Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Nhiều ý kiến cho rằng chữ “hồng” là nhãn tự bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ Chí Minh. Anh (chị) có đồng ý như vậy không? Hãy nêu ý kiến của mình, phân tích để làm sáng tỏ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (44.62 KB, 2 trang )

Đề bài: Nhiều ý kiến cho rằng chữ “hồng” là nhãn tự bài thơ Mộ (Chiều tối) của Hồ
Chí Minh. Anh (chị) có đồng ý như vậy khơng? Hãy nêu ý kiến của mình, phân tích để
làm sáng tỏ
Bài làm
Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, nhất là thể tứ tuyệt, thường có nhãn tự (chữ mắt)
như là điểm sáng, cái “thần”, linh hồn của bài thơ. Người ta thường nhắc đến chữ “sầu” trong
bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Nếu chữ “sầu” đọng lại một nỗi buồn mênh mang, sâu
lắng trong thi phẩm đời Đường, thì chữ “hồng” lại sáng lên một ngọn lửa ấm nóng trong bài
thơ Chiều tối của nhà thơ cộng sản Hồ Chí Minh trên đường giải tù qua một xóm núi hẻo
lánh:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng khơng
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Ánh lửa hồng trong lò than
Lúc ấy, chiều đã muộn. Bác bị giải qua một khu rừng heo hút nơi đất khách quê người. Chỉ
có một cánh chim mỏi bay về rừng tìm nơi trú ngụ và một chịm mây cơ đơn trơi trên bầu
trời, không biết sẽ đi đâu về đâu... Tâm trạng người tù xa xứ cũng vậy. Cả một ngày lê nặng
bước chân xiềng xích, mệt mỏi rã rời mà vẫn chưa có điểm dừng chân. Một nỗi buồn thấm
sâu vào cảnh vật khiến cho cảnh chiều tối càng thêm vắng vẻ, hiu quạnh, lạnh lẽo. Đó là nỗi
buồn nhớ quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng chí của người chiến sĩ cách mạng đang bị
giam hãm trong cảnh tù đày gian truân, vất vả.
Nhưng bỗng tứ thơ chuyển đổi khi người tù đi qua một xóm núi bên đường. Khơng cịn cái
hiu hắt, lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng vắng lặng, câu thơ bỗng như reo vui lên
trước một cảnh sinh hoạt đầm ấm nơi xóm núi:
Cơ em xóm núi xay ngơ tối
Xay hết, lị than đã rực hồng.
Con người lao động hiện ra khỏe khoắn, tươi vui, đầy sức sống mặc dù cuộc sống của họ còn
nghèo nàn, vất vả (chỉ ăn ngơ). Hình ảnh “cơ em xóm núi xay ngơ tối” hiện lên thật đẹp
trong câu thơ, và càng đẹp hơn là cái ánh lửa hồng trong lị than đã tỏa ấm nóng và ánh sáng
ra tất cả, đẩy lùi bóng tối và cái lạnh lẽo của cảnh chiều tối nơi núi rừng. Ngỡ như ngọn lửa




hồng đang hắt lên khuôn mặt cô gái làm cho khuôn mặt cô càng thêm rạng rỡ. Tứ thơ chuyển
đổi chính là nhờ một chữ “hồng” làm sáng cả bài thơ, đem ấm nóng và sức sống đến cho tác
phẩm. “Một chữ hồng mà đủ sức để cân lại với 27 chữ thơ kia, nó làm sáng cả câu thơ, cả bài
thơ. Nó là nhãn tự (chữ mắt) của bài thơ”. (Hồng Trung Thơng).
Nhưng do đâu mà có được nhãn tự đó? Do đâu mà một chữ “hồng” đã làm cho người đọc
cảm nhận được cái “thần” của bài thơ, linh hồn của bài tứ tuyệt? Chính là do trong lịng thi
nhân cũng có một ngọn lửa hồng rực sáng như vậy: ngọn lửa của tình yêu cuộc sống, yêu
con người khơng bao giờ tắt trong lịng nhà thơ Hồ Chí Minh. Ngay cả những lúc mà cuộc
sống của người tù ấy khơng cịn nữa, thì tình u ấy vẫn còn, và chất thơ vẫn trào lên để kết
tụ lại thành một chữ “hồng” tuyệt đẹp. Ở đây, trong cảnh giải tù này, Bác làm gì cịn niềm
vui cho riêng mình mà chỉ có nỗi đau, nỗi buồn, nhưng chính lúc Người đi qua hẻm núi, nhìn
thấy cảnh cơ gái xay ngơ, thì niềm vui đến ngay, và tứ thơ xuất thần bay lên thành một ngọn
lửa hồng rực rỡ. Đó là niềm vui cho người lao động, vì người lao động, và hơn thế, còn là sự
trân trọng, nâng niu đối với một hạnh phúc thật bình thường, nhỏ nhoi của người lao động
nơi xóm núi. Đúng như Hồi Thanh đã viết: “Những cảnh tượng ấy biết bao người đã đi qua,
nhưng nếu khơng có một tấm lịng nâng niu trân trọng thì cũng khơng thể nào ghi lại được
trong thơ”.



×