24
CHƯƠNG II: CÁC BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO
HỌC SINH LỚP 4, 5 25
2.1. Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh 25
2.2. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý 28
2.2.1. Tìm hiểu đề 28
2.2.2 Kỹ năng lập dàn ý 31
2.3. Tăng cường củng cố tri thức giúp HS tích lũy vốn từ, câu, đoạn 40
2.3.1. Tăng cường củng cố tri thức lí thuyết về từ 40
2.3.2. Mở rộng vốn từ cho học sinh 42
2.3.3 Rèn cho học sinh biết cách sử dụng vốn từ trong văn miêu tả 46
2.3.4. Tăng cường củng cố tri thức lí thuyết về câu trong văn miêu tả 49
2.2.5. Rèn cho học sinh biết cách sử dụng vốn câu trong văn miêu tả 51
2.3.6. Tăng cường củng cố tri thức lí thuyết về đoạn trong văn miêu tả 53
2.3.7. Rèn cho học sinh biết cách viết đoạn trong văn miêu tả 57
2.4. Rèn cho học sinh biết cách sử dụng các phương tiện diễn cảm và biện pháp tu
từ 63
2.4.1. So sánh 63
2.4.2. Nhân hoá 66
2.4.3. Điệp từ, điệp ngữ 68
2.4.4. Ẩn dụ (còn gọi là ví ngầm) 69
2.4.5. Hoán dụ 70
2.5. Rèn kĩ năng phát hiện và sửa lỗi 72

TIỂU KẾT CHƯƠNG II 75
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 76
3.1. Những vấn đề chung của thực nghiệm 76
3.1.1. Mục đích, yêu cầu của thực nghiệm 76
3.1.2. Địa bàn, thời gian, đối tượng thực nghiệm 76
3.2. Tiến trình thực nghiệm 77
3.2.1. Chọn nội dung thực nghiệm 77
3.2.2. Thiết kế giáo án và phiếu kiểm tra 77
3.2.2.1. Thiết kế giáo án thử nghiệm 77
3.2.2.2. Phiếu kiểm tra kết quả thực nghiệm và cách xếp loại 90
3.2.3. Tiến hành dạy thực nghiệm 92
3.2.4. Tổ chức kiểm tra và chấm bài 92
3.3. Đánh giá kết quả thực nghiệm 93
3.3.1. Bảng đối chiếu kết quả thực nghiệm 1 93
3.3.2. Bảng đối chiếu kết quả thực nghiệm 2 94
3.3.3. Bảng đối chiếu kết quả thực nghiệm 3 94
3.3.4. Bảng đối chiếu kết quả thực nghiệm 4 95
PHẦN 3: KẾT LUẬN 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO 98



1

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bậc tiểu học đóng vai trò là tiền đề, nền
tảng. Vì vậy, phải chú trọng chăm lo hình thành cho các em những tri thức ban đầu
đúng đắn, vững chắc để làm cơ sở cho những bậc học cao hơn, góp phần phát triển
đạo đức, trí tuệ, hình thành nhân cách con người mới.

Trong chương trình tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong hai môn chính có
vai trò rất quan trọng. Tiếng Việt là đối tượng mà học sinh cần chiếm lĩnh. Đồng
thời Tiếng Việt cũng là một môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ
năng sử dụng Tiếng Việt để học tập giao tiếp, góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy. Môn Tiếng Việt gồm có bảy phân môn, trong đó Phân môn Tập làm văn là phân
môn thực hành tổng hợp, được vận dụng các tri thức, kỹ năng của nhiều phân môn
khác. Nó có vị trí hết sức quan trọng trong chương trình Tiểu học. Thông qua phân
môn Tập làm văn nhằm rèn luyện cho học sinh các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết để
phục vụ cho việc học tập và giao tiếp. Cũng từ đó có thể trau dồi thái độ ứng xử có văn
hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Bồi dưỡng tình cảm lành mạnh, tình yêu
tiếng Việt, tình yêu quê hương đất nước. Thông qua môn Tập làm văn, học sinh vận
dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp những kiến thức, kĩ năng Tiếng Việt đã được
học vào việc tạo lập nên những bài văn hay, giàu tính nghệ thuật.
Trong phân môn Tập làm văn ở lớp 4, 5 văn miêu tả chiếm thời lượng lớn
nhất so với các loại văn khác. Trong dạy học văn miêu tả, kĩ năng viết văn có vị trí
gần như quyết định đến sự thành công của bài làm văn miêu tả. Học sinh không thể
tạo nên một bài văn miêu tả khi chưa biết kĩ năng viết văn là gì. Chính kĩ năng này
sẽ giúp các em sử dụng tốt ngôn ngữ Tiếng Việt của mình để lột tả hết ý tưởng cá
nhân và rèn tư duy logic. Đây sẽ là cơ sở để phác họa một cách chân thực và sinh
động nhất về đối tượng bằng lời văn của mình.
Thực tế việc dạy và học viết văn miêu tả còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân chủ
yếu là do việc rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả chưa đầy đủ, còn nhiều khiếm
khuyết. GV chưa nắm kĩ các kiến thức, yêu cầu giảng dạy TLV miêu tả cũng như
yêu cầu giảng dạy các tiết rèn kĩ năng viết văn miêu tả. Chưa hướng dẫn HS xây
dựng bài văn đi theo một quy trình cụ thể, đảm bảo tính khoa học. Việc hướng dẫn

2

HS rèn kĩ năng viết bài văn miêu tả đều dựa vào kinh nghiệm giảng dạy của mỗi
GV. Đồng thời, bản thân HS còn gặp rất nhiều khó khăn về kiến thức lẫn kĩ năng

khi xây dựng một bài văn miêu tả. Vì vậy bài văn miêu tả của HS còn mang tính
liệt kê, lời văn lủng củng, thiếu ý hay sắp xếp ý một cách lộn xộn, chưa có sự liên
kết giữa các ý và các câu. Đại đa số các em viết văn còn khô khan, việc sử dụng các
từ ngữ còn vụng về, chưa biết sử dụng biện pháp tu từ để gợi tả nên câu văn chưa
có “hồn” tức là chất lượng học sinh giỏi về môn Tiếng Việt còn rất hạn chế, đặc
biệt các em chưa được hướng dẫn quan sát cụ thể, tỉ mỉ nên các em chỉ tưởng tượng
để viết bài. Hầu hết các em chưa tự quan sát, tìm tòi khám phá ra được “cái mới”
cái nổi bật của đối tượng, các em đang tả để nói và viết những điều các em tự quan
sát và tự cảm nhận được. Những tiết TLV viết văn miêu tả trở nên căng thẳng, khô
khan, thiếu cảm xúc đã làm mất đi sự hứng thú trong học tập, sự sáng tạo và óc
tưởng tượng phong phú của các em học sinh.
Từ những điều đã phân tích ở trên cho thấy việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả
cho học sinh lớp 4, 5 là vô cùng quan trọng và đặt lên hàng đầu. Nó tạo nền móng
vững chắc cho quá trình tích lũy của học sinh ở bậc quan trọng mà trong đó, người
giáo viên Tiểu học chính là người thợ xây đặt những viên gạch đầu tiên cho tiến
trình sau này của học sinh. Vì những lí do quan trọng nên tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5” để
nghiên cứu
2. Lịch sử nghiên cứu
Văn miêu tả là một trong những kiểu văn bản có vị trí quan trọng trong
chương trình TLV tiểu học. Nó góp phần vào việc bồi dưỡng cảm xúc, phát triển
ngôn ngữ, tư duy lẫn khả năng sáng tạo cho học sinh. Do đó đã có nhiều công trình
nghiên cứu về dạy và học viết văn miêu tả để nâng cao chất lượng bài văn cho HS.
SGK TV lớp 4- 5 ( chương trình CCGD) ngoài việc chú trọng đến kĩ năng nghe,
nói, đọc, viết, sách còn chú trọng đến việc rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý cho HS.
Chương trình TLV miêu tả 4- 5 (chương trình 2000), các nhà viết sách đã có
sự đổi mới khi quan tâm đến việc rèn kĩ năng viết đoạn văn miêu tả bằng cách dành
khá nhiều thời gian cho HS rèn luyện kĩ năng này. Nhưng việc rèn kĩ năng viết
đoạn văn miêu tả còn chưa đi theo một hệ thống rõ ràng, cụ thể.


3

Bên cạnh SGK nằm trong chương trình, còn có một số sách tham khảo đề cập
đến vấn đề dạy học văn miêu tả của các nhà ngôn ngữ học.
Vũ Tú Nam – Phạm Hổ - Bùi Hiển – Nguyễn Quang Sáng trong cuốn “Văn
Miêu tả và kể chuyện” chỉ mới đề cập đến những nét chung nhất của một bài miêu
tả, nhưng vấn đề đưa ra con trừu tượng với giáo viên và học sinh. Vì thế giáo viên
rất khó vận dụng vào quá trình dạy học văn miêu tả.
Hai tác giả Lê Phương Nga - Nguyễn Trí viết cuốn “Phương pháp dạy học
Tiếng Việt ở Tiểu học”. Phần đầu cuốn sách bàn về những vấn đề chung của việc
dạy tiếng Việt ở Tiểu học và sau đó đi sâu vào các phương pháp dạy văn miêu tả,
đề cập đến những tồn tại và đưa ra những kiến nghị trong dạy học các kiểu bài văn
miêu tả. Tuy nhiên, những kiến nghị và giải pháp mà công trình đưa ra còn ở gốc
độ khái quát, chưa vận dụng được vào thực tiễn dạy và học văn miêu tả ở nhà
trường tiểu học hiện nay.
Hoàng Thị Thuyết, cuốn “Lí luận dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học” là sự vận
dụng những thành tựu lí luận dạy học trên thế giới đồng thời kế thừa các quan điểm
dạy học đã được thừa nhận trong nước. Phương pháp dạy học và các kĩ năng kiến thức
Tiếng Việt trong sách được triển khai theo hướng tiếp cận tích hợp, cách tiếp cận giao
tiếp, kết hợp với một số lý thuyết học tập tiếng khác trên thế giới. Điểm mới trong sách
là tác giả đã đưa ra được quá trình làm văn viết cho học sinh nhưng tác giả lại không
đề cập đến một quy trình rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS Tiểu học.
Hoàng Hòa Bình, cuốn “Dạy văn cho học sinh tiểu học” (NXB GD-1999), tác
giả đã có những đề xuất giúp GV tiểu học để hướng dẫn HS cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của tác phẩm văn học mà chưa đi sâu hướng dẫn quy trình viết một bài văn.
Nguyễn Trí, cuốn “Văn miêu tả và phương pháp dạy học văn miêu tả ở tiểu
học” ( Nhà xuất bản Giáo dục-1996), tác giả đã đề cập đến cách dạy văn miêu tả
trong chương trình Tiểu học. Tuy nhiên tác giả chưa nói về vấn đề cách học của
học sinh, tự học như thế nào để tạo cho mình vốn từ ngữ, vốn sống phong phú có
thể áp dụng vào làm văn miêu tả.

Trong các tài liệu trên đây, các tác giả đã đề cập đến vấn đề dạy học phân môn
TLV trên phương diện vị trí, nhiệm vụ, nội dung chương trình, phương pháp dạy
học nói chung và văn miêu tả nói riêng nhưng chưa đi sâu nghiên cứu việc rèn kỹ

4

năng viết văn miêu tả ở một khối lớp cụ thể. Do đó đề tài “ Một số biện pháp rèn
kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5” là một đề tài mới mẻ, mang tính
khoa học, phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS lớp 4-5, góp phần nâng cao
năng lực, kĩ năng viết văn miêu tả cho các em, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng, hiệu quả của việc dạy học văn miêu tả.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
- Sách giáo khoa Tiểu học
- Học sinh và giáo viên Tiểu học (lớp 4, 5)
- Phạm vi nghiên cứu
Vì thời gian có hạn nên đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu trong việc rèn kĩ năng
viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của đề tài
- Đề xuất biện pháp rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5.
- Thực nghiệm.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm giải quyết các vấn đề đặt ra trong đề tài, chúng tôi đã kết hợp sử dụng
các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
Sử dụng các phương pháp so sánh, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa
những nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

+Phương pháp điểu tra
Sử dụng một số câu hỏi để điều tra và thống kê việc nắm vững yêu cầu
giảng dạy Tập làm văn miêu tả; việc viết văn meeeu tả của học sinh
+Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng trong các tiết dự giờ, quan sát HS trong các
hoạt động khác…để đánh giá mức độ nắm kiến thức làm văn miêu tả của HS.

5

+Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm được sử dụng trong đọc, phân tích,
nghiên cứu những bài văn của học sinh để từ đó biết được những ưu, nhược điểm,
những hạn chế trong làm văn của học sinh.
+Phương pháp thu thập thông tin
Sử dụng trong thu thập ý kiến giáo viên, học sinh; thu thập tài liệu.
+ Phương pháp thử nghiệm sư phạm
Phương pháp này được sử dụng trong khâu hoàn tất quá trình nghiên cứu
nhằm xem xét, xác nhận tính khả thi của các biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả
của học sinh lớp 4, 5 mà đề tài nghiên cứu
- Phương pháp thống kê toán học
Khảo sát, xử lí các số liệu trong quá trình nghiên cứu
6. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa toàn bộ lí thuyết về văn miêu tả
- Đề xuất biện pháp rèn kĩ năng làm viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5
- Tài liệu cho giáo viên và sinh viên nghiên cứu
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Khóa luận
gồm 3 chương :
Chương 1 : Cơ sở khoa học của đề tài
Chương 2 : Các biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


6

PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
- Biện pháp
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, nhà xuất bản tổng hợp TP. HCM [17. Tr 144] thì
biện pháp là cách thức giải quyết một vấn đề hoặc thực hiện một chủ trương.
- Kĩ năng
- Kĩ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn [17. Tr 985]
- Kĩ năng được hiểu như một khả năng của con người có thể hoàn thành các
nhiệm vụ trong những điều kiện mới dựa trên những tri thức và kinh nghiệm đã
được tích lũy và một loạt các kĩ xảo trong mối qua hệ mật thiết với nhau. Trong quá
trình lĩnh hội và sáng tạo văn bản, kĩ năng và kĩ xảo luôn có mối quan hệ biện
chứng với nhau ( Theo Lê A- Nguyễn Trí)
- Kĩ năng làm văn
Kĩ năng làm văn là kĩ năng thông qua hệ thống kiến thức đã có HS cảm nhận
bằng sự tinh tế của bản thân mà có được những bài văn hay.
- Con đường hình thành kĩ năng viết văn miêu tả
Dựa trên lý thuyết về hoạt động, có thể khẳng định viết văn miêu tả là một
hoạt động, và con đường dạy văn miêu tả chính là dạy các thao tác tạo ra từng hành
động của hoạt động viết văn miêu tả cho HS. Yếu tố chủ yếu quyết định sự thành
công của việc dạy văn miêu tả là sự thành thục của các thao tác trong từng hành
động. Sự thành thục đó chính là HS đã có kĩ năng viết văn miêu tả.

- Cơ sở của việc xác định các kĩ năng viết văn miêu tả
Các kĩ năng viết văn miêu tả được xác định dựa trên 4 giai đoạn của quá trình
tạo lập văn bản, đó là giai đoạn: định hướng, lập chương trình, hiện thực hóa
chương trình, kiểm tra. Tương ứng với các giai đoạn là các nhóm kĩ năng viết văn
miêu tả. Việc rèn luyện các nhóm kĩ năng này cần dựa trên sự phân giải kĩ năng lớn
thành các kĩ năng bộ phận , phân giải các kĩ năng bộ phận thành từng thao tác để có
những biện pháp hợp lý nhằm hình thành và rèn luyện từng thao tác, từng kĩ năng

7

bộ phận, tiến tới hình thành và rèn luyện kĩ năng lớn hơn- kĩ năng viết văn miêu tả
cho HS.
- Văn miêu tả
- Khái niệm về văn miêu tả
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, miêu tả là “Dùng lời văn hoặc nét vẽ mà biểu hiện
cảnh vật hoặc nhân vật” [17. Tr 1175]
Theo sách Tiếng Việt 4: “ Văn miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi
bật của cảnh, của người, của vật giúp người đọc, người nghe có thể hình dung được
các đối tượng ấy”.[12. Tr 140]
Văn miêu tả là thể loại văn dùng ngôn ngữ để tả sự vật, hiện tượng, con
người,…một cách sinh động, cụ thể như nó vốn có. Đây là loại văn giàu cảm xúc,
giàu trí tưởng tượng, sáng tạo của người viết. Văn miêu tả là một bức tranh vẽ các
sự vật, hiện tượng, con người bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Nhờ có
văn miêu tả, con người có thể lạc vào thế giới của những cảm xúc, những âm thanh,
tiếng động, hương vị của những cánh đồng, khu rừng, làng quê…, thấy rõ tư tưởng,
tình cảm của mỗi con người, mỗi sự vật. Đó là sự kết tinh của các nhận xét tinh tế,
những rung động sâu sắc mà người viết thu lượm được khi quan sát cuộc sống.
Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong cuộc sống cũng có thể trở thành đối
tượng của văn miêu tả nhưng không phải bất kỳ một sự việc nào cũng trở thành
văn miêu tả. Miêu tả không chỉ đơn giản ở việc giúp người đọc thấy rõ được những

nét đặc trưng, những đặc điểm, tính chất,…không phải là việc sao chép, chụp lại
một cách máy móc mà phải thể hiện được sự tinh tế của tác giả trong việc sử dụng
ngôn từ, trong cách thể hiện cảm xúc, tình cảm của tác giả đối với đối tượng miêu
tả. Một bài văn miêu tả đạt được đỉnh của nó khi mà bằng những ngôn ngữ sinh
động nào đó khiến cho người nghe, người đọc như cảm thấy mình đang đứng trước
sự vật, hiện tượng đó và cảm thấy như được nghe, sờ những gì mà tác giả nói đến.
Khi miêu tả lạnh lùng, khách quan nhằm mục đích thông báo đơn thuần thì đó
không phải là miêu tả văn học mà là theo phong cách khoa học.
Hãy cùng ngắm nhìn một buổi chiều thanh bình tại một vùng quê dưới ngòi
bút của tác giả Đỗ Chu (Chiều trên quê hương - SGK TV lớp 3/1).
Đó là một buổi chiều mùa hạ có mây trắng xô đuổi nhau trên cao. Nền trời xanh
vời vợi. Con chim sơn ca cất lên tiếng hót tự do, tha thiết đến nỗi khiến người ta phải

8

ao ước giá mà mình có một đôi cánh. Trải khắp cánh đồng là nắng chiều vàng dịu và
thơm hơi đất, là gió đưa thoang thoảng hương lúa ngậm đòng và hương sen.
Chỉ ngắn gọn có bốn câu văn mà Đỗ Chu đã cho ta nhìn thấy được một làng
quê hài hòa vào một buổi chiều mùa hạ vừa động vừa tĩnh. Động đó là mây đùa
giỡn nhau, tiếng chim hót. Tĩnh đó là nắng vàng dịu, hương lúa ngậm đòng và
hương sen. Một cuộc sống khát khao nhưng cũng rất yên bình. Sự hòa hợp giữa đất
với trời, giữa thiên nhiên cỏ cây hoa lá. Một buổi chiều thật đẹp, làm cho tâm hồn
người đọc cũng cảm thấy được yên bình, nhẹ nhàng hơn. Ngòi bút của tác giả thật
tinh tế.
- Đặc điểm của văn miêu tả
Trong cuốn “Văn miêu tả và phương pháp dạy văn miêu tả”, tác giả Nguyễn
Trí đã nêu rõ ba đặc điểm của văn miêu tả: văn miêu tả mang tính thông báo thẩm
mĩ, chứa đựng tình cảm của người viết; văn miêu tả mang tính sinh động, tạo hình;
ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh.
+ Văn miêu tả mang tính thông báo thẩm mỹ, chứa đựng tình cảm của người viết.

Mọi sự vật hiện tượng đều có thể trở thành đối tượng của văn miêu tả. Trong
văn miêu tả, sự vật và hiện tượng không được tái hiện theo kiểu sao chép một cách
máy móc, khô cứng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức
phong phú. Nó thể hiện cái nhìn, cái quan sát, cách cảm nhận mới mẻ của người
viết với đối tượng miêu tả. Cái mới, cái riêng bắt đầu có thể chỉ là ở những quan sát
và kết quả của sự quan sát, sau đó tiến lên thể hiện cái mới, cái riêng trong tư
tưởng, tình cảm đối với đối tượng miêu tả. Cùng một đối tượng quan sát nhưng
giữa hai người sẽ có cái nhìn, cách cảm nhận, ý nghĩ, cảm xúc khác nhau. Vì vậy
mà văn miêu tả bao giờ cũng mang đậm dấu ấn cá nhân, cảm xúc chủ quan của
người viết. Đây chính là điểm khác biệt giữa miêu tả trong văn học và miêu tả
trong khoa học - thường mang tính chính xác cao, nhưng lại thiếu cảm xúc, thiếu
tâm hồn. Dù đối tượng của bài văn miêu tả là gì đi chăng nữa thì bao giờ người viết
cũng đánh giá chúng theo một quan điểm thẩm mỹ, cũng gữi gắm vào trong đó
những suy nghĩ, tình cảm hay ý kiến nhận xét, đánh giá, bình luận của bản thân
mình. Chính vì vậy mà trong từng chi tiết của bài văn miêu tả đều mang đậm dấu
ấn chủ quan của người viết.

9

+ Văn miêu tả mang tính sinh động, tạo hình
Tính sinh động, tạo hình của văn miêu tả thể hiện ở con người, phong cảnh, sự
vật, đồ vật… được miêu tả hiện lên qua từng câu văn, đoạn văn như trong cuộc
sống khiến người đọc, người nghe như được ngắm nhìn, được sờ, được nghe, được
ngửi thấy những gì mà tác giả đang cảm nhận. Muốn bài văn miêu tả được sinh
động thì người viết phải tạo nên được những câu văn, những đoạn văn, bài văn
sống động, gây ấn tượng. Điều quan trọng để có thể làm được điều đó, trước hết
người viết phải có sự quan sát tỉ mỉ, ghi nhớ được những điều mình đã quan sát
được kết hợp với khả năng sử dụng ngôn từ một cách khéo léo, các biện pháp tu từ.
+ Ngôn ngữ miêu tả giàu cảm xúc, hình ảnh.
Đặc điểm nổi bật của văn miêu tả là ngôn ngữ giàu cảm xúc, hình ảnh. Đây là

đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa văn miêu tả với các thể loại văn khác như văn
bản tự sự, văn bản trữ tình hay văn nghị luận. Ngôn ngữ văn miêu tả giàu cảm xúc
bởi trong bài viết bao giờ người viết cũng bộc lộ tình cảm, cảm xúc hay ý kiến
nhận xét, đánh giá hay bình luận của người viết với đối tượng miêu tả. Tình cảm đó
có thể là sự yêu mến, yêu quý, thán phục hay sự gắn bó với đối tượng được miêu tả.
Ngôn ngữ văn miêu tả giàu hình ảnh bởi trong bài viết thường được sử dụng
từ ngữ gợi hình như: tính từ, động từ, từ láy hay các biện pháp tu từ như: so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ,… chính điều này đã tạo cho ngôn ngữ trong văn miêu tả có sự
uyển chuyển, nhịp nhàng, diễn tả tốt cảm xúc của người viết. Hơn thế nó có tác
dụng khắc họa được bức tranh miêu tả sinh động như cuộc sống thực.
Hai yếu tố giàu cảm xúc và giàu hình ảnh gắn bó khăng khít với nhau làm nên
đặc điểm riêng biệt và làm cho những trang văn miêu tả trở nên có hồn, cuốn hút
người đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ và tác động sâu sắc vào vị trí tưởng tượng cũng
như của người đọc.
Trong cuốn “Rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt” hai tác giả Đào Ngọc và
Nguyễn Quang Ninh đã chĩ rõ ba đặc điểm của văn miêu tả. Đó là: Văn miêu tả là
một loại văn mang tính thông báo thẩm mỹ, trong văn miêu tả, cái mới, cái riêng
phải gắn chặt với tính chân thật; ngôn ngữ trong văn miêu tả bao giờ cũng giàu cảm
xúc, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu, âm thanh,…
Như vậy, hai tác giả đó nêu thêm một đặc điểm cũng rất quan trọng của văn
miêu tả đó là, tính sáng tạo phải gắn chặt với tính chân thật. Bởi miêu tả là “vẽ” lại
những đặc điểm nổi bật của cảnh vật, của người” nên sự vẽ lại đó phải đảm bảo

10
đúng như đối tượng đang tồn tại trong cuộc sống. Văn miêu tả phát huy trí tưởng
tượng, sự sáng tạo của người viết nhưng dựa trên những đặc điểm, tính chất thực sự
vốn có. Một yêu cầu rất quan trọng đối với một bài văn miêu tả là văn miêu tả phát
huy trí tưởng tượng, sự sáng tạo của người viết nhưng dựa trên những đặc điểm,
tính chất chân thực như nó vốn có. Đó chính là sự cảm nhận theo chủ quan của mỗi
người, và nó làm nên sự khác biệt giữa các bài văn miêu tả.

1.2. Đặc điểm tâm sinh lý học sinh lớp 4, 5 với việc dạy học văn miêu tả
Học sinh lớp 4, 5 đã bắt đầu bước vào tuổi thiếu niên. Các em lớn nhanh, kích
thước và tổ chức cơ thể đã tiến gần đến người trưởng thành. Hành vi và đời sống
nội tâm của các em đang có những thay đổi rõ rệt. Lứa tuổi này được gọi là lứa tuổi
chuyển giao giữa trẻ con và người lớn. Các em rất dễ xúc động. Chính việc dâng
cao cảm xúc đã làm các em thay đổi hoạt động sáng tạo yêu thích, từ vẽ sang hình
thức sáng tạo bằng lời nói. So với vẽ và đặc biệt là những bức vẽ hoàn thiện thì lời
nói cho phép diễn đạt dễ dàng hơn rất nhiều lần những quan hệ phức tạp, những
tính chất bên trong, những sự vận động logic, sự phức tạp của sự kiện.
Lớp 4, 5 là giai đoạn mà các em chuyển từ nhận thức cảm tính sang nhận thức
lý tính, có mục đích. Đối với HS lớp 4, 5 tư duy trực quan đã được hình thành và
bắt đầu chuyển dần sang tư duy trừu tượng, khái quát. Tư duy các em đã thay đổi
về chất, biết tổng hợp các sự vật, hiện tượng, tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn
so với các lớp đầu bậc học. Các em đã có khả năng phân tích, khái quát, biết phê
phán và kiến thức lĩnh hội không chỉ một chiều. Ở lứa tuổi này, tưởng tượng tái tạo
đã bắt đầu hoàn thiện, từ những hình ảnh cụ thể, trẻ tái tạo ra những hình ảnh mới.
Tưởng tượng sáng tạo, phong phú tương đối phát triển, trẻ bắt đầu phát triển khả
năng làm thơ, làm văn, vẽ,…Đặc biệt trí tưởng tượng của các em trong giai đoạn
này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện
tượng để gắn liền với các rung động tình cảm. Các em có lòng say mê văn học,
hứng thú với việc dùng câu văn của mình để bộc lộ một sự vật, một hiện tượng nào
đó, có tình cảm và sự gắn bó với những đồ vật, những loài vật và cây cối xung
quanh. Từ đó các em có nhu cầu bộc lộ cảm xúc của mình trước những sự vật, sự
việc mà bản thân mình tiếp xúc hàng ngày. Hoạt động sáng tạo yêu thích của các
em được thể hiện rõ trong làm văn. Nếu được học theo một chương trình đúng, một

11
phương pháp phù hợp thì các em tuổi này rất thích học văn. Loại bài viết đam mê
của các em thuộc về chủ đề tự do. Có thể viết những xúc động từ trong lòng, được
thả mình vào tưởng tượng, không ít học sinh đã làm được những bài khá hoàn

chỉnh và hấp dẫn như những sáng tác trẻ em thực sự.
1.3. Ý nghĩa của việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4, 5
Trẻ em chưa thể vẽ được những bức tranh hoàn thiện. Các em chỉ biết dùng
lời nói, câu văn để viết lại những điều mình quan sát, nhận xét sự vật dưới cái nhìn
của trẻ con. Sự quan sát, nhận xét của các em còn thiên về cảm tính. Việc dạy văn
miêu tả cho trẻ Tiểu học sẽ góp phần nuôi dưỡng tâm hồn và tạo nên sự quan tâm
của các em với thế giới xung quanh, trong đó quan trọng nhất là với thiên nhiên.
Góp phần giáo dục tình cảm thẩm mĩ, tình yêu cái đẹp, góp phần phát triển ngôn
ngữ của trẻ. Học văn miêu tả, học sinh có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất
giữa tư duy, tình cảm, ngôn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên, với xã
hội. Lúc ấy trẻ sẽ bộc lộ được cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn, phát triển nhân
cách của một con người có ích cho xã hội.
Miêu tả là một trong những kiểu văn bản có vị trí quan trọng trong chương
trình TLV tiểu học lớp 4, 5. Nó góp phần hình thành và phát triển tư duy cho HS
Tiểu học. Học văn miêu tả, HS được rèn kĩ năng viết văn miêu tả gắn liền với quá
trình tạo lập văn bản như : tìm hiểu đề, tìm ý, lập dàn ý ; diễn đạt thành bài văn
miêu tả. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn, quan sát đối tượng, tìm lí lẽ,
dẫn chứng trình bày, tranh luận góp phần phát triển năng lực phân tích tổng hợp
của học sinh. Tư duy hình tượng của trẻ cũng được rèn luyện và phát triển qua việc
sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Văn miêu tả trong trường Tiểu học
Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 4, 5
Trong chương trình TLV lớp 4, 5 học sinh được trang bị kiến thức cần thiết
về văn miêu tả, về kĩ năng viết đoạn văn, bài văn miêu tả. Các kiến thức này được
cung cấp qua các nội dung : Cấu tạo bài văn miêu tả, Luyện tập quan sát, Luyện tập
lập dàn ý, Luyện tập xây dựng đoạn văn, Bài viết và trả bài viết. Các nội dung này
là một khuôn mẫu, được lặp lại ở các kiểu bài văn miêu tả: miêu tả đồ vật, miêu tả
cây cối, miêu tả con vật, miêu tả cảnh, miêu tả người. Ngoài ra nội dung chương


12
trình TLV miêu tả lớp 4, 5 còn có thêm cả những kiến thức lí thuyết sơ giản giúp
HS nắm chắc về đặc điểm, kết cấu và phương pháp làm bài của từng kiểu văn miêu
tả. Chương trình nhấn mạnh yếu tố thực hành, coi trọng việc rèn luyện kĩ năng, đặc
biệt là kĩ năng xây dựng đoạn văn. HS được học cách viết đoạn văn với nhiều nội
dung và các kiểu khác nhau ở một số dạng bài miêu tả những đối tượng quen thuộc,
gần gũi với học sinh. Một khi kĩ năng xây dựng đoạn văn thành thạo, học sinh sẽ
chủ động, tự tin hơn khi xây dựng được một văn bản miêu tả hoàn chỉnh.
Văn miêu tả chiếm vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 4,
5. Ở lớp 4 số tiết học văn miêu tả là 30/62 tiết Tập làm văn chiếm 48,38% (chưa kể
số tiết ôn tập và kiểm tra giữa kỳ, cuối kỳ). Ở lớp 5 số tiết học văn miêu tả là 45 tiết
trong tổng số 62 tiết Tập làm văn của cả năm học. Ở hai lớp học này, HS được học là 5
kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật, tả cảnh và tả người.
Như vậy, mỗi kiểu bài đều được dành khá nhiều số tiết, nhằm giúp HS luyện
tập và làm bài tốt hơn. Nghĩa là, HS có đầy đủ kiến thức và kỹ năng làm được một
bài văn miêu tả hay, sinh động, sáng tạo, giàu hình ảnh và cảm xúc. Tất cả các tiết
học đều có kỹ năng làm văn, có nghĩa là chương trình Tập làm văn nói chung và
văn miêu tả nói riêng đã chú trọng đến vấn đề rèn kỹ năng thực hành cho HS.
So với chương trình trước đây, chương trình hiện hành có số tiết dành cho
Tập làm văn miêu tả nhiều hơn mà kiểu bài thì ít hơn. Chính vì vậy, hiện nay, HS
có điều kiện để làm quen và thực hành nhiều hơn.
Rèn luyện kỹ năng sản sinh văn bản là nội dung chủ yếu của các tiết học văn
miêu tả (có các loại kỹ năng: kỹ năng tìm ý, lập dàn ý, lựa chọn từ ngữ, kỹ năng
dựng đoạn và bài, kỹ năng đánh giá và chữa văn bản.)
Chương trình SGK Tập làm văn 4, 5 đã tạo ra cơ chế và phương pháp dạy
học văn miêu tả, chống lối dạy “sáo”, coi việc rèn luyện bộ óc, phương pháp suy
nghĩ, phương pháp tìm tòi, vận dụng kiến thức cho HS là điều cơ bản nhất. Với cơ
chế này, nội dung dạy học văn miêu tả đã đề cao tính chân thực khi miêu tả cũng
như diễn tả tình cảm, cảm xúc… Về phương pháp làm bài thì không có tiết dạy lí
thuyết kiểu bài riêng, các kiến thức về lí thuyết được rút ra qua các tiết thực hành

và là nội dung phải ghi nhớ ở cuối mỗi bài học. Mỗi tiết học trong chương trình đều
có nhiệm vụ và nội dung xác định, dạy mỗi loại tiết phải đảm bảo thực hiện đầy đủ
các nội dung và hoàn thành tốt các nhiệm vụ đó.

13
1.2.2. Thực trạng về việc làm văn miêu tả của giáo viên, học sinh ở một số
trường Tiểu học.
- Thực trạng về việc nắm vững các yêu cầu giảng dạy Tập làm văn miêu tả.
Rèn kĩ năng viết văn miêu tả là một trong những vấn đề trọng tâm và cần thiết
trong việc dạy phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4, 5.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự phát triển tư duy, tình cảm, ngôn ngữ
của văn miêu tả với HS ; tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả,
nhiều năm qua Bộ Giáo Dục và Đào tạo đã có nhiều biện pháp giúp nâng cao hiệu
quả của việc dạy văn miêu tả trong trường Tiểu học. Thông qua các chu kì bồi
dưỡng thường xuyên, các buổi tập huấn về chương trình SGK năm 2000, GV được
bồi dưỡng về mặt kiến thức lẫn phương pháp cần thiết cho việc giảng dạy các tiết
học về văn miêu tả. Tuy nhiên trong thực tế dạy học văn miêu tả, hoạt động dạy và
học còn diễn ra khá sơ sài, qua loa. Tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng về
việc nắm vững các yêu cầu về giảng dạy các tiết Tập làm văn miêu tả của 34 giáo
viên thuộc địa bàn Phường Hải Thành, Bắc Lý, Đồng Phú Thành phố Đồng Hới và
kết quả điều tra thu được kết quả như sau:
Bảng: Thực trạng về việc nắm được các yêu cầu giảng dạy TLV miêu tả
STT NỘI DUNG
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
SỐ LƯỢNG TỈ LỆ%
1 Hiểu khái niệm về văn miêu tả 15 44,12
2 Nắm được đặc điểm văn miêu tả 8 23,58
3
Nắm được nội dung, yêu cầu, đặc điểm của
các dạng bài miêu tả

17 50
4
Nắm được đặc điểm tâm lí HS cần cho văn
miêu tả
6 17,65
5 Nắm được trình tự quan sát 16 47,06
6 Nắm được cách lập dàn bài cho bài văn 19 55,88
7 Nhận biết được các loại đoạn văn 3 8,82
8 Nắm được các phép liên kết câu 14 41,18
9
Nắm được các biện pháp tu từ sử dụng trong
văn miêu tả
9 26,47
10 Nắm được kĩ năng sửa lỗi cho học sinh 12 33,33

14
Qua bảng kết quả điều tra chúng tôi thấy:
- Số GV nắm được đầy đủ khái niệm và đặc điểm của văn miêu tả rất ít ( chỉ
có 44,12% GV nắm được tốt khái niệm và 22,53% GV nắm được toàn bộ đặc điểm
của văn miêu tả). Số GV còn lại nắm khái niệm và đặc điểm văn miêu tả dưới mức
độ chưa sâu, chưa hiểu hết bản chất của các khái niệm và các đặc điểm. Điều này
khiến cho việc đánh giá một bài văn miêu tả của học sinh không chính xác. Thường
khi chấm một bài văn miêu tả, các giáo viên chỉ chú trọng đến ý, độ dài của bài
văn, tình cảm của HS thể hiện trong bài. Có nhiều đoạn văn miêu tả được viết thiên
về kể chuyện, câu đoạn rời rạc, chứa đựng những câu sáo rỗng, tình cảm giả tạo
vẫn được thầy cô cho điểm cao.
- Số GV nắm được nội dung, yêu cầu, đặc điểm của các kiểu bài miêu tả trong
chương trình là 50%. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt đồng bộ,
mất đi tính kế thừa trong việc giảng dạy văn miêu tả ở hai khối lớp.
- Việc nắm trình tự quan sát chiếm 47,06% và lập dàn ý cho bài văn là 55,88%

thì việc hướng dẫn học sinh làm được một bài văn tốt còn rất sơ sài.
- Trong quá trình điều tra, chúng tôi còn phát hiện ra một vấn đề mà hầu như
tất cả giáo viên chưa thực sự quan tâm đến. Đó là việc chú ý đến những đặc điểm
tâm lí của các em HS lớp 4-5 với việc dạy văn miêu tả. Số GV nắm được đặc điểm
tâm lí HS rất ít, chỉ khoảng 17,65% GV. Do không chú ý đến đặc điểm tâm lí HS
với việc dạy và học văn miêu tả, giáo viên thường gặp nhiều khó khăn khi giúp đỡ
học sinh tìm ý, gợi cho học sinh trí tưởng tượng về sự vật cũng như tạo được sự
hứng thú cho HS trong các tiết dạy và học văn miêu tả.
- Số GV nắm dược các biện pháp tu từ là rất ít, chỉ có 26,47% GV. Vì vậy
việc hướng dẫn HS viết các câu văn sinh động, có hình ảnh, gợi cảm là rất khó
khăn. Vì thế bài làm của HS thường khô khan, không thu hút người đọc.
Qua điều tra chúng tôi cũng thấy được rằng, chỉ có một con đường duy nhất
hình thành các hiểu biết về lý thuyết thể văn, các kĩ năng làm bài…là qua phân tích
bài văn mẫu.
- Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để bảo đảm “chất lượng” khi
kiểm tra, thi cử…nhiều cô giáo, thầy giáo cho học sinh học thuộc bài văn mẫu. Vì

15
vậy dẫn tới trình trạng thầy, trò nhiều khi bị lệ thuộc vào văn mẫu, không thoát ra
được mẫu.
- Ra đề văn miêu tả không cần biết đề đó có thích hợp với học sinh không. Ví
dụ ở thành phố lại cho miêu tả con lợn, con trâu. Còn ở nông thôn lại cho tả cảnh
công viên. Nguyên nhân tình trạng này là do giáo viên lệ thuộc quá nhiều vào sách.
Ngoài ra, việc GV chưa thực sự quan tâm đến mục đích, tác dụng của từng
loại bài tập trong việc rèn kĩ năng viết văn cho HS cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
kết quả giảng dạy TLV của từng GV. Trong quá trình điều tra, chúng tôi còn phát
hiện ra một vấn đề mà hầu như tất cả giáo viên chưa thực sự quan tâm đến. Đó là
việc chú ý đến những đặc điểm tâm lí của các em HS lớp 4, 5 với việc dạy văn
miêu tả. Số GV nắm được đặc điểm tâm lí HS rất ít. Do không chú ý đến đặc điểm
tâm lí HS với việc dạy và học văn miêu tả, giáo viên thường gặp nhiều khó khăn

khi giúp đỡ học sinh tìm ý, gợi cho học sinh trí tưởng tượng về sự vật cũng như tạo
được sự hứng thú cho HS trong các tiết dạy và học văn miêu tả.
Nhìn chung, GV chưa nắm kĩ các kiến thức, yêu cầu giảng dạy TLV miêu tả
cũng như yêu cầu giảng dạy các tiết rèn kĩ năng viết văn miêu tả. Tình trạng trên là
do các nguyên nhân sau: trình độ giáo viên không đồng đều (12+2, cao đẳng đại
học), đào tạo dưới nhiều hình thức khác nhau (chính quy, tại chức,…), thiếu tài liệu
tham khảo, ít có thời gian cho việc bổ sung kiến thức hoặc chưa thường xuyên tự
trau dồi kiến thức phục vụ cho việc giảng dạy văn miêu tả, không đam mê nghề dạy
học. Vậy nên các kiến thức GV vận dụng vào những tiết dạy văn miêu tả thường sơ
sài, qua loa. Ngoài ra, việc giáo viên chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của
việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả, đặc điểm tâm lí của HS cũng khiến cho giờ dạy
và học TLV miêu tả trở nên nhàm chán, ít gây được hứng thú cho HS.
- Thực trạng về việc rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho HS lớp 4, 5
Việc dạy học văn miêu tả ở trường Tiểu học, bên cạnh có nhiều điểm tốt,
mang lại một số hiệu quả nhất định, còn khá nhiều nhược điểm. Khuyết điểm lớn
nhất, dễ thấy nhất là bệnh công thức, khuôn sáo, máy móc thiếu tính chân thực
trong cả cách dạy và học văn miêu tả. Đây là căn bệnh, ngay từ năm 1973, Chủ tịch
Phạm Văn Đồng đã nghiêm khắc chỉ ra: “Tôi nghĩ rằng hiện nay trong nhà trường
phổ thông chúng ta có hiện tượng dạy văn theo điệu “sáo”. Đó là cách giảng dạy

16
theo kiểu rất xưa, không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước khác, nghĩa là cho học
sinh học nhiều, yêu cầu học sinh nhớ nhiều để bắt chước, rồi “làm văn”
Mỗi bài văn miêu tả là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, là sản phẩm của
sự tiếp thu và vận dụng những kiến thức đã học. Đọc xong một bài văn của học
sinh, chúng ta có thể thấy ngay kết quả dạy học của giáo viên. Thực tế cho thấy
giáo viên lớp 4, 5 rất sợ dạy văn miêu tả, học sinh cũng rất sợ học văn miêu tả. Tại
sao lại như vậy? Bên cạnh nguyên nhân GV nắm kiến thức chưa sâu, chưa chắc
chắn còn có những nguyên nhân về việc tổ chức thực hiện các kĩ năng viết văn
miêu tả.

Do quan sát, tìm ý là một hoạt động không thể thiếu trong việc dạy và học văn
miêu tả nên chương trình dành hẳn một tiết quan sát, tìm ý ở mỗi kiểu bài văn miêu
tả. Tuy nhiên các tiết quan sát, tìm ý thường diễn ra khá sơ sài, chưa đúng với trình
tự của một tiết dạy quan sát, tìm ý. Vì vậy, kiến thức, kỹ năng mà GV cung cấp
trong các tiết dạy quan sát, tìm ý chưa giúp HS phản ánh được đầy đủ và chính xác
đối tượng miêu tả. Cạnh đó, GV chưa hướng dẫn được HS cách thức quan sát và
tìm ý như thế nào cho tốt cũng như chưa chọn được trình tự quan sát, chi tiết nổi
bật khi miêu tả, cách thu nhận đặc điểm đối tượng, cách ghi ý, Thông thường,
hoạt động quan sát, tìm ý luôn được tổ chức trên lớp học. HS chỉ được quan sát đối
tượng trên tranh ảnh tĩnh với một giác quan duy nhất là thị giác. Do đó các em
thường không phản ánh đầy đủ đặc điểm của các đối tượng được quan sát. Giáo
viên thường tỏ ra lúng túng khi dạy những tiết quan sát, những dạng bài cùng một
loại sự vật có nhiều hình dạng khác nhau. Để dễ dạy, giáo viên thường ép HS lựa
chọn đối tượng miêu tả theo ý mình hoặc theo các tư liệu sẵn có trong bộ đồ dùng
dạy học. Có khi GV bỏ luôn tiết quan sát tìm ý thay bằng tiết viết bài văn, đọc bài
văn mẫu. Do vậy giờ học Tập làm văn luôn khô khan, thiếu cảm xúc, làm mất đi
hứng thú học tập, sự sáng tạo và trí tưởng tượng phong phú của các em.
Việc giúp các em có được vốn từ để miêu tả cũng rất thấp. Việc cung cấp, mở
rộng vốn từ đã được thực hiện ở các tiết LT&C. Chương trình SGK tuy có sự liên
kết giữa các phân môn với nhau nhưng các ngữ liệu của các phân môn như Tập
đọc, LT&C, Chính tả chưa đồng bộ trong việc cung cấp các vốn từ phục vụ cho
việc miêu tả ở HS. Các vốn từ cung cấp trong các ngữ liệu cũng không thật sự gần
gũi với học sinh từng vùng, miền. Giáo viên cảm thấy khó khăn khi cùng một lúc
vừa cung cấp kiến thức lại vừa cung cấp cho học sinh thêm các vốn từ miêu tả

17
trong khi thời gian một tiết học lại có giới hạn. Vì vậy tình trạng học sinh nghèo
vốn từ, không có ý để miêu tả là phổ biến.
GV không quan tâm đến việc hướng dẫn HS sử dụng các phép liên kết trong
câu. Nhiều đoạn văn HS viết ra thường không chặt chẽ về ý, các câu rời rạc, lộn

xộn có khi mâu thuẫn nhau.
GV thường xuyên đọc văn mẫu cho HS chép. Văn mẫu ở đây thường là những
bài văn do thầy cô tự sáng tác hay từ trong những cuốn sách bài tập tham khảo.
Hình thức ở đây là đọc- chép. Chứ không phải là hướng dẫn học sinh biết trộm
những lời lẽ câu văn hay để ghi vào cuốn sổ tay. Việc làm này ít tốn thời gian, ít
tốn sức, dễ đạt được thành tích cao trong giảng dạy, nhưng đem lại những hệ quả
không lường. Nó sẽ làm cụt ý tưởng, bào mòn sự sáng tạo và hình thành thói quen
ỷ lại ở HS.
Như vậy, thực trạng về rèn kĩ năng viết văn miêu tả của GV còn khá nhiều tồn
tại, khó khăn. GV chưa phát huy được chất lượng và hiệu quả của việc dạy học
TLV viết văn miêu tả.
- Thực trạng về viết văn miêu tả của học sinh
Chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực trạng về viết văn miêu tả của 54
HS và thu được kết quả dưới bảng sau:
Bảng: Thực trạng về viết văn miêu tả của học sinh

STT

NỘI DUNG
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
SỐ LƯỢNG TỈ LỆ %
1 Sự thích thú môn học làm văn 18 33,33
2 Hiểu khái niệm về văn miêu tả 20 37,04
3 Nắm được đặc điểm văn miêu tả 17 31,48
4
Nắm được nội dung, yêu cầu, đặc điểm của
các dạng bài miêu tả
22 40,74
4 Nắm được nguyên tắc, phương pháp quan sát 16 29,63
6 Nắm được cách tìm ý,lập dàn bài cho bài văn 15 27,78

7 Nhận biết được các loại đoạn văn 18 33,33
8 Nắm được các phép liên kết câu 21 38,89
9
Nắm được các biện pháp tu từ sử dụng trong
văn miêu tả
25 46,30



18
Qua điều tra chúng ta thấy:
- Số HS thích thú với việc làm văn là rất thấp chỉ chiếm 33,33%
- Hiểu khái niệm về văn Miêu tả: chiếm tỉ lệ 37,04%
- Nắm được đặc điểm văn miêu tả: : chiếm tỉ lệ 31,48%
- Nắm được nguyên tắc, phương pháp quan sát: chiếm tỉ lệ 40,74%
- Nắm được nội dung, yêu cầu, đặc điểm của các dạng bài miêu tả: chiếm tỉ lệ
29,63%
- Nắm được cách tìm ý,lập dàn bài cho bài văn: chiếm tỉ lệ 27,78%
- Nhận biết được các loại đoạn văn: chiếm tỉ lệ 33,33%
- Nắm được các phép liên kết câu: chiếm tỉ lệ 38,89%
- Nắm được các biện pháp tu từ sử dụng trong văn miêu tả: chiếm tỉ lệ 46,30%
Qua xem bài làm của học sinh và khảo sát tình hình học tập của các em học
sinh lớp 4, 5 tôi thấy hầu hết các em nắm được kiến thức cơ bản của các phân môn
Luyện từ và câu, Chính tả nhưng các em chưa biết vận dụng kiến thức của các phân
môn này để làm bài tập làm văn. Chương trình phân môn tập làm văn lớp 4, 5 hiện
đang học thể loại bài miêu tả, nhìn chung các em đã nắm được cấu trúc một bài văn
miêu tả nhưng bài làm của các em còn viết theo một lối mòn khuôn sáo, kém hấp
dẫn, ít cảm xúc và nghèo hình ảnh, đặc biệt là các em chưa biết sử dụng các biện
pháp tu từ, các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hoá, các ý sắp xếp còn lộn
xộn, chưa theo một trình tự,…Về mặt cấu tạo câu các em cũng còn mắc rất nhiều

lỗi về thành phần câu, về nghĩa của câu,…được thống kê như sau:
Lỗi về nghĩa:
- Câu sai nghĩa:
+ Con trâu giúp nhà em gặt lúa.
+ Chiếc cặp là phương tiện giúp em tới trường.
- Câu không rõ nghĩa:
+ Sáng nay tôi dậy muộn, tôi thấy cánh cửa hé mở, tôi không hiểu có chuyện
gì, tôi đi gọi cún con.
- Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu:
+ Quyển sách em tặng Nam đã lâu lắm rồi em chưa về thăm nó.
+ Bỗng con chim cất cánh bay lên nghe một tiếng “vèo”.
+ Sàn nhà sạch trắng trẻo.
+ Món quà nhỏ nhen nhưng em rất quý.
+ Nếu mưa to thì em học bài tốt.

19
Lỗi về cấu tạo ngữ pháp:
- Câu không đủ thành phần:
+ Những cô bé ngày nào nay đã trở thành.
+ Trên lũy tre xanh đầu làng.
- Câu thừa thành phần : Lặp lại thành phần một cách không cần thiết.
+ Cây bông hoa cúc, nó đã nhiều lần nở hoa cúc.
+ Mây trắng đang đùa giỡn nhau trên tầng mây.
- Câu không phân định được thành phần:
+ Em phải giữ gìn chiếc bút chì đặt vào trong hộp.
+ Em thấy rất có ích đọc câu chuyện này em đã đọc.
Lỗi dấu câu:
- Lỗi không dùng dấu câu trong từng câu hoặc trong cả bài không có dấu
chấm, dấu phẩy:
+ Em rất yêu quý cây cam nó cho quả để ăn.

+ Nắng đã lên mẹ em ra đồng
- Lỗi sử dụng dấu câu sai:
Cây phượng vĩ. Rợp bóng cho sân trường của em.
Nếu hôm nay. Trời mưa em sẽ ở nhà học bài.
Lỗi ngoài câu:
- Lỗi câu lạc chủ đề: Con sông nằm uốn mình dưới bờ tre xanh rì rào. Cây tre
nhiều đốt màu xanh.
- Lỗi do các câu trong văn bản mâu thuẫn nhau về nghĩa:
Con diều bay không cao lắm. Nhưng nó bay cao vút trên tầng không kia.
- Bạn Nam chăm chỉ học bài, cuối năm bạn không được khen thưởng.
- Các loại lỗi câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong văn bản:
+ Giặc minh xâm chiếm nước ta. Chúng làm nhiều điều bạo ngược khiến dân
ta vô cùng căm hận. Chúng hòng cướp nước ta.
Học sinh nắm được kiến thức cơ bản của phân môn Luyện từ và câu nhưng
khi áp dụng vào viết văn thì các em thường không chú ý diễn đạt nên đã mắc phải
một số lỗi như đã liệt kê ở trên. Từ chỗ mắc lỗi về câu cộng với việc chưa biết cách
sử dụng các biện pháp nghệ thuật, vốn từ lại nghèo nàn nên bài văn miêu tả của các
em thường khô khan, lủng củng nghèo cảm xúc, bài văn trở thành một bảng liệt kê
các chi tiết của đối tượng miêu tả.

20
Trước thực tế đó, bản thân tôi đã điều tra phân loại, nắm chắc từng đối tượng
học sinh: năng khiếu, trung bình, yếu. Nắm chắc đối tượng học sinh, giáo viên sẽ
đề ra được kế hoạch, biện pháp dạy học phù hợp giúp học sinh phát triển năng lực
học văn, giúp học sinh yếu biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài
văn hoàn chỉnh.
Học sinh chưa nắm được các bước quan sát, tìm ý, cũng như cách ghi ý trong
quá trình quan sát. Các em quan sát còn lộn xộn, không đi theo một trình tự nhất
định. Cách ghi chép các ý quan sát cũng chưa có logic và hệ thống, cộng với vốn từ
quá ít ỏi đã gây không ít khó khăn cho việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả.

Trong quá trình sản sinh đoạn văn, việc phát triển các ý thành câu và liên kết
các câu trong đoạn văn chiếm tỉ lệ thấp.
Bên cạnh đó khi viết văn, các em chưa biết lồng cảm xúc vào trong bài viết
của mình. Phần lớn bài văn miêu tả của học sinh rất khô khan, thiếu sự gợi cảm cần
có của văn miêu tả.
Kiến thức sách vở cũng như kiến thức thực tế còn rất nhiều lỗ hổng. Nhiều HS
ở nông thôn chưa hề được ra thành phố, có em chưa từng được đến công viên, vườn
bách thú hay những danh lam thắng cảnh khác… Nhiều HS ở thành phố chưa hề
được nhìn thấy con gà đang gáy, con trâu đang cày ruộng, hoặc được ngắm nhìn
những đêm trăng sáng, hoặc quan sát cánh đồng lúa khi thì xanh mướt, lúc thì vàng
óng, trĩu bông… Một HS lớp 4 đã tả chú gà trống như sau: “Chú gà nhà bà em
nặng tới 6 kg. Sáng sớm chú nhảy tót lên đống rơm nhà bà gáy một hồi
dài kéc…ke….ke….” . Rõ ràng, đây là tiếng gáy của một chú trống choai chứ không
phải tiếng gáy của một chú gà trống nặng hơn 3 ki-lô-gam và trong thực tế, không
có một chú gà nào nặng tới 6 ki-lô-gam. Hay khi tả về con sông Hồng, một học
sinh lớp 5 đã viết: “Mùa hè, chúng em thường ra sông Hồng tắm mát. Nước sông
trong vắt, mát rượi như đang ôm ấp em vào lòng”. Sông Hồng là một con sông chở
nặng phù sa, đỏ chói như son khi về mùa lũ, mùa xuân mang màu hồng nhạt. Đúng
như tên gọi của nó. Vì vậy, không thể gọi là “trong vắt” được. Qua đó có thể thấy,
khi làm bài, nhiều HS không hề nắm được đặc điểm đối tượng mình đang tả và đã
viết không chân thực. Do vậy bài văn khó có thể truyền cảm cho người đọc. Việc
học tập trên lớp, vì thiếu tập trung và chưa có phương pháp học nên cũng có những
hạn chế nhất định. Có HS khi đọc đề bài lên, không biết mình cần viết những gì và
viết như thế nào, viết cái gì trước, cái gì sau, Hơn nữa, hiện nay, trên các cửa

×