Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.34 KB, 13 trang )

PHÂN TÍCH BÀI THƠ TÂY TIẾN CỦA QUANG DŨNG
Tây Tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của Quang Dũng, xuất hiện ngay trong thời gian đầu của cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp. Nhà thơ Trần Lê Văn, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời Quang Dũng
viết về hoàn cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Ti ến như sau:
Đoàn quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đồn 52. Đại đội trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối
năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở Phù Lưu Chanh (Hà đông) anh viết bài
thơ Tây Tiến.
Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào, đánh tiêu hao quân đội Pháp ớ Thượng Lào cũng như miền tây Bắc
Bộ Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ Sơn La, Lai Châu, Hồ Bình, miền tây
Thành Hố sang tận Sầm Nưa (Lào) rồi vòng về qua miền tây Thành Hồ. Những nơi này, lúc đó, cịn rất hoang vu và hiểm trở, núi
cao, sông sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
Những người lính Tây Tiến phần đơng là thành niên Hà Nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh
viên (Quang Dũng thuộc vào số này). Sinh hoạt của những người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau khơng có thuốc men, tử
vong vì sốt rét nhiều hơn là vì đánh trận. Tuy vậy, họ dẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Vượt lên trên mọi thử thách
khắc nghiệt của chiến tr anh và hoàn cảnh sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất yêu đời và
cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng
rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp đối lậ p để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái
hùng vĩ và tuyệt mĩ.
Thiên nhiên miền Tây, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ
vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh những cơ g ái, những con người miền Tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ
mộng của núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí
tưởng chung của cộng đồng, của tồn dân tộc.
Tây Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi Lụy. Cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng
lệ, hào hùng.
Chất lãng mạn hoà hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ.
Ngay từ khi ra đời, Tây Tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những n gười yêu thơ. Nhưng sau đó, do quan niệm có
phần đơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng lãng mạn ành hùng kiểu cũ. Vì vậy, trong
một thời gian khá dài, Tây Tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì Đổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài


thơ Tây Tiến mới được khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử văn học.
Bài thơ gồm bốn đoạn thơ :
Đoạn l: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.
Đoạn: Chân dung của người lính Tây Tiến.
Đoạn 4: Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.
Mạch liên kết giữa các đ oạn của bài thơ là mạch cảm xúc, tâm trạng của nhà thơ. Bài thơ được viế t trong một nỗi nhớ da diết của
Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang
sơ, đầy thơ mộng. Bài thơ là những kí ức của Quang Dũng về Tây Tiến ; những kí ức, những kí niệm được tái hiện lại một cách tự
nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉ niệm này khơi dậy kỉ niệm khác như những đợt sóng nối tiếp nhau. Ngịi bút tinh tế và tài hoa của
Quang Dũng đã làm cho những kí ức ấy trở nên sổng động và người đọc có cảm tưởng đang sống cùng với nhà thơ trong những
hồi tưởng ấy.
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thới gian:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, khơng kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể
của nỗi nhớ, hình tượng hố nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,... liên tiếp xuất hiện những câu
thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm .
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khổ th ơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ)(3) . Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh
hoành tráng diễn tả rất đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây - địa bàn hoạt động của đoàn quân

Tây Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã điền tả thật đắc địa sự
hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đèo miền Tây. Hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạ o, vừa
ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. Người lính trè o
lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lê n,
đổ xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Đọc câu thứ tư, có thể hình dung cảnh những
người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một khơng gian mịt mùng sương rừng, mưa núi, thấy
thấp thoáng n hững ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ
tư được vẽ bằng một nét rất mềm mại (câu thứ tư toàn thành bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu
trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gang màu lạnh làm dịu lại như xoa mát cả khổ thơ.
Sự trùng điệp của núi đèo miền Tây trong bài thơ Tây Tiến làm gợi nhớ đến mấy câu thơ trong Chinh phụ ngâm: “Hình khe thế núi
gần xa, - Đứt thơi lại nối, thấp đà lại cao”. Còn sự hoang vu và hiểm trở của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài Th ục đạo nan câu
Lí Bạch: “Đường xứ Thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (Thục đạo chi nan, nan ư thướng thành thiên!).
Cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền Tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. Nó khơng chỉ được mở
ra theo chiều khơng gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người ”
Cảnh núi rừng miền Tây hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa
rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,... Những tên đất lạ (Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch), những hình ảnh giàu giá
trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần bằng ớ cuối
mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm hiện hình nên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng miễ n
tây tổ quốc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
“Nhớ ơi Tây Tiến thơ lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lí nh tạm đừng chân, được
nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên những nồi cơm đang bốc khói. Khói cịn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày
mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn lên. Hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm
dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền Tây. Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất n gờ

hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng của miền Tây. Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này được
thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ
này.
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn t rước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của con người và cảnh vật nơi xứ lạ,
phương xa. Cảnh ấy, người ấy được hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ lung linh, huyền ảo của nó: cảnh
một đêm liên hoan lửa đuốc bập bùng và cảnh một buổi chi ều sương phủ trên sông nước mênh mang.

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ của những người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui đượ c miêu tả bằng những
chi tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:
“Doành trại bừng lên hội đuốc hoa .
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ ”
Cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn ng hệ bắt đầu. Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm
thanh réo rắt của tiếng khèn, cả cảnh vật, cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ “kìa em ”
thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên,vừa mê say, vui sướng . Nhân vật trung tâm, linh hồn của đêm văn nghệ là những
cô gái nơi núi rừng miền Tây bất ngờ hiện ra t rong những bộ xiêm áo lộng lẫy “xiêm áo tự bao giờ”, vừa e thẹn, vừa tình tứ “nàng e
ấp” trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ “man điệu” đã thu hút cả hồn vía những chàng trai Tây Tiến .
Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến cho người đọc khơng khí mê say, ngây ngất, thì cảnh sơng nước miền Tây lại gợi lên được
cảm giác mênh mang, mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa ”
Khơng gian dịng sơng trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. Sông nước, b ến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử.
Trên dịng sơng đậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cơ gái Thái trên chiếc
thuyền độc mộc. Và như hoà hợp với con người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm d uyên trên dòng nước lũ.

Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngịi bút của ơng như có hồn p hảng phất
trong gió, trong cây “có thấy hồn lau nẻo bến bờ” . Ơng khơng chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà
còn gợi lên cái phần thiêng liêng của cảnh vật.
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiế ng
hát, như nhạc điệu cất lên tự tân hồn ngây ngất, say mê của những người lính Tây Tiến . Hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất
thơ và chất nhạc hồ quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. Với ý n ghĩa đó, Xuân Diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ Tây Tiến,
ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.

Trên cái nên hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền Tây (ở đoạn hai), đến
đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuất hiện vời một vẽ đẹp đầy chất bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xành màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm ”
Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể
khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hoà
quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bí tráng - thần thái chung của cả bức tượn g đài.
Thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài Đồng chí đã
trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,
Sốt run người vầng trán ướt mồ hơi”
Cịn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài Cá nước với những hình ảnh thật cụ thể: “Giọt giọt mồ hôi rơi, - Trên má
anh vàng nghệ” cũng không quên ảnh hưởng của thứ bệnh quái ác đó. Quang Dũng trong Tây Tiến khơng hề che giấu những gian
khổ, khó khăn, những căn bệnh hiểm nghèo và sự hi sinh lớn lao cửa người lính. Chỉ có điều, tất cả những cái đó, qua ngịi bút của
ơng, khơng được miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Những cái đầu không mọc tóc của những
người lính Tây Tiến đâu phải là hình ảnh ly kì, giậ t gân, sản phẩm của trí tưởng tượng xa rời thực tế của nhà thơ mà chứa dựng
một sự thực nghiệt ngã. Những người lính Tây Tiến, người thì cạo trọc đầu để thuận tiện khi đánh nhau giáp lá cả với địch, người

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức



thì bị sốt rét đến rụng tóc, trọc đầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét của những người lính, qua cái nhìn của Quang D ũng vẫn
tốt lên về oai phong, dữ dằn của những cịn hổ nơi rừng thiê ng. Sự oai phong lẫn liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ
(mắt trừng gửi mộng) của họ. Những người lính Tây Tiến , qua ngịi bút của Quang Dũng, khơng phải là những người khổng lồ
khơng tim. Cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ơng nhìn thấy xun qua cái vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là
những tâm hồn, những trái ti m rạo rực, khát khao yêu đương “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơ m”. Như vậy, trong khổ thơ này,
Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến không chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên
ngồi mà cịn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
Ngòi bút của Quang Dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến khơng hề nhấn chìm người đọc vào cái bi
thương, bi lụ y. Cảm hứng của ông mỗi khi c hìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đơi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng
mạn. Chính vì vậy mà cái bi thương được gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới lạnh lẽo, xa
xôi, một mặt, đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính; trang trọng: “Rải rác bên cương mồ viễn xứ”; mặt khác,
chính cái bi thương ấy cũng lại bị mờ đi trước lí tưởng qn mình, xả thân vì Tổ quốc của những người lính Tây Tiến “Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ có vẻ tiều tụ y, tàn tạ trong hình hài nhưng lại chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng dấp của
những tráng sĩ thuở xưa, coi cái chết nhẹ như lông hồng. Sự t hật bi thảm: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường khơng có
đến cả manh chiếu để che thân, qua cái nhìn của Quang Dũng, lại được bọc tr ong những tấm áo bào sang trọng (5). Cái bi thương
ấy vợi đi nhờ cách nói giảm (anh về đất), và rồi bị át hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dịng sơng Mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc h ành”
Trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của người lính Tây Tiến khơng bi luỵ mà thấm
đẫm tinh thần bi tráng.
Giọng điệu chủ đạo của đoạn thơ thứ ba này trang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vơ hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà
thơ trước sự hi sinh của đồng đội.
Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời Tây Tiến , tinh thần chung của những
người línhTây Tiến . Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn tốt lên vẻ hào hùng:
“Tây Tiến người đi khơng hẹn ước
Đường lên thăm thắm một chia phôi .
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hồn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đồn qn Tây Tiến .

Tâm hồn, tình cảm của những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu thịt vời những ngày, những nơi mà Tây Tiến đã đi qua. “Tây
Tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
Lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cái thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hồn cảnh khó khăn,
gian khổ, khốc liệt đến như vậy.
( Sưu tầm )

TÂY TIẾN
Quang Dũng
I . ĐẶT VẤN ĐỀ .
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu của hồn thơ Quang Dũng. Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp gian
khổ, Tây Tiến là một hồi tưởng rất đẹp, những kỉ niệm đầy sống động về người chiến sĩ trong đoàn quân Tây Tiến. Cho nên khác
với vẻ đẹp của các bài thơ cùng thời, vẻ đẹp của Tây Tiến là vẻ đẹp hà i hòa, hào hoa, bi tráng.
II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .
Bài thơ mở đầu bằng một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng bao trùm lên cả không gian và thời gian :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mương Lát hoa về trong đêm hơi ”
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, khơng kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thà nh tiếng gọi . Hai chữ chơi vơi như vẽ ra trạng thái cụ thể
của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày… liên tiế p xuất hiện ở những câu
thơ sau:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Khổ thơ là một bằng chứng “thi trung hữu họa” . Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành tráng diễn tả rất

đạt sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng Tây Bắc, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Nhữ ng từ ngữ
giàu giá trị tạo hình : Khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, trùng điệp và độ ca o ngút
ngàn của núi đèo Tây Bắc . Hai chữ ngửi trời được dùng rất hồn nhiên và c ũng rất táo bạo, có phần ngộ nghĩnh, tinh nghịch của
người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút . Người lính bước đi trên đỉnh núi như đang đi trên m ây,
mũi súng chạm tới đỉnh trời . Câu thơ thứ ba như bẻ đôi, diễn tả đốc núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng . Cái nhìn của Quang
Dũng đang hướng lên, nhìn xuống th eo chiều cao và sâu của dốc đèo , bất ngờ được phóng ngang xa qua một không gian mịt
mùng sương núi mưa rừng, thấy thấp thống những ngơi nhà như đang bồng bềnh trơi giữa biển khơi .
Cái vẻ hoang dại, dữ dội ẩn chứa nhiều bí ẩn ghê gớm của núi rừng tiếp tục được nhà thơ khai thác . Nó khơng chỉ được m ở ra
theo chiều khơng gian mà cịn được khám phá ở cái chiều thời gian , luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người :
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người ”
Vậy là cảnh núi rừng hiểm trở qua ngịi bút của Quang Dũng hiện lên có đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi,
thác gầm, cọp dữ …. Những địa danh xa lạ : Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giầu giá trị tạo hình
được hiện lên qua những câu thơ vần trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn, được xoa dịu bằng những câu thơ vần bằng ở cuối khổ thơ ,
làm hiện lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc .
Và đoạn đầu kết thúc bằng một hình ảnh đột ngột :
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Cảnh tượng thật đầm ấm . Sau bao chặng đường hành quân gian khổ, những người lính được nghỉ ngơi, được quây quần bên
những nồi cơm đang bốc khói. Nó xua tan đi những mệt mỏi trên gương mặt những ngư ời lính, khiến họ tươi tỉnh hẳn . Hai câu thơ
tạo cảm giác êm dịu, ấm áp , chuẩn bị t âm thế cho người đọc bước sang đoạn thơ thứ hai .
Đoạn thơ thứ hai mở r a một thế giới khác của Tây Bắc . Cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở dần xa khuất nhường chỗ ch o vẻ mĩ lệ,
thơ mộng duyên dáng . Những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn đầu được thay thế b ằng những đường nớt mềm mại, uyển
chuyển, tinh tế .
Hồn thơ lãng mạn của Quang Dũng bị hấp dẫn trước vẻ đẹp mang vẻ bí ẩn của con ngư ời và cảng vật nơi xứ lạ . Cảnh ấy, người
ấy hiện lên trong một thời gian làm nổi lên rõ nhấ t sự lung linh, huyền ảo của nó: cảnh một đêm liên hoan văn nghệ giữa lửa đuốc
bập bùng và cảnh một cuộc vượt thác .
Cảnh đêm liên hoan văn nghệ có sự góp mặt của những người dân địa phương được miêu tả bằng những c hi tiết vừa thực mà
cũng rất ảo:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ ”
Cả danh trại bừng sáng, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên kh i đem văn nghệ bắt đầu . Trong ánh sáng lung linh của lửa đuốc, trong âm
thanh réo rắt của tiếng khèn, tiếng sáo, tất cả như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây rạo rực . Nhân vật trung tâm của đêm hội
là những cơ gái địa phương vừa tình tứ, vừa e thẹn tro ng những bộ áo xiêm lộng lẫy đã hút cả hồn vía các chàng trai Tây Tiến.
Nếu cảnh đêm liên hoan đem đến cảm giác tươi vui thì cảnh vượt sơng lại gợi lên cảm giác mênh mông , mờ ảo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa ”
Khơng gian dịng sơng trong một buổi chiều bao phủ một màn sương huyền tho ại. Trên dịng sơng ấy nổi bật lên dáng hình mềm
mại, uyển chuyển của người con gái Thái trên chiếc thuyền độc mộc. Và như hịa hợp với con người , những bơng hoa rừng cũng
cố làm dun trên dịng nước lũ .

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội của núi rừng và duyên dáng, m ĩ lệ, thơ mộng đó của Tây Bắc, hình tượng người lính xuất
hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
“Tây Tiến đoàn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Quang Dũng đã chắt lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể . Cái bi và cái
hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chúng hòa quyện v ào nhau, thâm nhập vào nhau, nâng đỡ nhau tạo nên vẻ đẹp bi
tráng.
Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên với dáng vẻ xanh xao bề ngồi, với đầu khơng mọc tóc. Đây khơng phải là cách gây ấn
tượng bằng hình ảnh cho người đọc mà phản ánh một thực tế khi người lính đối diện với căn bệnh sốt rét hiểm nghèo Ta bắt gặp
trong thơ kháng chiến những hình ảnh quen thuộc đó : “Sốt run người vầng trán ướ t mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu hay cái

mầu da vàng nghệ trong Cá nước của Tố Hữu: “Giọt giọt mồ hôi rơi, Trên trán anh vàng nghệ” . Quang Dũng cũng từ sự thật đấy
nhưng nhà thơ đã nhìn bằng cảm hứng lãng mạn . Hay nói cách khác nhà thơ đã lãng mạn hố hiện thực. “Tây Tiến đồn binh
khơng mọc tóc”, câu thơ khơng gợi cảm giác bi luỵ mà hiện lên sau đó là vẻ đ ẹp dữ dội, lẫm liệt khác thường. Âm hưởng câu thơ
gợi lên hoành tráng từ những từ ngữ mang thanh trắc: Tây Tiến, khơng mọc tóc làm câu thơ như vút lên . Hai chữ “đoàn binh”, một
từ Hán Việt rất trang trọng đã góp phần tơ đậm cái hùng dũng của binh đồn Tây Tiến đang tiến về phía trước . Sự thật thiếu ăn và
bệnh sốt rét làm người lính xanh xao, nhưng với cái nhìn lãng mạn, màu xanh ấy lại được liên tưởng tớ i màu xanh của lá rừng đại
ngàn. Qn xanh vì đói khát, sốt rét nhưng vẫn toát lên cái oai phong dữ đằn c ủa những con hổ nơi rừng thiêng . Ba chữ “ dữ oai
hùm” không chỉ đơn thuần là một phép so sánh mà còn thể hiện sự tiếp thu truyền thống thẩm mĩ phương Đông của tác giả . Một
quan niệm về vẻ đẹp người anh hùng trên nền của s ức mạnh thiên nhiên, của hổ báo: “Râu hùm, hàm én, mày ngài” (Từ Hải –
Truyện Kiều) hay “ Sĩ tốt kén tay tì hổ, Bề tơi chọn kẻ vuốt nanh” để nói đến sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn trong Cáo bình
Ngơ của Nguyễn Trãi, hay trong Thuật hồi của Phạm Ngũ Lão : “Tam qn tì hổ khí thơn ngưu” . Cho nên ba chữ “ dữ oai hùm ” có
sự chất chứa hội tụ, kết tinh hào khí của người lính Tây Tiến . Cái vẻ oai phong đó cịn được thể hiện qua ánh “ mắt trừng gửi mộng
qua biên giới”. Mắt trừng gợi khát vọng chiến đấu đến lạnh lùng, người lính Tây Tiến mộng chiến đấu, mộng lập cơng, mộng truy
kích giặc qua biên giới Việt Lào . Đó cũng là cái mộng chung của người lín h một thời thanh gươm lưng ngựa .
Đọc những hình ảnh “ khơng mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “dữ oai hùm ” ta cứ ngỡ những ý chí căm hờn và khát vọng chiến đấu đã
tôi luyện trái tim thành sắt đá. Vậy mà đọt ngột hiện ra câu thơ: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” . Câu thơ miêu tả rất đúng, rất
chân thực đời sống của người lính Tây Tiến, vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên trí thức. Họ ra đi từ trường xưa phố cũ, nhiều
người xuất thân từ thủ đô Hà Nội , cho nên giữa cuộc sống kham khổ thiếu thốn, thậm chí đối diện với cái chết họ vẫn giữ được vẻ
hào hoa lãng mạn. Họ mơ về Hà Nội c ủa một thời cắp sách tới trường , mơ về một dáng yêu kiều thướt tha tà áo dài, đôi mắt biếc
... Nếu như chàng trai cày đi vào cuộc chiến đấu nhớ về làng quê yêu dấu, nhớ giến g nước, gốc đa, nhớ gian nhà khơng m ặc kệ
gió lung lay, hoặc nhớ về :
“Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ
Ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya”
(Nhớ – Hồng Ngun)
thì những người lính Tây Tiến lại thắp sáng tâm hồn mình bằng những giấc mơ, những giấc mơ như những hành trang không thể
nào thiếu được trong trái tim của họ, để h ọ có thể vượt qua mọi thử thách . Ở đây tình yêu l ứa đơi đã hồ quện cùng tình u q
hương đất nước .
Như vậy người lính trong cảm nhận của Quang Dũng khơng chỉ có những đường nét k hắc họa bên ngồi mà cịn có cả thế giới tâm

hồn bên trong đầy mộng mơ của họ .
Nếu như đôi cánh của lí tưởng được Quang Dũng sử dụng như những gam mầu cơ bản để dựng lên bức chân dung người
lính Tây Tiếnbi hùng, thì cũng chính cái nhìn lí tưởng đó kết hợp cùng đơi mắt lãng m ạn, tác giả khơng hề nhấn chìm người đọc vào
cái bi thương bi lụy của những mất mát hi sinh. Chính cảm hứng lãng mạn đã nâng cánh cho cho những sáng tạo khi ơng nhìn
nhận cái bi thương . Cùng với nghệ thuật nói giảm (Áo bào thay chiếu anh về đất), cách dùng từ Hán Việt cổ kính, trang trọng: biên
cương, mồ viễn xứ đã biến những nấm mồ của người lính nơi rừng hoang biên giới trở thành hồn nhiên vĩnh hằng , sống mãi cùng
thời gian. Đặc biệt cái bi thương vơi hẳn đi ở tư thế ra đi vì vì lí tưởng “ Chiến trườn g đi chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ chẳng tiếc đặt
ở giữa dịng thơ nói lên sự tự nguyện, thanh thản của những ngườ i cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh . Hai chữ đời xanh gợi tuổi trẻ
với bao ước mơ hi vọn g. Đẹp là thế, đáng yêu là thế nhưng họ vẫn tự nguyện hi ến dâng cho dáng hình xứ sở bởi có sự hi sinh nào
lớn lao và đẹp hơn . Quang Dũng đã lãng mạn hóa sự hi sinh, những người lính mang dá ng vẻ những tráng sĩ thuở xưa coi cái chết
nhẹ như lơng h ồng, sống chiến đấu vì lí tưởng . Trước cái chết của người lính Tây Tiến, khơng một tiếng khóc, khơng một vịng hoa,
dịng “Sơng Mã gầm lên khúc độc hành” như khúc nhạc bi tráng tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng , và như thể ru giấc
nhủ ngàn thu của họ .
Cái âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy , cái chết , sự hi sinh của người lính Tây Tiến khơng bi lụy mà thẫm
đẫm tinh thần bi tráng .

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ , như nói lên bức chân dung tinh thần của người lính Tây Tiến , đó là vẻ đẹp ra đi tìm lí tưởng
khơng hẹn ngày gặp lại (Tây Tiến người đi khơng hẹn ước) . Đó cũng là dáng dấp của người li khách tron g “Tống biệt hành” của
Thâm Tâm:
“Chí nhớn chưa về bàn tay khơng
Thì khơng bao giờ nói trở lại .”
Đó cũng chính là hìn h ảnh người ra đi trong Đất nước của Nguyễn Đình Thi :
“Người ra di đầu không ngoảnh lại.”
Tất cả như một lần nữa tơ đậm khơng khí thời Tây Tiến, khẳng định lí tưởng chiến đấu vì độc lập Tổ quốc ln bừng cháy trong tim
người lính.
III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ .
Tây Tiến là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ Quang Dũng, nó khơng chỉ thâu tóm được khơng khí náo nức ra trận của

một thời oanh liệt mà còn thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn của những người con ưu tú sẵn sàng xả thân vì lí tưởng . Đó là bức tranh
hồnh tráng khắc hoạ cái dữ dội , hào hùng nhưng sâu lắng, tang thương mà không hề bi lụy. Một thành công của văn chương
chống Pháp khi xây dựng hình tượng người lính .
Nguồn: Sưu tầm

.

ĐỀ: PHÂN TÍCH CẢ BÀI

Có một bài ca khơng bao giờ qn…”
Cũng có những năm tháng khơng bao giờ quên, không phai mờ trong ký ức của nhiều thế hệ đã qua, hôm nay và mai sau. Đó
chính là những ngày tháng kháng chiến chốngn Pháp, khi tồn dân tộc ta vừa qua nạn đói, vừa giành được độc lập thì thực dân
Pháp trở lại xâm lược. Dấu ấn của nạn đói năm 1945 vẫn cịn, rất đậm trong mỗi người dân Việt Nam. Tự do hay trở về với cuộc
đời cũ? Đấy là câu hỏi day dứt bao ngườ i. Theo tiếng gọi của tự do, những người nông dân, công dân, học sinh, những người mẹ,
người chị… tham gia kháng chiến, tạo nên hào khí dân tộc của một thời đại.
Trong những năm tháng đáng nhớ ấy, văn học dù chưa dám nói là đã ghi lại trọn vẹn bộ mặt đất nước, nhưng cũng đã ghi lại được
hào khí của một thời với hình ảnh bao người mà hình ảnh trung tâm là người chiến sĩ cụ Hồ. Bài thơ “ Tây Tiến” của Quang Dũng ra
đời trong hồn cảnh chung đó.
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang
Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong
lịng tác giả. Tồn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u ,
hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Ra đi kháng chiến khi còn là thanh niên, học sinh Hà Nội, Quang Dũng trở thành người lính. Kỷ niệm làm người lính Tây Tiến đã xa
mà lại rất gần, để ghi nhớ lại, tác giả phải bật lên:
"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!"
Câu thơ kết thúc bằng dấu chấm than cùng âm hưởng của vần ơi, tạo nên sức mạnh lớn. Hình ảnh đó là tiếng nói của Quang
Dũng vang vọng đến đồn qn Tây Tíên? Khơng ! Đó là tiếng lịng của tác giả “xa rồi Tây Tiến ơi!” nhưng tấm lịng thì vẫn tha thiết
lắm ! Âm hưởng câu thơ có sức vọng làm cho tiếng lịng của Quang Dũng như xốy vào tâm hồn người đọc rung theo những xúc
cảm do câu đầu mang lại để đến với nỗi nhớ Tây Tiến:
"Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi"

Nỗi nhớ mới lạ lùng làm sao? “Nhớ chơi vơi” ! Hình như trong ca dao ta cũng từng bắt gặp:

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


"Ra về nhớ bạn chơi vơi"
Nỗi nhớ “chơi vơi” là nỗi nhớ khơng định hình khó nắm bắt đã diễn tả bằng lời. Nỗi nhớ ấy vừa bao la, bát ngát lại vừa có chi ều
sâu. Nó muốn tràn ra khơng gian để xốy vào lịng người. Một người ngồi cuộc hẳn khơng thể có nỗi nhớ ấy. Chỉ có Quang
Dũng với nỗi lịng của mình mới có nỗi nhớ ấy mà thơi. Với tấm lịng tha thiết thì hẳn nổi “nhớ chơi vơi” là điều hồn tồn có lí.
Cùng vẫn sử dụng vần “ơi”, câu thơ có sức lan toả rộng. Vần “ơi” lan ra theo nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả.
Thông thường khi nhớ về một điều gì, người ta thường nhớ đến những kỉ niệm để lại dấu ấn không quê n. Quang Dũng nhớ đầu
tiên là nhớ về rừng núi
"Nhớ về rừng núi…"
Rừng núi là nơi xưa kia tác giả cùng đồng đội đã cùng sống, cùng ch iến đấu Rừng núi in đậm bao nỗi khổ, bao nhiềm vui nỗi buồn
của những người chiến sĩ. Hơn ai hết, tác giả là người trong cuộc, tác giả nhớ về rừng núi, những khó khăn gian khổ mà mình đ ã
từng nếm trải:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về tr ong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Mặc dù cuộc sống gian khổ không phải là điều nhà thơ chú trọng phác hoạ nhưng trước mắt ta vẫn hiện ra cái khắc nghiệt của
rừng núi. Nhà thơ Tố Hữu đã từng có những câu thơ:
"Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng, chí khơng mịn !"
Tố Hữu mơ tả thẳng cảnh sống người lính. Quang Dũng không làm thế, Quang Dũng chỉ mô tả cái hoang vu, hoang dã của một
vùng rừng núi nhưng qua cảnh đó ai cũng hiểu rằng đời lính là như thế đó. Họ sống giữa thiên nhiên như vậy đó. Với những địa
danh xa lạ “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, rừng núi như càng trở nên xa ngái, hoang vu hơn. Hơn thế, cần phải nhớ rằng

đoàn quân Tây Tiến hầu như toàn là những chàng trai trẻ Hà Nội theo tiếng gọi kháng chiến ra đi, nhiều người còn là học sinh nên
cảnh núi rừng càng xa lạ, đáng sợ hơn. Quang Dũng là người trong cuộc sống hiểu tâm lý ấy rất rõ.
Nỗi nhớ rừng núi bắt đầu bằng những cuộc hành quân.
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi."
Những cuộc hành quân đi qua và những cuộc hành quân mới lại tiếp nối trong cuộc đời người lính của Quang Dũng. Nhưng có lẽ
cái mỏi mệt của những cuộc hành quân lần đầu sẽ không bao giờ đi qua cùng năm tháng cũng như rừng sương “Sài Khao sương
lấp đoàn quân mỏi” sẽ in mãi dấu ấn, câu thơ chùng xuống, đều đều gợi lên sự mỏi mệt, bải hoải làm ta tưởng chừng như đoàn
quân Tây Tiến sắp ngã, sắp chìm đi trong sương. Nhưng không, âm điệu bài thơ lại vút lên bởi một câu vần bằng:
“Mường lát hoa về trong đêm hơi”
Câu thơ ấy đã xố đi cái mỏi mệt của đồn qn Tây Tiến, để đồn qn tiếp bước. Những khó khăn lại cứ rải trên đườn g người
lính đi qua:
"Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"
Hình ảnh “khúc khuỷu” làm nên cảm giác hình như con đường đi khó khăn quá ! “Dốc thăm thẳm” lại làm cho những khó khăn như
nhiều hơn, dài ra theo tính chất “thăm thẳm” của con dốc và trên những đường dốc ấy, “súng ngửi trời”. Chỉ riêng “heo hút cồn
mây” đã gợi một khơng khí vắng vẻ, hoang sơ của núi rừng, súng ngửi trời cộng vào cái vẻ đơn độc của những người lính khi đứn g
giữa đèo c ao.
Những khó khăn gian khổ nhiều là thế nhưng lại nhẹ đi bởi vần bằng tiếp sau:
"Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi."
Cứ như thế, với những câu vần bằng xen vào giữa những câu vần trắc, âm hưởng đoạn thơ trở nên trùng điệp hơn, âm điệu ấy cứ
theo suốt bài thơ, cùng với cách dùng từ cổ kính của Quang Dũng góp phần tạo nên nét lãng mạn mà hào hùng cho bài thơ.
Cả khổ thơ đầu là những khó khă n của vùng rừng núi thiên nhiên hoang sơ. Đứng trước bức tranh dữ dội ấy, ai cũng thầm nghĩ:
vậy người lính sống thế nào nhỉ?

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người. "
Quang Dũng tả rất thực những khó khăn của cuộc kháng chiến mà đồn qn Tây Tiến đã gặp nhưng không làm bài thơ trở nên bi
thảm, lòng người bi quan mà chỉ để ca ngợi người lính. Tác giả lại tiếp tục đưa ta đến với người lính cũng bằng ngịi bút rất thực
ấy. Trước gi an khổ, trên đường hành quân, nhiều người đã nằm lại mảnh đất xa lạ để không bao giờ tỉnh dậy:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa"
Nhưng anh hùng làm sao, những con người đã ngã xuống ấy! Người lính khơng chịu nỗi gian khổ đã hi sinh nhưng cũng tìm được
cho mình một tư thế chết của người chiến sĩ:
"Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
“Bỏ quên đời” chỉ là cách nói nhằm giảm nhẹ sự mất mát, tang thương khi người lính từ trần. Nhưng hình ảnh sử dụng, rất đắt l à
hình ảnh “gục lên súng mũ”. Ta chợt nhớ đến dáng đứng c ủa anh giải phóng quân về sau:
"Anh ngã xuống torng khi đang đứng bắn
Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng"
Dáng đứng của anh giải phóng qn đi mãi vào lịng những người dân trong kháng chiến chống Mĩ thì dáng ngã gục xuống của anh
lính cụ Hồ hẳn sẽ khơng phai mờ trong tâm hồn của Quang Dũng , của đoàn quân Tây Tiến và của những người tham gia kháng
chiến. “Gục lên súng mũ” cũng là cách n ói nhẹ và cũng là cách nói của những người thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Người lính ra
đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước.
Những khó khăn lại đến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người."
Hình như có ai đó đã nói về cá ch sử dụng từ “Mường Hịch” của Quang Dũng. Địa danh đọc lên có cảm giác như tiếng chân cọp đi
trong đêm. Rừng núi trở nên rờn rợn, ngu yên vẻ hoang sơ của nó. Ở nơi xa xơi con người lần đầu đặt chân, thiên nhiên là chủ thì
khó khăn như tăng thêm bội phần. Nhưng nét lạc quan, vui vẻ của người lính vẫn chẳng thể mất dọc cuộc hành trình.
“Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi."
Quang Dũng lại nhớ về những kỉ niệm của những đêm liên hoan. Nhịp điệu câu thơ hình như có cái gì nao nức, rộn rã:
"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Châu xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa."
Cái dữ dội, hoang dã của thiên nhiên trong hai khổ thơ đầu như biến mất đi sau những kỉ niệm vui của đoàn quân Tây Tiến. Nét
nghịch ngợm, vui tươi của những chàng thanh niên Hà Nội xúng xính trong xiêm áo giả làm con gái, cùng tiếng nhạc và vẻ e ấp g iả
vờ. Câu thơ với hai chữ “kìa em” vừa m ang vẻ ngạc nhiên vừa mang nụ cười thoải mái của người chiến sĩ. Những kỉ niệm vui đó
hẳn sẽ khơng qn trong lịng người cũng như vẫn còn nguyên vẹn trong lòng Quang Dũng vậy. Cùng với sự vui tươi, người
lính Tây Tiến cịn sống với bản lĩnh lãng mạn, với tâm hồn giàu ch ất thơ, giàu cảm xúc của mình. Một dáng người trên độc mộc vào
buổi chiều sương, một khóm hoa đong đưa trên dòng nước lũ… tất cả đi vào nhẹ nhàng cho cả đoạn thơ.
Quang Dũng xa Tây Tiến nhưng khoảng thời gian ấy chưa lâu nên kỉ niệm Tây Tiến vẫn như nguyên vẹn. Nỗi nhớ “chơi vơi” trải
khắp bài thơ nhưng cô đọng vẫn là ở nỗi nhớ về người lính Tây Tiến . Có lẽ người lính Tây Tiến, hình ảnh của họ đã ăn sâu tận
trong máu thịt tác giả:
“Tây Tiến đồn qn khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm”
Câu thơ đầu hoàn toàn tả thực về người lính kháng chiến, nổi tiếng bởi tên gọi “Vệ trọc”. Giữa rừng núi hoang sơ, nạn sốt rét là
nạn mà người lính thường mắc phải. Sốt rét đến nỗi trọc cả đầu chỉ cịn một vài sợi tóc lưa thưa đến nỗi da xanh xao “màu lá”.
Bệnh sốt rét ác nghiệt như Chính Hữu đã từng mơ tả:
"Sốt run người vầng trán ướt mồ hơi."

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


Sốt rét là bệnh tiêu biểu thường gặp ở người lính khi Quang Dũng nói về điề u này, tác giả cịn muốn cho ta biết, người lính Tây
Tiến sống như thế đấy! Họ s61ng đ46 chiến đấu với quân thù nhưng lại phải chiến đấ u với cả gian khổ, bệnh tật nữa. Giữa bao
nhiêu khó khăn người lính vẫn
"Quân xanh màu lá dữ oai hùm"
Nét dữ tợn của người chiến sĩ Tây Tiến ở đây không làm nhạt đi tí nào hình ảnh người lính Tây Tiến trong ta. Bệnh tật, yếu đau
tưởng chừng làm người chiến sĩ yếu đu ối nhưng ta bất ngờ vì dáng vẻ “dữ oai hùm” của anh lính. “Dữ oai hùm” làm mất đi sự yếu
đuối của “đồn qn khơng mọc tóc” và của “quân xanh màu lá”, câu thơ trên giúp cho câu thơ sau tiếp tục:

"Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Đây chính là hai câu thơ tập trung nhất vẽ nên bức tranh người lính Tây Tiến và cũng là hai câu thơ hay nhất trong cả bài thơ.
Người lính Tây Tiến sống với hình ảnh của quê hương Hà Nội, chiến đấu với tương lai trước mặt. Hai câu thơ vừa mang nét lãng
mạn của ngư ời chiến sĩ vừa có nét hào hùng. Mắt người lính “trừng” nhưng khơng hề mang nét dữ tợn, đấy chỉ là quyết tâm của
họ. Họ quyết tâm chiến đấu cho Tổ Quốc, đất nước, điều này là điều tâm niệm của mỗi người. Hai câu thơ trên đã có thời bị đưa ra
chỉ trích cùng với bài thơ là buồn rớt, là bi quan, là tiểu tư sản. Đành rằng buồn; nhưng cái buồn ở đây khơng làm mất đi quyết tâm
củangười lính Tây Tiến . Quyết tâm đánh giặc và lãng mãn phãi kết hợp hài hồ mới có thể taạ nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ
một cách sâu sắc. Đây là điểm mà đã có một thời vì hồn cảnh lịch sử, vì một lý do nào đó người ta đã qn đi hay cố tình q n đi.
Người lính Tây Tiếnchiến đấu cho ai? Mục đích của họ hướng tới là gì nếu khơng phải q hương mà cụ thể là Hà Nội. Người lính
mơ về Hà Nội, về người thiếu nữ Hà Nội thì chính những mộng mơ ấy đã tiếp sức mạnh cho người chiến sĩ sống và chiến đấu. Hai
câu thơ chính vì thế lãng mạn mà rất hào hùng !
Người lính Tây Tiến gặp bao nhiêu gian khổ. Dọc con đường hành quân bao người đã ngã xuống vì gian khổ, vì khắc nghiệt của
rừng núi, vì đau ốm bệnh tật và họ ngã xuống vì chiến đấu.
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ."
Câu thơ đọc lên nghe s ao mà bi thảm quá. Bao người nằm lại nơi xa lạ không người qua lại, chẳng bao giờ về. Từ “rải rác” làm ta
cảm giác người lính Tây Tiến ngã xuống, ngã xuống nhiều trong cuộc chiến đấu, làm ta cảm giác thấm thía cái lạnh khi những co n
người phải từ giã cuộc đời. Từ “viễn xứ” tạo nên sự xa xôi, lạnh lẽo của rừngnúi, gợi sự cô đơn của những người nằm lại. Câu thơ
trầm xuống xốy vào lịng ta nỗi buồn khơng thể thốt nên lời, ta tưởng chừng câu thơ sau sẽ khơng cất nổi mình, nhưng ngược lạ i:
"Chiến trường đi chẳn g tiếc đời xanh"
Câu thơ lại nhẹ nhàng như không hề mang chút bi thảm của những nấm mồ viễn xứ. Câu thơ trước tạo nên cái “bi”, câu thơ sau
tạo nên nét “tráng”. Cái khơng khí bi quan bíên mất, chỉ cịn lại nét ngang tàng, chút thanh thản của người lính Tây Tiến . Bảo
“chẳng tíêc đời xanh” là cách nói của người thanh niên tri thức Hà Nội nhưng cũng mang cả quan niệm về lí tưởng chiến đấu. Đâu
phải họ khơng tiếc cho tuổi trẻ. Khơng phải “tuổi trẻ là mùa xn” đó sao! Nhưng cao hơn cả tuổi trẻ họ cịn có tự do, quê hươ ng.
Còn người hậu phương gởi gấm cả nỗi lịng cho họ. Đó là lí do tại sao người lính Tây Tiến chẳng tiếc đời xanh. Họ nằm xuống nhẹ
nhàng:
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Cách dùng từ “áo bào” làm câu thơ trở nên cổ kính hơn. Anh r a đi mãi mãi nhưng anh ra đi là cho lẽ sống của mình sống mãi nên
cái chết của anh nhẹ nhàng như “về đất”. Hơn thế, có chăng Quang Dũng có lí khi dùng từ “về đất” ngồi ý giảm nhẹ sự đau

thương ? Quang Dũngkhơng muốn có bất cứ giọt nước mắt nào rơi trên thi hài người lính Tây Tiến. Người lính Tây Tiến sống lãng
mạn, hào hùng thì chết cũng phải như vậy. Đấy chính là lí do tác giả có ý sử dụng từ cổ k ính và nói theo lối nói của người lính Tây
Tiến. Quang Dũng muốn rằng người lính Tây Tiến chiến đấu là cho quê hương thì sữ ra đi của họ là nhẹ nhàng, thanh thản: họ về
với đất. Đất như người mẹ giang tay ơm đứa con u vào lịng và người chiến sĩ ngụ trong vòng tay mẹ. Như vậy anh hi sinh ở nơi
xa nhưng linh hồn anh vẫn về bên đất mẹ. Câu thơ vì thế mất đi nét bi thảm vốn có. Anh chiến sĩ chết đi, q hương ơm anh vào
lịng, sơng núi hát lên tiễn đưa anh:
"Sơng Mã gầm lên khúc độc hành”
Khơng hề có tiếng khóc giọt nước mắt tang thương. Chỉ có núi sơng, đất mẹ chứng kiến cái chết của anh. Bóng dáng của anh hồ
vào núi sơng, hồ vào đất mẹ.
Người lính Tây Tiến ra đi nhưng hình ảnh của anh khơng bao giờ mờ phai trong tâm trí congười. Hình ảnh người lính và những kỷ
niệm đậm mãi trong lịng Quang Dũng và mỗi chúng ta.
"Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về sầm nứa chẳng về xuôi."
Bài thơ khép lại nhưng âm điệu vẫn mãi vang vọng trong tâm hồn ta. Nhịp điệu trùng điệp, nét lãng mạn hào hùng của bài thơ để lại

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


dấu ấn trong ta. Có những tác phẩm đã gặp nhiều mà ta lại quên đi nhưng có những tác phẩm chỉ bắt gặp một lần lại sống mãi. Ấy
là Tây Tiến!
Hình ảnh người lính Tây Tiến lung lnh ngời sáng với cả hào khí dân tộc!

TÂY TIẾN – SỰ THĂNG HOA CỦA MỘT TÂM HỒN LÃNG MẠN

ĐINH MINH HẰNG
LỚP CLC – K54 – KHOA NGỮ VĂN - ĐHSP HÀ NỘI
Những thi phẩm viết về người lính trong kháng chiến thường ngân lên trong lịng người nhiều dung động. Khó có thể qun một
Lên Cấm Sơn của Thơi Hữu, b ức thi hoạ Đồng chí của Chính Hữu , hay chỉ là một hình ảnh thật cảm động: Q chân tìm hơi ấm

đêm mưa trong nhớ của Hồng Nguyên. Nh ưng thi phẩm mà bóng dáng của nó và về hơn năm mươi lăm năm, gần gũi và kiêu hùng
trong lòng độc giả phải là Tây Tiến. Nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài ngững cảm
quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn th i hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy của lạnh lùng và đa tình, hiện
thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến khơng chỉ níu kéo bước chân người lính trong niềm nhớ.
Người độc như lạc vào chốn Tây Bắc hiểm chở và hùng tráng được dàn trải trong không gian nhớ mênh mang. Không gian mà thi
nhân nhất định phải đặt trong xúc cảm tha thiết và cao vợi: “Tây Tiến ơi”, “nhớ chơi vơi”, “nhớ ôi”. Tiếng gọi và nỗi nhớ làm cho Tây
Tiến như một sinh thể, như có linh hồn. Trong sinh thể ấy, người ta thấy những địa danh mà ngay âm th anh cũng gợi đến vẻ đẹp
xa xôi của núi rừng, khiến con người thêm mộng mơ, khao khát kiếm tìm. Đó là cái mù mịt của một đêm sương Sài Khao, cái ẩn
hiện của hoa Mường Lát, mưa xa khơi ở Pha Luông. Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hố”, của những vẻ đẹp kỳ ảo khó gợi tên.
Những hình ảnh đẹp ngay từ cách đặt câu:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
Những câu thơ mà đọc lên nghe đã thấy sự gập ghềnh, hiểm trở. Dường như độ cao và chiều sâu cư nối tiếp nhau trên con đường
của người lính Tây Tiến. Nhưng khó khăn cũng khơng ngăn trở được con người đến với dỉnh cao: “súng ngửi trời”. Dường như câu
thơ đã được phủ lên màn sương lãng mạn của những vần thơ biên tái xưa, man mác một chút “thục đạo nam” xa xăm.
Nhưng Quang Dũng dường như còn muốn đẩy rộng hơn ranh giới của dữ dội và êm dịu, gồ gề và bằng phẳng, kéo dài khoảmg
không gian bằng những câu thơ thật đẹp và lạ :
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Lng mưa xa khơi”
Nét bút hào phóng vẽ bằng ngơn từ tao nên những ấn tượng đậm và sâu: nhà thơ đã đưa lên rất mạnh và hạ xuống đầy sức lực để
rồi sau đó, bất ngờ mở ra trước mắt người đọc một Pha Luông. Mộ t Pha Luông mênh mang của vùng cao nguyên xa mờ trong màn
mưa.
Nhưng Tây Bắc khơng chỉ có núi rừng, phong cảnh của một miền Tây xa xơi sẽ cịn in dấu rất lâu trong người đọc. Đó là “thác” v à
“thép” trong cách sắp xếp trái thanh làm nổi bật nhưũng ấn tượng về sự linh thiêng. Đó là “Mường Hịch” được đặt giữa câu gợi
bước chân của loài mãnh thú. Và nỗi nhớ bật lên như đã ngầm chảy suốt dọc những dịng thơ: “Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói” để
ngợi về môt Mai Châu trong một câu thơ không cần đến các trợ từ quan hệ. Mai Châu – mùa – em – thơm nếp sôi: tất cả như lẫn,
như hoà vào nhau, người con gái ở Mai Châu mang vẻ đẹp nồng nàn lẩ khuất trong hư ơng lúa nếp. Những vần thơ được viết nên
từ một tâm hồn còn vẹn nguyên sự trẻ trung và lãng mạn của một thanh niên vửa rời ghế nhà trườn, hứng thú được phiêu du trong
thế giới của riêng mình. Một thế giớ Tây Bắc bay bổng và kỳ diệu khiến người đọc lại bâng khuâng nhớ về một thi nhân từng được
coi là lãng mạn bậc nhất với những vần thơ tài hoa – Tản Đà:

“Tài cao phận thấp chí khí uất
Giang hồ mê chơi quên quê hương”
Nhưng Tây Tiến không chỉ đọng lại cùng cảm giác hoang sơ và đơn độc cái đơn độc đầy ngạo nghễ của con người. Nơi ấy, tình
người ln ấm áp và thân thiết. Buổi liên hoan thắm tình quân dân vào thơ dường như đã nhuốm nhiều lắm cảm giác lâng lâng
ngây ngất trong tâm hồn thi nhân. vì thế phải là chữ “bừng” và “đuốc” trong cảm giác về buổi liên hoan rộn rã, đầy ánh sáng. Nhưng

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


khi kết hợp “đuốc” với “hoa” thì lại mang tới cảm giác lãng mạn của một đêm hội hoa đăng xa xưa. Cảm giác mơ mộng đưa con
người vượt lên trên thực tại đơn thuần, ngỡ ngàng trước “em”. Người con gái của núi rừng với “xiêm áo” – gợi vẻ đẹp của thủơ xa
xưa, trong âm thanh của tiếng khèn và trong điệu nhạc được gọi là “man điệu” như một nàng tiên trong điệu múa ng hê thường, vừa
e lệ, vừa cuồng nhiệt. Trong xúc cảm đắm đuối ấy, tự bao giờ, “em” đã chuyển thành “nàng”. Không gian và thời gian cũng xa xô i
hơn, mơ hồ hơn tạo đà cho sóng nhạc cứ lan mãi, tận miền Viên Chăn để con người đầy mộng xây nên một nguồn thi hứn g tình tứ
và lãng mạn.
Và cao nguyên Mộc Châu dường như được tô điểm trong cảm hứng đầy chất thơ ấy. Mộc Châu khơng có được cái hùng vĩ của núi
non, càng khơng có cái đẹp rạng rỡ và cuồng nhiệt mà Quang Dũng từng đắm chìm trong những câu thơ trước. Những câu thơ về
Mộc Châu gieo vào lòng người ấn tượng của một vẻ đẹp man mác, lẩn khuất và xa xăm. Không phải ngẫu nhiên mà thi nhân nhớ
đến Mộc Châu trong hoài niệm về một chiều sương. Không gian mơ màng ấy len khắp câu thơ, phủ lên Mộc Châu sự tĩnh lặng và
khoác lên người đi vốn đã là một đại từ phiếm chỉ: cái mênh mang của sự vật. Một chữ “ấy” khiến người đọc hoài nghi. Phải chă ng
đã có một chiều sươmh trước đó? Trong thực hay trong mơ? Chỉ biết rằng: một người đi vô định, một chiều sương vơ hình đã
khiến khơng gian và thời gian cứ lặng lẽ trôi xa, nhường lại khung cảnh đẹp đến nao lịng:
“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc”
Hai câu thơ tựa hồ như câu hỏi, khe khẽ và bâng quơ. Âm điệu nhẹ nhàng như hơi thở, cố tìm kiếm trong ký ức để xuất hiện hai
lần “có thấy”, “có nhớ”. Khơng phải những bông lau, hoa lau, cách thể hiện tinh tế nhất đã tựa vào hai chữ “hồn lau”. Để lưu lại một
vẻ đẹp duyên dáng kỳ lạ của một loài cây nơi cao nguyên hoang dã, vương trên một “nẻo bến bờ” vừa xa xăm, vừa gần gụi, như
thực lại như mơ. Một hồn lau ngợi dáng lau nghiêng nghiêng tha thướt, một dáng người gợi vẻ đẹp cổ điển kì lạ. Những đường né t
chấm phá mảnh mai hội tụ những nét tinh tuý của Á Đông đủ để hồ nà khơng lẫn vào cái bâng khng của một vùng sơn thuỷ.
Nhưng khung cảnh khơng vì thế mà chở nên hiu hắt bởi sự xuất hiện sinh động của hình ảnh:

“Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa ”
Hoa và lũ, hai sự vật tưởng chừng trái ngược nhau mà nay lại năng đỡ nhau theo một dòng chung của thế giới, trong một chuyển
động đầy lãng mạn và tình tứ: “đong đưa”. Nhẹ nhàng kết thúc bằng ba thanh khơng, những câu thơ như cịn dìu dặt níu bước
chân thi sĩ về một Mộc Châu đẹp đến ngỡ ngàng, mộng mơ đến ngây ngất.
Nhưng hình ảnh là trung tâm, đem lại nét hùng tráng cho miền Tây xa xôi kia phải và chỉ có thể là đồn binh Tây Tiến . Những con
người khơng nề hà trước khó khăn và thử thách của cuộc chiến chinh ác liệt. Quang Dũng khơng né tránh căn bệnh sốt rét rừng.
Nhưng đồn binh Tây Tiến, hơn lúc nào hết hiện ra đầy ngạo nghễ, cái ngạo nghễ của những con người nhìn đời qua lăng kính
lãng mạn. Vì thế, phải là đồn binh chứ khơng phải đồn qn, khơng mọc tóc chứ nào phải tóc khơng mọc, đầy bất cần, hiên
ngang. Và màu da xanh kia hiến cho hình ảnh đồn qn như hoà vào lá rừng, đầy oai hùng, dữ dội: “dữ oai hùm”. Những câu thơ
sau đưa người đọc đến với thế giớ bên trong những người lính Tây Tiến, thế giới mà người đọc sẽ bắt gặp dày đặc mộng và mơ.
Chỉ có điều đó là hai thái cực, hai ước muốn bổ sung và bồi đắp nhau khiến tâm hồn con người thêm đẹp và phong phú:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà nội dáng kiều thơm ”
Ở câu thơ trên, đó là giấc mộng chiến chinh, thoả chí tang bồng của người làm trai: “Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng”. Và như
thế, nhất thiết phải được thể hiện qua đôi mắt trừng. Nhưng Quang Dũng còn muốn bay cao và xa hơn nữa khi muốn mang lí
tưởng anh hùng vượt qua biên giới, thể hiện một hoài bão tung hoành bốn phương . Câu thơ sau lại mang đến một mơ ước khác,
đẹp một vẻ đẹp bình dị và êm dịu hơn vì bản thân đối tượng mà “những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng” kia hướng đến rất
khác. đó là Hà Thành hoa lệ, là những nàng Kiều, những người con gái đẹp, mang đến xúc cảm đầy chất lãng mạn và nhân văn,
góp phần tạo nên sức mạnh tinh thần cho người đi chinh chiến.
Nhưng không thể và quyết không trốn tránh hiện thực, Quang Dũng đã nhìn thẳng vào nỗi đau của cuộc chiến đấu: sự hi sinh. Sự
hi sinh mà thi nhân từng nhắc đến đầy cao ngạo, bất cần ở đoạn thơ trước:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Nhưng lần này dữ dội và khốc liệt hơ n:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Sự thực nghiệt ngã ấy vẫn nhuốm màu sắc lãng mạn. Xen lẫn những nấm mồ “rải rác” là “biên cương” và “viễn xứ”, những từ Hán
Việt ít gặp gợi cảm giác trang nghiêm. Phù hợp với khí phác c ủa người anh hùng Tây Tiến : “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”.
Con người chẳng tiếc khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời và hơn thế: tìm được cho mình một ý nghĩa cịn lớn hơn tuổi trẻ: đấy


Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức


là sự hi sinh. Câu thơ cứ không nguôi gợi âm hưởng của “tráng sĩ nhất khứ bất phục hoàn” vang dội bên bờ Dịch Thuỷ. Và vì thế ,
người đọc sẽ cịn bắt gặp một hình ảnh rất đẹp của sự hi sinh quên mì nh: “áo bào thay chiếu anh về đất”. Không phải ngẫu nhiên,
trong một bối cảnh hiện đại, những câu thơ cứ man mác gợi đến phong vị cổ điển. Bởi hồn thơ Quang Dũng là thế, cái lãng mạn
của một con người, của một tâm hồn nhìn đời qua xúc cảm bay bổng là thế. Chính vì vậy mà những câu thơ mới có vẻ đẹp riêng:
một chút cổ thi, một chút thơ mộng, ngay cả sự hi sinh cũng là hi sinh lí tưởng của chiến binh: “da ngựa bọc thây”. Mặt khác, “anh
về đất” là về với mẹ, về với cuộc sống vĩnh hằng, con người chói ngời trong ánh sáng vinh quang của sự bất tử. Câu thơ vì thế đẹp
và hào hoa hơn. Anh ra đi nhưng nỗi đau thì vẫn còn lại, thấm vào đất rừng Tây Bắc, vào sông Mã thân thuộc. Con sông chung
thuỷ gầm lên tiếng cuối cùng bi thiết, tiếng gầm của một khúc độc hành, trong nỗi đau lẻ bạn, tự thấy mình trơ trọi trở về xu ơi.
Nhưng đó là tiếng gầm đầy sức mạnh gợi cảm giác trầm hùng. Tượng đài người chiến s ĩ Tây Tiến vì thế càng thêm cao cả.
Bài thơ kết thúc như đã từng mở đầu: bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết khắp câu chữ và giờ lắng đọng trong tâm tư của nhân vật trữ
tình. Xúc cảm lâng lâng, cao hơn và bâng khuâng hơn trong “ người đi - không hẹn ước - thăm thẳm - chia phơi”. Miền Tây Bắc vì
thế càng xa xăm hơn trong không gian và thời gian, trong tâm tưởng của con người. Chỉ còn lại một g iai điệu nhung nhớ không
cùng:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Xầm Nứa chẳng về xuôi ”
Câu thơ như một khúc nhạc, một lời nhắn gửi tha thiết của tâm hồn: con người có thể xa nhưng núi rừng Tây Tiến, con người Tây
Tiến vẫn mãi là niềm nhớ, niềm thương tha thiết trong tâm hồn.
Cuốn theo hồn thơ Quang Dũng, Tay Tiến đối với người đọc đã không chỉ còn là sự lưu giữ những sự kiện, những địa danh có thể
đã chìm vào qn lãng. Tây Tiến cịn đó và mãi mãi cịn đó như là minh chứng cho một quá khứ hào hùng gắn liền với một miền
đất, một đoàn quân; cho một hồn thơ bi tráng và lãng mạn đến tận cùng.
(sưu tầm) .

Đóng gói bởi Diễn Đàn Kiến Thức




×