VĂN MẪU LỚP 11
BÌNH GIẢNG KHỔ THƠ THỨ 2 TRONG BÀI THƠ ĐÂY THÔN VĨ
DẠ CỦA HÀN MẶC TỬ
BÀI MẪU SỐ 1:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
– Nhắc tới Hàn Mặc Tử là độc giả nghĩ ngay đến bài Đây thôn Vĩ Dạ. Nói về bài
Đây thơn Vĩ Dạ là độc giả khơng khỏi chạnh lịng trước thi nhân tài hoa mà bất hạnh Hàn
Mặc Tử.
– Đây thôn Vĩ Dạ là đứa con tinh thần quý giá của nhà thơ. Lúc đầu, bài thơ có
tên là Ở đây thơn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, khi tác giả đã mắc bệnh hiểm nghèo. Bài thơ
in trong tập Thơ Điên. Sau này đổi tên thành Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ được gợi cảm hứng
từ mối tình của Hàn Mặc Tử với người con gái tên là Hoàng Thị Kim Cúc vốn quê ở Vĩ
Dạ, một thơn nhỏ bên dịng sơng Hương nơi xứ Huế thơ mộng và trữ tình.
– Khổ thứ hai của bài thơ đã miêu tả rất thành công vẻ đẹp của cảnh sông nước
đêm trăng và tâm trạng khắc khoải đợi chờ của nhà thơ trước bức tranh thiên nhiên thơ
mộng đó.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Bức tranh sơng nước đêm trăng
Nếu ở khổ thơ thứ nhất, tác giả tập trung phô diễn vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ
thì ở khổ thơ thứ hai tác giả lại tập trung miêu tả dòng nước, bến bãi, con thuyền, ánh
trăng. Dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử, canh Vĩ Dạ hiện lên lung linh, huyền ảo nhưng
buồn man mác.
– Ngay ở câu đầu của khổ thơ thứ hai, tác giả viết: Gió theo lối gió, mây đường
mây Với nghệ thuật đối lập, câu thơ gợi lên sự chia li, tan tác, buồn bã. Mây và gió là hai
hình ảnh ln sóng đơi bên nhau. Vậy mà trong câu thơ, gió và mây lại phải chia lìa đơi
ngả. Dấu phẩy ngắt đơi dịng thơ có tác dụng nhấn mạnh sự chia xa.
– Ở câu thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hố để miêu tả dịng nước:
“Dịng nước buồn thiu”. Dịng nước như cũng có tâm trạng, cũng biết vui buồn. Bên cạnh
đó có thêm động từ “lay”. “Lay” chỉ sự đu đưa nhẹ nhàng của hoa bắp trước làn gió nhẹ
thổi. Tất cả cho ta thấy cảnh ở đây thật tĩnh lặng, đìu hiu.
– Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng tượng trưng
cho cuộc sống hạnh phúc yên bình. Và trong thơ Hàn Mặc Tử, hình ảnh làm xao động
lịng người chính là hình ảnh sơng nước đêm trăng: Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó Có
chở trăng về kịp tối nay? Có lẽ khơng có cảnh nào thơ mộng hơn cảnh đêm trăng trên
sông Hương xứ Huế. Câu hỏi vừa như một sự chiêm ngưỡng, vừa như một nỗi hoài nghi.
Cảnh rất đẹp, rất thơ mộng đấy nhưng liệu có như gió và mây chia lìa đơi ngả. Lời thơ có
chút băn khoăn, khắc khoải như một cuộc hẹn chưa thành. Thuyền vẫn đợi, bến vẫn chờ,
sơng trăng hình như vẫn bên bồi bên lở. Một cái gì như chờ đợi khao khát, hi vọng, lo
lắng ngờ vực, khiến cho lời thơ man mác, xao xuyến bâng khuâng. Con sông trở thành
sông trăng. Bến đợi trở thành bến trăng. Và con thuyền cũng trở thành con thuyền chở
đầy trăng. Độc giả khi đọc đến khổ thơ này không thể không rung động trước vẻ đẹp
mênh mang của sông nước xứ Huế đêm trăng.
2. Tâm trạng của tác giả
Một câu hỏi thơi cùng đủ diễn tả tâm trạng của nhà thơ:
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Đó là tâm trạng lo lắng, hồi hộp, đợi chờ khắc khoải pha chút hồi nghi. Phải là
người có tâm trạng bâng khng, chời đợi mới đưa vào khổ thơ một câu hỏi làm nao lịng
người đến như vậy. Có lẽ, Hàn Mặc Tử đã gửi tất cả tình cảm, sự ngưỡng mộ, sự đam mê
say đắm vào cảnh vật nên thi nhân mới hoạ nên bức tranh bằng thơ về vẻ đẹp tuyệt vời
của sông nước đêm trăng nơi xứ Huế.
III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
– Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được bức tranh sông nước
đêm trăng vừa gần gũi, vừa mờ ảo làm đắm say lòng người.
– Khổ thơ nói riêng, bài thơ nói chung đã để lại trong lịng người đọc những ấn
tượng khó phai mờ. Nhà thơ đã kết hợp hài hoà giữa việc tả thực với bút pháp tượng
trưng, lãng mạn và trữ tình. Chính vì vậy, ai đã một lần đọc bài thơ cùng sẽ nhớ mãi cảnh
sông nước đêm trăng thơ mộng và tâm trạng buâng khuâng, hồi hộp, đợi chờ khắc khoải
pha chút hoài nghi của một thi sĩ tài hoa mà bất hạnh.
BÀI MẪU SỐ 2:
Huế đẹp và thơ. Núi sông diễm lệ. Con gái Huế xinh tươi và đa tình. Nếp sống
thanh lịch của miền núi Ngự sông Hương đã trở thành ấn tượng và cảm mến sâu sắc đối
với bao người gần xa:
"Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt..."
Thơ ca viết về Huế có nhiều bài hay. Tiêu biểu là bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của
Hàn Mặc Tử (1912 - 1940), nhà thơ lỗi lạc trong phong trào "Thơ mới". Bài thơ có ba
khổ thớ thất ngơn nói về cảnh sắc và cơ gái Vĩ Dạ trong hồi niệm với bao cảm xúc bâng
khuâng, man mác, thẫn thờ.
Vĩ Dạ, một làng cổ xinh đẹp nằm bên bờ Hương Giang thuộc cố đô Huế, qua hồn
thơ Hàn Mặc Tử mà trở nên gần gũi yêu thương đối với nhiều người trong bảy mươi năm
qua. Đây là khổ thơ thứ hai của bài "Đây thơn Vĩ Dạ":
"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dịng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Khổ thơ thứ nhất nói về cảnh vật thơn Vĩ khi "nắng mai lên"... Ở khổ thơ thứ hai,
Hàn Mặc Tử nhớ đến một miền sông nước mênh mang, bao la, một không gian nghệ
thuật nhiều thương nhớ và lưu luyến. Có gió, nhưng “ gió theo lối gió". Cũng có mây,
nhưng "mây đường mây". Mây gió đơi đường, đơi ngả:
"Gió theo lối ,gió/mây đường mây".
Cách ngắt nhịp 4/3, với hai vế tiểu đối, gợi tả một khơng gian gió, mây chia xa,
như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Chữ "gió" và "mây" được điệp lại hai lần trong mỗi vế
tiểu đối đã gợi lên một bầu trời thống đãng, mênh mơng. Thi nhân đã và đang sống trong
cảnh ngộ chia li và xa cách nên mới cảm thấy gió mây đơi ngả đơi đường như tình và
lịng người bấy nay. Ngoại cảnh gió mây chính là tâm cảnh Hàn Mặc Tử.
Khơng có một bóng người xuất hiện trước cảnh gió mây ấy. Mà chỉ có "Dịng
nước buồn thiu, hoa bắp lay". Cảnh vật mang theo bao nỗi niềm. Sông Hương lững lờ trơi
xi êm đềm, trong tâm tưởng thi nhân đã hố thành "dòng nước buồn thiu", càng thêm
mơ hồ, xa vắng. "Buồn thiu" là buồn héo hon cả gan ruột, một nổi buồn day dứt triền
miên, cứ thấm sâu mãi vào hồn người. Hai tiếng “buồn thiu” là cách nói của bà con xứ
Huế. Bờ bãi đôi bờ sông cũng vắng vẻ, chỉ nhìn thấy "hoa bắp lay". Chữ “ lay" gợi tả hoa
bắp đung đưa trong làn gió. Hoa bắp, hoa bình dị của đồng nội cũng mang tình người và
hồn người.
Hai câu thơ thất ngơn với bốn thi liệu (gió, mây, dịng nước, hoa bắp) đã hội tụ
hồn vía cảnh sắc thơn Vĩ. Hình như đó là cảnh chiều hơm? Hàn Mặc Tử tả ít mà gợi
nhiều, tượng trưng mà ấn tượng. Ngoại cảnh thì chia lìa, buồn lặng lẽ biểu hiện một tâm
cảnh: thấm thía nỗi buồn xa vắng, cô đơn.
Hai câu thơ tiếp theo gợi nhớ một cảnh sắc thơ mộng, cảnh đêm trăng trên Hương
Giang ngày nào. "Dịng nước buồn thiu" đã biến hố kì diệu thành "sơng trăng" thơ
mộng:
"Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?".
Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Hàn Mặc Tử được nhiều người ngợi ca, kết tinh
rực rỡ bút pháp nghệ thuật tài hoa lãng mạn. Một vần lưng tài tình. Chữ "đó" cuối câu 3
bắt vần với chữ "có" đầu câu 4, âm điệu vần thơ cất lên như một tiếng khẽ hỏi thầm "có
chở trăng về kịp tối nay?". "Thuyền ai" phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng,
tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa xơi. Con thuyền mồ cơi nằm trên bến đợi "sông
trăng" là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Đã có "Thuyền ai đậu bến Cô Tô" hiện lên
trong ánh trăng tà và tiếng quạ kêu sương trong thơ Trương Kế đời Đường. Đã có "Sông
xuân đâu chẳng sáng ngời trăng" trong "Xuân giang hoa nguyệt dạ" của Trương Nhược
Hư, 1300 năm về trước. Lại có cảnh "Gió trăng chứa một thuyền đầy" (Nguyễn Cơng
Trứ). Cịn có "Trăng sơng Trà như tấm gương soi dịng nước bạc” (Cao Bá Qt) Qua đó,
ta thấy hình tượng "sông trăng" là mới mẻ, sáng tạo. Cả hai câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu
thơ nào cũng có trăng. Ánh trăng tỏa sáng dịng sơng, con thuyền và bến đị. Con thuyền
khơng chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ "chở trăng về". Phải "về kịp tối nay" vì
đã cách xa và mong đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã
thành vơ vọng! Bến sơng trăng trở nên vắng lặng vì "thuyền ai" chỉ là con thuyền mồ cơi.
Sau cảnh gió, mây, là con thuyền, bến đợi và sông trăng, cảnh đẹp một cách mộng
ảo. Cả ba hình ảnh ấy đều biểu hiện một nỗi niềm, một tâm trạng cô đơn, thương nhớ đôi
với cảnh và người nơi thôn Vĩ. Như ta đã biết, thời trai trẻ, Hàn Mặc Tử đã từng học ở
Huế từng có một mối tình đơn phương với một thiếu nữ thơn Vĩ, mang tên một lồi hoa.
Với chàng thi sĩ tài hoa, đa tình và bất hạnh, đang sống ưong cô đơn và bệnh tật, nhớ Vĩ
Dạ là nhớ cảnh cũ người xưa. Cảnh "gió theo lối gió, mây đường mây", cảnh "thuyền ai
đậu bến sơng trăng đó" là cảnh đẹp mà buồn. Buồn vì chia lìa, xa vắng, lẻ loi và vô vọng.
Khổ thơ trên đây, mỗi câu, mỗi chữ, mỗi vần thơ đều thấm đẫm tình thương nhớ
và một nỗi "buồn thiu" lẻ loi, vần thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Thơ Hàn Mặc Tử, đúng là
thơ trữ tình hướng nội "tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này"...
BÀI MẪU SỐ 3:
I. Giới thiệu vài nét về hoàn cảnh sáng tác, bài thơ và vị trí đoạn trích
1. Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một
vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai theo nhà thơ
Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều mơ ước với Hồng Cúc.
2. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập
“Thơ điên”. Bài thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc
đời gặp nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà cịn góp phần tơ điểm cho một xứ sở vốn đã
nổi tiếng của Huế:
“Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ”.
3. Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống
của khu vườn trong ánh ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng
buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.
II. Bình giảng khổ thơ
1. Bình giảng hai câu đầu:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Tiếp theo khổ một đặc ả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn
thôn Vĩ vào buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ.
Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế, bầu trời sông
nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”,
“mây”, “dịng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên chia lìa, trái tự
nhiên, khơng hồ nhập: “gió một đường, mây một nẻo” này được thể hiện theo logic của
tâm trạng buồn, cơ đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vơ vọng” của nhà thơ với
Hồng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc
trên.
Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dịng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô
đậm thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này
vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi,
hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh: “Cái nét trầm tư chẳng nơi nào có
được của Huế đẹp và thơ”.
2. Bình giảng hai câu sau:
Cùng với cảm giác chia lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và
tràn trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:
“Thuyền ai đậu bến sơng trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Trăng dưới ngịi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ
trụ tạo nên một khơng khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tuợng
cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý
nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao,
khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử
cất lên như một câu hỏi đau đáu một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về
kịp tối nay?”