Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phân tích đặc sắc về nghệ thuật của bản Tuyên ngôn độc lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.96 KB, 10 trang )

VĂN MẪU LỚP 12
PHÂN TÍCH ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT CỦA BẢN TUN NGƠN
ĐỘC LẬP
BÀI MẪU SỐ 1:
Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một tác gia lớn của nền văn học dân tộc Việt Nam. Người đã
viết thành công trên nhiều thể loại văn chính luận, truyện ký, thơ ca và ở thể loại nào cũng
có những tác phẩm xuất sắc mẫu mực. Riêng ở thể loại văn chính luận Hồ Chí Minh đã
chứng tỏ mình là một cây bút xuất sắc, mẫu mực mà dẫn chứng hùng hồn là tác phẩm
“Tuyên ngôn độc lập” 1945. “Tuyên ngôn độc lập” là một bản tuyên bố lịch sử được Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc tại vườn hoa Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945. Bản “Tuyên
ngôn độc lập” vừa tuyên bố nền độc lập của dân tộc vừa bác bỏ luận điểm xâm lược của kẻ
thù. “Tuyên ngôn độc lập” là một áng văn chính luận vừa có giá trị pháp lí, giá trị lịch sử,
giá trị nhân văn và giá trị nghệ thuật cao. Cái tạo nên giá trị nghệ thuật cao chính là ở bút
pháp lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, dẫn chứng hùng hồn, văn phong xúc tích trong sáng.
Hồ Chí Minh viết “Tuyên ngôn độc lập” là để tuyên bố nền độc lập của dân tộc trước quốc
dân đồng bào và trước thế giới. Thế giới ở đây không phải chung chung mà trước hết là đế
quốc Anh, Pháp, Mỹ. Vì sao vậy? Vì khi ta giành được độc lập thì phía Bắc quân Tàu
Tưởng áp sát biên giới theo sự xíu giục của Mỹ, cịn ở phía Nam qn Pháp núp sau lưng
quân Anh tiến vào Đông Dương với chiêu bài đã có cơng “khai hóa” Đơng Dương nên có
quyền trở lại Việt Nam. Như vậy bản tuyên ngôn đồng thời phản ánh được hai mục đích là
vừa tuyên bố độc lập và vừa bác bỏ luận điệu xâm lược của kẻ thù để ngăn chặn nguy cơ
chiến tranh.
Để cho bản tun ngơn có tính pháp lí, tính thực tế, Hồ Chí Minh đã dẫn lời hai bản tun
ngơn nổi tiếng trên thế giới là “tuyên ngôn độc lập” 1776 của Mỹ và “tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền” 1791 của Pháp. Cốt lõi của hai bản tuyên ngôn là “mọi người sinh ra
đều có quyền bình đẳng” suy rộng ra “tất cả các dân tộc sinh ra trên thế giới đều bình đẳng”
đó là quyền khơng ai có thể xâm phạm được. Đưa ra hai bản tuyên ngôn này, Hồ Chí Minh
đã đạt được nhiều mục đích cho bản tuyên ngơn. Trước hết là dùng làm cơ sở pháp lí và
thực tế để khẳng định nền độc lập dân tộc là một tất yếu. Đồng thời kẻ thù của dân tộc ta tại
thời điểm viết “Tuyên ngôn độc lập” là Pháp và Mỹ. Vậy việc đưa ra lời lẽ của tổ tiên người
Mỹ, người Pháp để nhắn gửi đế quốc Mỹ và Pháp là dùng phép gậy ông đập lưng ông nếu


họ thực hiện dã tâm xâm lược nước ta. Ngồi hai mục đích trên, việc đưa ra lời lẽ của hai
bản tuyên ngôn tác giả nhằm đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau, ba nền độc lập ngang
nhau, ba bản tun ngơn ngang nhau, đó là một cách kín đáo Hồ Chí Minh thể hiện niềm tự
hào dân tộc.


Kẻ thù nguy hiểm nhất của nước Việt Nam non trẻ lúc bấy giờ chính là Pháp. Để đẩy lùi
nguy cơ chiến trang, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, Hồ Chí Minh đã bác bỏ luận
điệu xảo trá của Pháp. Nghệ thuật bác bỏ của Hồ Chí Minh vừa có lí lẽ đanh thép, vừa có
dẫn chứng hùng hồn, văn phong xúc tích.
Trước hết Hồ Chí Minh lập luận bác bỏ luận điệu rằng Pháp có cơng khai hóa. Tun ngơn
vạch rõ hành động của Pháp hơn tám mươi năm nay ở Việt Nam là “trái với nhân đạo và
chính nghĩa”. Về chính trị Pháp chia Bắc, Trung, Nam để cai trị, dìm các cuộc khởi nghĩa
trong biển máu, đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện. Về kinh tế, chúng bóc
lột nhận dân ta đến tận xương tủy, gây ra nạn đói làm hai triệu đồng bào ta bị chết.
Tiếp theo Hồ Chí Minh bác bỏ luận điệu Pháp có cơng bảo hộ. Lập luận của bản tuyên ngôn
đã chỉ rõ thực dân Pháp đến nước ta khơng hề có sự bảo hộ mà chúng khơng phải có cơng
mà là có tội là “trong năm năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật”. Và cuối cùng Hồ Chí
Minh bác bỏ luận điệu Pháp có quyền trở lại Đơng Dương. Để bác bỏ luận điệu này Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc đia của Nhật chứ
không phải thuộc địa của Pháp nữa. Sự thật là dân ta nói lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ
không phải từ tay Pháp”.
Những lí lẽ và dẫn chứng hùng hồn nói trên, Hồ Chí Minh đã bác bỏ một cách đanh thép về
những luận điệu xảo trá của Pháp, để cho bọn Pháp nhận ra mà từ bỏ dã tâm xâm lược, đồng
thời tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân
ta.
Để khẳng định quyền độc lập, nền độc lập, tư cách làm chủ đất nước, bản tun ngơn đã có
những lập luận rất chặt chẽ, sắc bén.
Lập luận khẳng định đầu tiên của bản tun ngơn là khẳng định tính chất đê hèn tàn bạo của
bọn Pháp “thẳng tay khủng bố Việt Minh, giết nốt tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”,

trong khi đó nhân dân ta rất khoan hồng nhân đạo “giúp cho nhiều người Pháp chạy qua
biên thùy, lại cứu người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật”. Dân tộc Việt Nam khơng chỉ có
nhân đạo chính nghĩa mà đặc biệt đã có tinh thần anh dũng chiến đấu và đứng hẳn về phe
đồng minh để chống phát xít thì tất nhiên “dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được
độc lập”.
Lập luận khẳng định độc lập tự do còn được nhấn mạnh, tăng thêm trong lời kết luận của
bản tun ngơn đó là “Việt Nam có quyền hưởng tự do và sự thật đã trở thành một nước tự
do và độc lập”.
Kết thúc bản tuyên ngôn là lập luận quyết tâm giữ độc lập tự do của dân tộc Việt Nam “toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững
quyền tự do và độc lập ấy”.


“Tun ngơn độc lập” là một kiệt tác văn chính luận của Hồ Chí Minh nói riêng, của nền
văn học Việt Nam nói chung. Thành cơng đặc biệt của tác phẩm văn chính luận “Tun
ngơn độc lập” là nhà văn đã đưa ra được những lập luận rõ ràng chặt chẽ, những hệ thống lí
lẽ đanh thép sắc sảo, những dẫn chứng hùng hồn không thể chối cãi được. Đằng sau nghệ
thuật lập luận ấy là một trí tuệ sắc sảo, một tầm tư tưởng, tầm văn hóa cao rộng của nhà văn
Hồ Chí Minh, của Chủ tịch Hồ Chí Minh.


BÀI MẪU SỐ 2:
Vào những thời điểm chuyển mình của lịch sử một dân tộc thường xuất hiện những áng văn
bất hủ, đánh dấu cho một thời đại. Không phải ngẫu nhiên người ta hay nhắc đến những ban
tuyên ngôn nổi tiếng thế giới như [ Tuyên ngôn Độc lập của người Mĩ năm 1776, Tuyên
ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử dân tộc ta cũng có
những bản tun ngơn như vậy. Đó là Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và
Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc ngày 2-9- 1945 tại quảng
trường Ba Đình lịch sử.
Tun ngơn Độc lập của Hồ Chí Minh từ lâu vẫn được coi là “một văn kiện có giá trị lịch

sử to lớn, một bài văn chính luận ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ
hùng hồn, đầy sức thuyết phục”. Có thể nói bản Tun ngơn Độc lập là kết tinh trí tuệ của
thời đại, là kết quả của “bao nhiêu hi vọng, gắng sức và tin tưởng” của hơn hai mươi triệu
nhân dân Việt Nam.
“Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là một bài văn chính luận
ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, đanh thép, lời lẽ hùng hổn, đầy sức thuyết phục”
Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà
số 48 phố Hàng Ngang, người soạn thảo bản Tun ngơn và sau đó, Người thay mặt Chính
phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 50 vạn
đồng bào.
Sự kiện trọng đại ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc vào lịch sử như một mốc son chói lọi. Nhưng
ta sẽ khơng hiểu hết tầm vóc và ý nghĩa của tác phẩm nếu khơng trở lại với khơng khí chính
trị căng thẳng, nghiêm trọng cách đây hơn nửa thế kỉ.
Cho đến đầu mùa thu năm 1945, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển mau lẹ. Cuộc.Chiến
tranh thế giới lần thứ hai đang đi vào những ngày cuổi. 5ự cáo chung của phe phát xít và sự
tồn thắng của qn Đồng minh sẽ là một kết cục không thể đảo ngược. Chớp lấy thời cơ
đó, nhân dân ta, dưới sự tổ chức và chỉ đạo của Việt Minh đã vùng lên cướp lấy chính
quyền. Chỉ trong vịng một tuần lễ “sao vàng năm cánh” khơng cịn là “mộng” nữa mà đã
tung bay :rên khắp ba miền. Nhưng cũng chính lúc này, nhiều đế quốc bắt đầu nhịm ngó
Đơng Dương và khơng giấu giếm ý đồ thơn tính nước ta. Hội nghị Posdame tháng 7-1945
đã quyết định quân Anh vào giải giáp quân Nhật từ vĩ tụyến 16 trở ra. Chính phủ Pháp cho
tướng De Gaulle đại diện, tuyên bố: " sẽ tổ chức “Liên bang Đông Dương” thành năm nước!
Không thể chần chừ, Việt Xam cần phải tuyên bố" độc lập!


Bản Tun ngơn, vì thế đã đóng vai trị hồn tất một sứ mệnh lịch sử. Khơng cịn nghi ngờ
gì nữa, sự ra đời đúng lúc của bản Tuyền ngôn Độc lập đã chặn đứng âm mưu tái chiếm
Việt Nam của thực dân Pháp chống lại ý đồ can thiệp vào Việt Nam của các đế quốc khác,
mở đầu cho làn sóng giải phóng thuộc địa ở châu Á, khẳng định chủ quyền và nâng cao địa
vị của dân tộc ta trên trường quốc tế.

Bản Tun ngơn cũng đã chính thức chấm dứt 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, năm năm
cướp bóc, giày xéo của phát xít Nhật và nghìn năm chế độ phong kiến. Với ý nghĩa như vậy
bản Tuyên ngôn Độc lập đã thực sự khai sinh ra một nước Việt Nam mới, mở ra kỉ nguyên
độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Bên cạnh những giá trị to lớn đã nói ở trên, bản Tuyên ngơn cịn là một bản văn chính luận
tiêu biểu xuất sắc. Nó đã được viết trong cơn trở dạ của lịch sử để tạo ra bước ngoặt vĩ đại
của cách mạng Việt Nam, đồng thời nó cũng là kết quả của niềm khao khát tự do, độc lập
cháy bỏng của dân tộc Việt Nam đã tích tụ hàng ngàn năm. Bởi vậy, người đọc luôn luôn bị
sự chinh phục lớn lao, mạnh mẽ của một áng hùng văn được kết tinh bởi trí tuệ và tâm huyết
Hồ Chí Minh — Người con ưu tú của dân tộc — và bởi tự ban thân tác phẩm - tiếng nói
chân lí của thời đại.
Mọi chân lí đều hết sức giản dị. Đây cũng là phẩm chất tiêu biểu tạo nên vẻ đẹp đầu tiên của
Bản Tun ngơn Độc lập. Ít có tác phẩm chính luận nào trong văn học xưa nay lại có bố cục
ngắn gọn, súc tích như vậy.
Trước hết, là một thơng điệp chính trị, bản Tun ngơn nhằm hướng tới những mục đích
thức thời, quan trọng có tính cấp thiết, bức bách, nước sơi, lửa bỏng. Trong một tình thế như
vậy, sự ngắn gọn, mạch lạc sẽ tạo nên hiệu quả thơng tin nhanh chóng và triệt để. Tất nhiên,
khống phải sự ngắn gọn nào cũng tạo nên tính chất súc tích, cơ đọng và khơng phải sự cơ
đọng nào cũng hàm chứa sức mạnh. Bản Tuyên ngôn dường như chỉ xoáy sâu vào hai vấn
đề lớn. Thứ nhất: phủ nhận hồn tồn quyền dính líu tới Việt Nam của thực dân Pháp; thứ
hai: khẳng định quyền độc lập và quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập đó.
Vì những mục tiêu này, các ý tưởng, các kiểu câu đều tuân theo nguyên tắc mạch lạc, ngắn
gọn, sáng sủa. Như đã nói ở trên, văn kiện lịch sử này không chỉ được đọc trước quốc dân
đồng bào mà còn trước thế giới. Đây còn là thái độ của chúng ta trước kẻ thù, cho nên, bản
Tuyên ngôn Độc lập đã mở đầu bằng việc viện dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của hai
cường quốc Pháp và Mĩ, từ đó suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc (bên cạnh quyền con
người và quyền công dân) như một lẽ phải không ai chối cãi được. Vậy mà hơn 80 năm,
thực dân Pháp đã bất chấp lẽ phải ấy; chúng lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái để nô
dịch nhân dân ta. Hành động của chúng là sự chà đạp lên chân lí, trái với đạo lí và chính
nghĩa, đi ngược lại những lời tuyên ngôn mà Cách mạng Pháp đã đề ra. Không chỉ tố cáo

những tội ác của thực dân Pháp, tác giả bản Tun ngơn cịn vạch trần bộ mặt phản bội của


chúng, khẳng định một cách dứt khoát quyền tự do, độc lập chính đáng của dân tộc Việt
Nam.
Tất cả những lí lẽ và bằng chứng đưa ra đều được cấu trúc trong một hệ thống lập luận chặt
chẽ, đanh thép nhằm chống lại nhừng ngụy thuyết thực dân, những mưu đồ xâm lược của
các lực lượng đế quốc nhằm giữ vững chính quyền - vấn đề quan trọng nhất đối vđi van
mệnh dân tộc ta lúc bấy giờ.
Điều cần nói là, bản Tuyên ngôn đã không khởi đầu bằng việc nêu lên truyền thông chống
ngoại xâm bảo vệ chủ quyền dân tộc từng chói ngời trong sử sách qua các triều đại Đinh, Lí,
Trần, Lê... mà xuất phát từ các nguyên tắc do chính các nước tư bản đã nêu ra và thừa nhận,
đặc biệt là các nước thuộc phe Đồng minh. Rõ ràng trong lập luận, tác giả bản Tuyên ngôn
vừa chứng tỏ sự tôn trọng thành quả văn hóa của nhân loại, vừa ngầm buộc các cường quốc
phải tự ngẫm lại mình mà thừa nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam.
Để tố cáo thực dân Pháp, tác giả đã vạch năm tội ác về chính trị, bốn tội ác về kinh tế cùng
hàng loạt sự phản bội đê hèn và trắng trợn vào những thời điểm cụ thể nên dù muôn, chúng
cũng không thể nào chối cãi được. Để đánh tan những mơ hồ, những “mập mờ đánh lận con
đen” mà thực dân Pháp đã cố dựa vào như một ngụy thuyết để rắp tâm quay trở lại thông trị
đất nước ta, một lần nữa, tác giả vạch rõ: “Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng,
mở cửa nước ta rước Nhật.
(...) Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải
thuộc địa của Pháp nữa.
(...) Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Với bút lực mạnh mẽ của một trí tuệ siêu việt, với sự thấu hiểu tình hình chính trị một cách
sâu sắc, bằng những chứng cứ đầy đủ và xác thực, bản Tuyên ngôn thực sự là bản cáo trạng
đanh thép lên án mạnh mẽ tội ác của thực dân Pháp. Tuy nhiên, sức mạnh chinh phục của
bản Tun ngơn cịn là ở sự chính xác và giàu sức biểu cảm của hệ thống gôn từ, chẳng hạn
sau khi viện dẫn hai bản Tuyên ngôn, nhưng không dừng lại ở nội dung hai bản Tun ngơn

đó mà suy rộng ra về quyền độc lập dân tộc. Tác giả khẳng định: “Đó là những lẽ phải
khơng ai chốì cãi được”. Khi nói về tội ác của thực dân Pháp, tác giả viết: “chúng tuyệt đối
không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào”, “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta
trong những bể máu...”, “chúng ràng buộc (...), chúng bốc lột (...), chúng cướp (...), chúng
giữ độc quyền (...), chúng cịn nhẫn tâm giết nốt số đơng tù chính trị. Khi tuyên bố thoát li
hẳn với thực dân Pháp, bản Tuỵên ngơn có những từ vừa chính xác, vừa chọn lọc: “xóa bỏ
hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về (chứ khơng phải với) nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả
mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam. Ngoài ra, việc sử dụng hàng loạt điệp từ,


điệp ngữ vừa tạo hiệu quả cao trong việc khẳng định các ý tưởng, vừa đảm bảo chính xác và
sức mạnh cho lí lẽ, vừa gợi xúc cảm nhằm tác động đến nhân tâm, thôi thúc người nghe
nhận ra và thừa nhận trân lí.
Tất cả những điều đó đã khẳng định trình độ nghệ thuật xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh,
đưa tun ngơn độc lập trở thành một mẫu mực của thể loại văn chính luận.
Đã hơn một thế kỷ trôi qua nhưng tuyên ngôn độc lập vẫn là một văn kiện có giá trị to lớn,
đồng thời là một tác phẩm chính luận đanh thép khơng những tố cáo tội ác của thực dân
Pháp mà còn đưa ra những lý lẽ sâu sắc cho nền độc lập dân chủ nước nhà. Thực sự Tuyên
Ngôn Độc Lập đã mở đầu cho kỷ nguyên độc lập tự do, tạo điều kiện cho sự thay đổi căn
bản của đời sống nhân dân.


BÀI MẪU SỐ 3:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng yêu nước, là một người còn ưu tú của dân tộc
Việt Nam. Đồng thời, Người cũng để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao
về tầm vóc; phong phú, đa dạng về thể loại và đặc sắc về phong cách sáng tạo. Ở mỗi thể
loại văn học, từ văn chính luận, truyện, kí đến thơ ca Hồ Chí Minh đều tạo được những nét
phong cách riêng, độc đáo và hấp dẫn. Nhắc đến văn chính luận, người ta khơng thể khơng
nhắc đến “Tun ngôn Độc lập” – tác phẩm tiêu biểu cho nghệ thuật lập luận của Hồ Chí
Minh.

“Tun ngơn Độc lập’ ra đời trong một hồn cảnh vơ cùng đặc biệt. Sau Đại chiến lần thứ
hai (1939 – 1945), thắng lợi thuộc về phe Đồng minh. Bọn thực dân và đế uốc âm mưu xâu
xé Việt Nam, nhưng chúng nấp dứới danh nghĩa quân đội Đồng minh vào tước vũ khí của
quân đội Nhật. Để dọn đường cho con đường tái chiếm Đơng Dƣơng thì thực dân Pháp đã
đưa ra một luận điệu hết sức xảo trá rất dễ đánh lừa công luận quốc tế: Pháp có cơng khai
hóa Đơng Dương, Đơng Dương là đất bảo hộ của Pháp bị Nhật chiếm. Bây giờ Nhật đã
đầu hàng Đồng minh thì đương nhiên Pháp phải lấy lại Đông Dương, phải trở lại Đông
Dương để thay thế Nhật. Trước tình hình như vậy, trên tồn quốc, nhân dân ta vùng dậy
giành chính quyền. Ngày 26/8/1945, Hồ Chí Minh rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội.
Tại ngôi nhà 48 – Hàng Ngang, Người đã soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc tại quảng trừờng Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.
Một bài tồn được đặt ra ở đây, đó làm thế nào để có thể viết được một tác phẩm thuyết
phục tất cả mọi người. Trong khi đó, phạm vi tác động rộng, đối tượng tiếp nhận khác nhau
( nhân dân Việt Nam – một bộ phận là trí thức, cịn lại 90% là người dân lao động nghèo,
mù chữ) cho đến vấn đề trọng đại, nhiều nội dung lớn cần đề cập và làm sáng rõ. Ấy vậy
mà, Tun ngơn Độc lập có thể đáp ứng đầy đủ tất cả yêu cầu đó một cách xuất sắc bằng
nghệ thuật lập luận bậc thầy của Hồ Chí Minh.
Điểm đầu tiên ta phải kể đến đó là bố cục và hệ thống lập luận chặt chẽ, xác đáng của bản
Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn được chia làm 3 phần, có kết cấu vơ cùng chặt chẽ. từ cơ sở
pháp lí và cơ sở thực tiễn đi đến tuyên bố về quyền tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam.
Phần đầu ( từ đầu đến đó là những lẽ phải không ai chối cãi được) , tác giả đã nêu ra cơ sở
pháp lí của Tun ngơn Độc lập. Ngay từ những dịng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những
chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa
nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ
đang đi ngược lại nguyên tắc đó. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của
Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí
cho bản tun ngơn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết.



Việc sử dụng hiệu quả thủ pháp “gậy ông đập lưng ông như vậy” đã tạo nên những hiệu quả
của việc trích dẫn. Thứ nhất, nó tạo ra một vị thế ngang hàng của ba bản Tuyên ngôn, của ba
quốc gia, ba cuộc cách mạng. Tiếp đó, việc trích dẫn tạo nên cơ sở pháp lí rất vững vàng,
làm tiền đề cho việc khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, nõ
cũng hể hiện nghệ thuật lập luận vừa khéo léo vừa kiên quyết của tác giả Hồ Chí Minh trong
văn chính luận.
Kết thúc phần đầu chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ “Thế mà” như để báo truớc
những hành động Pháp đuợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo, chứng tỏ rằng
chúng đã phản bội chính ngay những điều đuợc nêu lên trong các bản Tuyên ngôn của
chúng. Ở phần thứ hai này, tác giả đã sử dụng chủ yếu thao tác lập luận bácn bỏ cùng những
lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng hùng hồn để bác bỏ luận điệu ăn cướp và xảo
trá của thực dân Pháp. Thêm vào đó, bản Tuyên ngôn cũng đã trở thành một bản cáo trạng
đanh thép về tội ác của bè lũ thực dân cướp nước. Điệp từ “chúng” được lặp đi, lặp lại nhiều
lần: “Chúng thi hành những luật pháp dã man”, “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường
học”,… tạo nên điệp khúc nhức nhối. Bên cạnh đó, chủ tích Hồ Chí Minh còn sử dụng các
động từ mạnh như thẳng tay chém giết, tắm các cuộc khởi nghĩa tròg bể máu, bóc lột nhân
dân đến tận xương tủy. Bằng việc sử dụng cách diễn đạt hình tượng này, tác giả đã lột trần
được sự dã man, tàn bạo của bọn thực dân, vừa diễn tả được nỗi đau thê thảm của nhân dân
ta, những nguời dân vô tội đang quằn quại trong “vòng tử địa” (Đuờng Kách mệnh).
Ngay từ phần mở đầu đoạn thứ ba, tác giả đã sử dụng cùm từ: bởi thế cho nên, đã tạo nên sự
liên kết giữa phần kết với phần trên, thể hiện mối quan hệ nguyên nhân – kết quả. “Tuyên
ngôn Độc lập” khép lại với lời tuyên bố khẳng định quyền tự do, độc lập cung với quyết tâm
chống giặc, giữ vững nền tự do, độc lập ấy của đồng bào Việt Nam ta: “Nước Việt Nam co
quyền được hưởng tự do, độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân
tộc Việt Nam quyết đem tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự
do, độc lập ấy”. Rõ ràng, Tuyên ngôn độc lập là một chỉnh thể thống nhất, với các yếu tố
quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ của đối phuơng
để bác bỏ đối phương và ln có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Làm nên nghệ thuật lập luận bậc thầy, không chỉ bố cục chặt chẽ mà văn phong của bản
“Tuyên ngôn Độc lập” cũng đanh thép, sắc sào mà trong sáng, giản dị. Từ ngữ được sử

dụng một cách chính xác đến “nghiệt ngã”. Khi tuyên bố xóa bỏ quan hệ với thực dân Pháp,
tác giả viết “xóa bỏ hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam” chứ khơng phải là kí với Việt
Nam. Kí “về’ chứ khơng phải kí “với” bởi lẽ “về” là mang tính chất áp đặt, ép buộc, cịn
“với” làng mang tính chất hữu nghị hịa bình, có lợi cho cả đôi bên. Hơn nữa, tác giả lại viết
“tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với thực dân Pháp” chứ khơng phải với tồn bộ người Pháp
bởi lẽ dân người dân Pháp cũng là người yêu chuộng hòa bình, họ cũng phản đối chiến tranh


phi nghĩa. Như vậy, có thê thấy, từ ngữ được dùng chính xãc từng từ, từng chữ một. Lời văn
trong sáng mà khơng làm mất đi tính hiện đại, uyển chuyển.
Tóm lại, Tun ngơn Độc lập đã thể hiện một tư suy nhạy bén, tầm văn hóa sâu rộng và trên
hết là tình thần yêu dân, yêu nước nồng nàn. của chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã rất thành
cơng trong việc nghệ thuật lập luận – một trong những yếu tố quan trọng làm nên phong
cách Hồ Chí Minh.



×