Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Luận văn hợp tác xã kiểu mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.96 KB, 100 trang )

1

Luận văn
Hợp tác xã kiểu mới trong q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hố nơng
nghiệp, nơng thơn ở Nghệ An


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp tác xã là hình thức tổ chức thích hợp để góp phần phát triển kinh
tế- xã hội, cải thiện đời sống văn hố, tinh thần cho nhân dân, xố đói giảm
nghèo một cách bền vững, dần đưa tinh thần hợp tác thành văn hoá trong xã
hội. Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001- 2010, chủ
trương của Đảng về phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã là một
trong những biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố, xây dựng và bảo vệ đất nước. Tổng kết 5
năm thực hiện chuyển đổi hợp tác xã theo luật hợp tác xã (1996), hội nghị
TW5 khoá IX (3/2002) đã ra nghị quyết về “tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trên cơ sở nghị quyết của Đảng và thực
tiễn hoạt động của hợp tác xã kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kì họp thứ 4
Quốc hội khố XI đã thông qua luật Hợp tác xã sửa đổi (năm 2003), có hiệu
lực thi hành từ ngày 1-7-2004
Thực hiện đường lối đổi mới HTX của Đảng, hầu hết các địa phương
đều đã tập trung chỉ đạo chuyển đổi HTX kiểu cũ sang HTX kiểu mới cho
phù hợp với nền kinh tế thị trường và đặc điểm của hộ kinh tế cá thể dựa trên
quyền tự chủ sản xuất kinh doanh. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế xã hội của
từng địa phương, sự vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới HTX của cấp uỷ
Đảng, chính quyền các cấp, việc chuyển đổi các HTX đã diễn ra hết sức đa


dạng và phong phú. Đáng chú ý là đã xuất hiện nhiều mơ hình HTX kiểu mới
làm ăn có hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của xã viên đặc biệt trong
quá trình chuyển đổi sang sản xuất nơng nghiệp hàng hố. Do vậy, việc nghiên
cứu kinh tế hợp tác xã vẫn là vấn đề cấp bách cả về lí luận và thực tiễn.
Nghệ An là tỉnh nơng nghiệp ở vùng đồng bằng duyên hải miền Trung,
có nhiều điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho việc phát triển một nền


3

nơng nghiệp sản xuất hàng hố. Từ khi luật Hợp tác xã đi vào thực tiễn, cùng
với cả nước, HTX kiểu mới trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã có những bước phát
triển đáng ghi nhận, đáp ứng được một phần nhu cầu của những người lao
động, hộ sản xuất kinh doanh nơng nghiệp, đóng góp quan trọng vào q trình
phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Tuy nhiên trong quá trình hoạt
động, HTX kiểu mới ở Nghệ An còn bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém. Thực
tế, việc chuyển đổi của nhiều HTX còn mang nặng tính hình thức, phát triển
chậm chạp, lợi ích đem lại cho các thành viên chưa nhiều, số người lao động
thực sự tham gia cịn ít…
Có nhiều ngun nhân để lí giải cho thực trạng đó của HTX kiểu mới ở
Nghệ An và khắc phục được những khó khăn này sẽ giúp HTX phát triển có
hiệu quả, phát huy vai trị hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ và trang trại, gắn với
q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp nơng thơn. Với lí do đó,
tơi chọn đề tài: “Hợp tác xã kiểu mới trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hố nơng nghiệp, nơng thơn ở Nghệ An” làm luận văn thạc sĩ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị, nhằm góp phần giải quyết những vấn đề đang
đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt nghị quyết của Đảng về tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể và thực tế triển khai mơ hình hợp

tác xã kiểu mới, thời gian vừa qua vấn đề HTX nói chung đã trở thành chủ đề
được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi
khác nhau. Tiêu biểu là những cơng trình đã được công bố như:
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ: “Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2003.
Các tác giả đã tập trung phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế
hợp tác, hợp tác xã; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mơ hình kinh tế
hợp tác, hợp tác xã phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế nông nghiệp nông


4

thơn nước ta. Từ đó đề xuất những giải pháp phát triển các mơ hình kinh tế
hợp tác, hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam hiện nay.
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã: “Đổi mới tổ chức và quản lý
các hợp tác xã trong nông nghiệp, nơng thơn”, Nxb Nơng nghiệp, Hà nội,
1999. Trong cơng trình này, các tác giả đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn
để phát triển kinh tế hợp tác trong nơng nghiệp, nơng thơn Việt Nam; khái
qt q trình phát triển các hình thức tổ chức và quản lí HTX giai đoạn trước
năm 1986 và từ 1986 đến nay. Từ thực trạng phát triển mơ hình tổ chức quản
lý các HTX ở nông thôn của một số địa phương miền Bắc tiêu biểu, các tác
giả cũng đã đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể để xây dựng mơ
hình tổ chức và quản lý có hiệu quả các HTX.
- Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng: “Kinh tế hợp
tác, hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông
nghiệp, Hà nội, 2001. Các tác giả đã hệ thống hoá quá trình hình thành, phát
triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và ở Việt Nam với
những thành cơng và tồn tại, từ đó xây dựng những định hướng phát triển phù
hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong TKQĐ.
- GS, TS Hồ Văn Vĩnh: “Phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong thời

kì cơng nghiệp hố, hiện đại hố ở nước ta”, Tạp chí Cộng sản, số 8-2005. Ở
bài viết này, tác giả đã bàn đến những cách thức chuyển đổi HTXNN kiểu cũ
sang HTXNN kiểu mới trên cơ sở quán triệt đường lối đổi mới HTXNN của
Đảng. Tác giả cũng đã nêu lên mối quan hệ tác động qua lại giữa HTXNN và
CNH, HĐH, đồng thời nêu ra những nguyên nhân của sự khó khăn khi phát
triển HTXNN trong thời kì mới và những giải pháp để tháo gỡ khó khăn này.
- PGS, TS Vũ Văn Phúc “Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta”, Tạp
chí Lí luận chính trị, số 1-2002.
- PGS Hồng Việt: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản, số 19- 2002.


5

- TS Phạm Quang Phan và TS Nguyễn Văn Linh: “Bàn về vai trò kinh
tế hợp tác trong nền kinh tế quá độ ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát
triển, số 36-2002”.
Cùng một số luận văn, luận án bàn về kinh tế tập thể nói chung, HTX
nói riêng.
Nhìn chung, các cơng trình trên đã nghiên cứu, đề cập đến nhiều khía
cạnh của HTX, song chưa có đề tài, cơng trình nào nghiên cứu cụ thể về HTX
kiểu mới trong q trình CNH, HĐH nơng nghiệp, nơng thơn ở Nghệ An một
cách cơ bản, tồn diện và có hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
 Mục đích
Khảo sát, đánh giá hoạt động của HTX kiểu mới ở Nghệ An từ khi Luật
HTX năm 1996 có hiệu lực đến nay, gắn với việc thực hiện nghị quyết số 5
NQ/TW “về đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thơn thời kỳ 20012010” của BCH TW khố IX. Từ đó luận văn đề xuất một số phương hướng,
giải pháp tiếp tục hoàn thiện HTX kiểu mới ở Nghệ An trong thời gian tới.
 Nhiệm vụ

- Hệ thống hoá các vấn đề lí luận cơ bản về HTX kiểu mới
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của HTX kiểu mới ở Nghệ An
- Đề xuất phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển, hoàn thiện HTX
kiểu mới ở Nghệ An trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát tình hình phát triển HTX ở
Nghệ An trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, chủ yếu là các
HTXNN kể từ khi luật HTX năm 1996 có hiệu lực thi hành đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
 Cơ sở lý luận


6

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh
nghiệm của Đảng và những chính sách, pháp luật của Nhà nước.
 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện những nhiệm vụ đã đề ra, tác giả vận dụng những phương
pháp chung của kinh tế chính trị như: phương pháp duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác Lênin, phương pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp kết
hợp lơgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn, đồng thời tiến hành khảo
sát thực tế để từ đó phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn đã hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về HTX kiểu mới,
trên cơ sở đó khảo sát, đánh giá thực trạng phát triển HTX ở Nghệ An, xác
định nguyên nhân của những tồn tại yếu kém, từ đó đề xuất các giải pháp phát
triển, hồn thiện HTX kiểu mới ở địa phương
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn vận dụng lý luận về HTX và khảo sát HTX kiểu mới trong q
trình CNH, HĐH nơng nghiệp nơng thơn ở Nghệ An để phục vụ cho việc nghiên

cứu cũng như cơng tác giảng dạy của bản thân
- Luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa học cho các cơ quan,
ban ngành của tỉnh có thể tham khảo để lãnh đạo thực hiện có hiệu quả HTX
kiểu mới ở Nghệ An trong thời gian tới
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.


7


8

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN HỢP TÁC
XÃ KIỂU MỚI

1.1.1. Lý luận về HTX và vai trò kinh tế hợp tác xã theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
* Khái niệm hợp tác xã:
Hợp tác, với tư cách là đặc tính xã hội của lao động, được thực hiện từ
khi loài người xuất hiện và ngày càng phát triển như là hình thức tất yếu trong
lao động sản xuất và hành động kinh tế của con người. Nhận định về quá trình
sản xuất của con người, Các Mác đã từng chỉ rõ: “Người ta không thể sản
xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động
chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải
có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với

giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ và những mối
liên hệ và quan hệ xã hội đó” [24, tr. 552]. Có thể nói, hợp tác là một phạm
trù rộng, q trình thực hiện nó biểu hiện ra ở nhiều hình thức và cấp độ khác
nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ đơn ngành đến đa ngành. Mỗi loại hình
kinh tế hợp tác phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
và hình thức phân cơng lao động tương ứng, trong đó kinh tế hợp tác phát
triển và được tổ chức ở trình độ cao chính là các hợp tác xã.
Hợp tác xã xuất hiện trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
(giữa thế kỉ XIX), bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, để có thể tồn tại và
phát triển, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau
chống lại sự chèn ép, khống chế và bần cùng hoá của tư bản lớn. Từ đây đã
tạo cơ sở cho sự liên kết, hợp tác giữa những người lao động tự nguyện, dân


9

chủ, bình đẳng. Trên thực tế, ở mỗi nước có những điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau nên sự ra đời và phát triển của các hợp tác xã có những đặc điểm
khác nhau nhưng nói chung, hợp tác xã là động lực kinh tế - xã hội quan
trọng, có nhiều đóng góp vào phúc lợi của dân chúng ở nhiều quốc gia.
Được thành lập từ tháng 8/1895 tại Luân Đôn (Anh), liên minh Hợp tác
xã quốc tế (International Cooperative Alliance - ICA) đã định nghĩa hợp tác
xã như sau: “Hợp tác xã là một hình thức tự trị của những người tự nguyện
liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế,
xã hội và văn hố thơng qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”
[6, tr.18]. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: HTX là sự liên kết của
những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự nguyện
liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng quyền lợi và nghĩa vụ, sử dụng tài sản
mà họ đã chuyển giao vào HTX phù hợp với các nhu cầu chung và giải quyết
những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm và bằng cách

sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác phục vụ cho lợi ích
vật chất và tinh thần chung.
Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp tác xã song các loại
hình HTX trên thế giới đều có những đặc điểm chung như: là tổ chức kinh tế
do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức hình thành; hoạt động chủ
yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia
với phương châm giúp đỡ lẫn nhau; nguyên tắc cơ bản của HTX là tự nguyện,
bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ …
Ở nước ta, khi bắt đầu công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta thường
dùng các khái niệm: tổ đổi cơng, tập đồn sản xuất, HTX bậc thấp, bậc cao...
Vào thời kỳ này, kinh tế HTX phát triển mạnh và đã có nhiều đóng góp quan
trọng trong xây dựng nông thôn và phát triển cộng đồng. Sau khốn 10, các
HTX và tập đồn sản xuất bắt đầu tan rã, trên diễn đàn khoa học và đời sống


10

hàng ngày, khái niệm "hợp tác xã" ít được đề cập đến. Nhiều nhận thức không
đúng về kinh tế hợp tác cùng với những lúng túng trong việc tìm tịi, thử
nghiệm mơ hình HTX kiểu mới đã đặt ra u cầu phải đổi mới cả về nội dung
và phương thức hoạt động của HTX cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới khi
đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
Trước yêu cầu đó của thực tiễn, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới. Tháng
3/1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá IX đã ban hành Luật HTX để tạo cơ
sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà vước
theo định hướng XHCN.
Theo Luật này, HTX được định nghĩa:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có

nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã
viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước [22, tr.6]
Sự ra đời của Luật HTX đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong
tiến trình đổi mới HTX, mở ra một môi trường thể chế thuận lợi để HTX tiếp
tục phát triển.
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi, thành lập HTX theo Luật HTX
(năm 1996), hội nghị Trung ương 5 khoá IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về
"tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" để lãnh đạo
sự phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của
Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26-11-2003, tại kỳ họp
thứ 4, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật HTX sửa đổi, bổ sung (Luật HTX
năm 2003). Theo đó, HTX được định nghĩa:


11

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy
sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách
pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong
phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã
theo quy định của pháp luật [23, tr.6]
Các HTX hoạt động theo Luật HTX năm 1996 và Luật HTX sửa đổi
năm 2003 được gọi chung là HTX kiểu mới (để phân biệt với mơ hình HTX

trước đổi mới), tuỳ từng ngành nghề, lĩnh vực kinh tế mà hình thành các mơ
hình có tính đặc trưng, đặc thù riêng biệt.
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX
Trong di sản lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, chế độ HTX có vai trị,
ý nghĩa đặc biệt. Mặc dù so với các vấn đề khác mà các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác đã đề cập, các ơng khơng có điều kiện đi sâu nghiên cứu vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nơng dân, nhưng khi bàn về q trình đưa nông
nghiệp, nông dân lên CNXH, các ông đều nhấn mạnh vai trị quan trọng của
kinh tế hợp tác, coi đó là hình thức thích hợp để nhân lên sức mạnh tiềm ẩn
trong người nông dân và là con đường để đưa nông dân đi đến ấm no, hạnh
phúc - mục tiêu của CNXH.
Xuất phát từ những tiền đề kinh tế nảy sinh từ trong lòng xã hội tư bản,
Các Mác và Ăngghen thấy rằng để có thể đứng vững được, những người sản
xuất nhỏ cần phải hợp sức, hợp vốn với nhau dưới hình thức tổ chức HTX.
Mục tiêu của các HTX khơng phải vì lợi nhuận mà là vì sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn
nhau để có thể cạnh tranh với tư bản lớn. Các HTX đã chứng tỏ sức sống của


12

mình trong nền kinh tế tự do cạnh tranh. Cuộc khủng hoảng kinh tế vào cuối
thế kỷ XIX gây nên tình trạng hạ giá nơng sản ở khắp nơi, tuy nhiên, các
HTX không những không bị tan rã mà lại còn phát triển mạnh ở các nước phụ
thuộc vào sự trao đổi quốc tế.
Ăngghen cho rằng: "Trong bước quá độ lên nền kinh tế cộng sản chủ
nghĩa đầy đủ, chúng ta sẽ phải áp dụng trên quy mô lớn nền sản xuất hợp tác
xã với tính cách là một khâu trung gian - điều đó Mác và tơi khơng bao giờ
hoài nghi cả" [25, tr.568-569]. Mác và Ăngghen thấy được tiềm năng XHCN
của phong trào HTX sẽ được phát huy dưới chính quyền của nhân dân, do giai
cấp cơng nhân lãnh đạo, dưới sự tác động của quan hệ sản xuất XHCN (chế

độ công hữu về ruộng đất và các tư liệu sản xuất cơ bản khác). Trong điều
kiện ấy, hợp tác sẽ là con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất
đối với nơng dân nói riêng và đối với những người sản xuất nhỏ nói chung.
Mặt khác, kinh tế hợp tác xã là dòng kinh tế mang tính chất nhân đạo, đối lập
với mặt phi nhân, phi văn hoá của thị trường tư bản. Mục tiêu của hợp tác xã
khơng phải vì lợi nhuận tối đa mà vì sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên tham gia hợp tác, những người quản lý điều hành HTX khơng phải
vì có nhiều vốn góp mà vì sự tín nhiệm của các thành viên, mọi người tham
gia hợp tác xã đều có quyền hạn ngang nhau, khơng phụ thuộc vào vốn góp
nhiều hay ít. Chính vì vậy, HTX là mơ hình mà Mác và Ăngghen khuyến
khích mở rộng dưới CNTB.
Kế tục tư tưởng của Các Mác và Ăngghen, bằng phương pháp biện
chứng Mácxít và hoạt động thực tiễn của mình, V.I.Lênin đã có nhiều đóng
góp quan trọng vào hệ thống lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã.
Trong tác phẩm "Bàn về chế độ hợp tác xã", Lênin đã nghiên cứu con
đường hợp tác hoá trong điều kiện ở một nước tư bản chủ nghĩa trung bình
như nước Nga để đưa nơng dân đi lên CNXH. Đây là tác phẩm chứa đựng
những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ HTX dưới CNXH. Lênin cho rằng, để
lôi cuốn nông dân tham gia vào công cuộc xây dựng CNXH, cần phải quan


13

tâm tới vấn đề hợp tác. HTX khơng chỉ có vai trò quan trọng trong liên minh
lao động, tổ chức sản xuất và tiêu thụ nơng sản mà cịn đảm bảo được quyền
lợi cho nông dân. Lênin đã triển khai chương trình phát triển hợp tác hố như
một phương thức cơ bản để tiến lên CNXH ở một nước có đông dân cư nông
nghiệp. Lênin viết:
"Chế độ ấy (tức chế độ hợp tác xã) có một ý nghĩa đặc biệt
trước hết là về phương diện nguyên tắc (nhà nước nắm quyền sở

hữu tư liệu sản xuất), sau nữa là về phương diện bước quá độ sang
một chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp
thu nhất đối với người nông dân" [19, tr.442].
Chế độ kinh tế hợp tác là bước quá độ để đưa kinh tế tiểu nông đi lên
CNXH. Khi xây dựng, phát triển được "chế độ của những xã viên HTX văn
minh" thì mới "là chế độ XHCN" [19, tr.425]. Ý nghĩa đặc biệt này của chế
độ HTX cũng đồng nhất với ý nghĩa và mục tiêu của CNXH. Lênin quan
niệm: " Khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức đơng nhất, thì CNXH tự
nó sẽ thực hiện" [19, tr.421] và " nếu khơng kể những tơ nhượng..., thì thường
thường trong hoàn cảnh nước ta, chế độ HTX là hoàn toàn đồng nhất với
CNXH" [19, tr.427]. Hoặc" nếu chúng ta tổ chức được tồn thể nơng dân vào
HTX thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất XHCN nhưng điều
kiện đó bao hàm trình độ văn hố nhất định của nông dân" [19, tr.428] và "khi
các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi giai cấp vô sản, với tư cách là giai
cấp, đã thắng giai cấp tư sản - thì chế độ đó của xã viên HTX văn minh là chế
độ XHCN" [19, tr.425].
Bàn về bản chất của mơ hình kinh tế hợp tác trong những chế độ xã hội
khác nhau. V.I.Lênin cho rằng: "Trong một nước tư bản chủ nghĩa, HTX là
những tổ chức tư bản tập thể", thì dưới chế độ XHCN, chế độ HTX là "chủ
nghĩa tư bản nhà nước, hoặc ít ra cũng cần phải viện đến một cái gần giống
như chủ nghĩa tư bản nhà nước"[19, tr.425]. Chế độ đó phải đa dạng về hình


14

thức, phong phú về nội dung hợp tác; trong quá trình xây dựng phải đi từ thấp
đến cao và phải căn cứ vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, khoa
học kỹ thuật và trình độ tổ chức, quản lý; căn cứ vào đặc điểm của nền kinh
tế, tâm lý của người nông dân. Đặc biệt, để phát triển vững chắc loại hình tổ
chức kinh tế này, vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước cần phải

xác định những cơ chế, chính sách, thể thức khuyến khích, giúp đỡ "có hiệu
quả các HTX và đào tạo những xã viên HTX văn minh". Với tư cách là "bà
đỡ", nhà nước "phải cho chế độ HTX hưởng một số những đặc quyền kinh tế,
tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà nhà nước XHCN của chúng ta mang lại
cho nguyên tắc tổ chức mới của dân cư phải là như vậy". Lênin còn đưa ra
nhiều luận điểm quan trọng về phương châm, nguyên tắc xây dựng HTX, về
vai trị trách nhiệm của chính quyền Xơviết đối với HTX...
Có thể thấy những vấn đề mà Các Mác, Ăngghen và Lênin đề cập về
HTX là những chỉ dẫn hết sức quý báu trong việc xây dựng đường lối, chiến
lược, chính sách đối với nơng nghiệp, nơng thơn, nơng dân; đối với việc xây
dựng kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên con đường đi lên CNXH. Tuy nhiên,
sự phác thảo của Các Mác và Ăngghen về con đường hợp tác hố nơng
nghiệp là trong điều kiện nghiên cứu ở các nước tư bản phát triển; V.I.Lênin
phát triển lý luận về HTX trong điều kiện một nước tư bản chủ nghĩa trung
bình. Điều đó cho thấy sự vận dụng những quan điểm trên rất cần phải tính
đến những đặc thù của mỗi nước, trong đó có Việt Nam.
Phát triển sáng tạo lý luận Mác- Lênin trong việc hình thành đường lối
phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã hiện thực hố
và hồn thiện lý luận đó ở một nước nơng nghiệp lạc hậu, tiến lên CNXH bỏ
qua chế độ TBCN. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, hợp tác hố nơng nghiệp, xây
dựng hợp tác xã là con đường đúng đắn và phù hợp để đưa nông dân tới cuộc
sống ấm no, hạnh phúc. Hồ Chí Minh đã đề cập đến hình thức kinh tế hợp tác
xã từ rất sớm và chủ trương một con đường hợp tác hố mang tính đặc thù của
Việt Nam trên cơ sở theo dõi, tổng kết, kế thừa kinh nghiệm hợp tác hoá ở Liên


15

Xô, Trung Quốc và nhiều nước XHCN. Người viết: “HTX là hợp vốn, hợp sức
với nhau. Vốn nhiều, sức mạnh thì khó nhọc ít mà lợi nhiều” [26, tr.215]. Theo

quan điểm của Người, HTX là một hình thức tổ chức kinh tế “hợp vốn, hợp
sức” với nhau để cùng hoạt động. Sự hợp vốn ở đây không chỉ đơn thuần là
một phép tính cộng, mà sự hợp tác đó nhằm có vốn nhiều, thêm sức mạnh,
giảm bớt khó khăn đưa lại lợi ích nhiều hơn. Đây là mơ hình được tổ chức
trên cơ sở hợp lực để có lợi cho mọi người.
Năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã đề
cập tương đối tồn diện các hình thức tổ chức HTX. Lý luận về hợp tác xã, về
kinh tế hợp tác được Hồ Chủ tịch tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong điều kiện
Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Đến cuối những năm 50, đầu những năm
60 của thế kỷ 20, quan niệm về hợp tác xã nằm trong tổng thể đường lối cải
tạo XHCN, xây dựng CNXH ở miền Bắc, là một bộ phận cấu thành cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế cũng như tư tưởng về CNXH và con
đường đi lên CNXH ở nước ta.
Khi bàn đến vai trò của hợp tác xã, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 3
luận điểm quan trọng:
Một là, HTX cải thiện đời sống cho xã viên, làm cho họ được ấm no,
hạnh phúc, giàu mạnh và được học hành. Người nhấn mạnh, HTX có làm
được điều đó thì dân mới tin vào HTX, cịn HTX mà khơng thấy ích lợi gì thì
người ta cũng chẳng muốn vào. Người nói: “Việt Nam là một nước sống về
nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, chính phủ trơng mong vào nơng dân, trơng cậy vào nơng
nghiệp một phần lớn. Nơng dân ta giàu thì nước ta giàu, nơng nghiệp muốn
thịnh thì cần có HTX” [27, tr.77]. Từ nhận định đó, một trong những giải
pháp mà Hồ Chủ tịch đưa ra nhằm đưa nông nghiệp thốt khỏi tình trạng lạc
hậu, nơng dân thốt khỏi đói nghèo là phải xây dựng tốt phong trào tổ đổi
công, trên cơ sở đó sẽ xây dựng HTXNN từ thấp đến cao. Người nhấn mạnh:


16


Chúng ta nhất định phải nâng cao dần đời sống của đồng bào
nông dân. Nhưng nếu nông dân cứ làm ăn riêng lẻ thì đời sống
khơng thể nâng cao. Muốn nâng cao đời sống thì chỉ có một cách là
tổ chức nông dân làm ăn tập thể, tức là tổ chức nơng dân vào
HTXNN. Tổ chức HTX tốt thì mới có thể tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, do đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và văn hoá
của người dân và củng cố khối liên minh công nông [28, tr.61].
Hai là, HTX phải chủ lực trong việc giải quyết những công việc lớn
như: chống hạn, lũ lụt, thuỷ lợi…Bởi những khâu này cần đến sức lực của
nhiều người, phải nhiều người cùng chung sức, chung lòng mới làm được và
có như vậy mới đem đến lợi ích cho dân, cho xã hội. Mặt khác, HTX phải xây
dựng kế hoạch về sản xuất, về lao động, về kỹ thuật, về tài vụ. Có như vậy
mới đảm bảo cho hoạt động của HTX chủ động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, khơng phải là hoạt động tự phát đến đâu hay đến đó.
Ba là, các HTX phải giúp đỡ và học hỏi lẫn nhau, trao đổi sáng kiến
kinh nghiệm cho nhau. Như vậy HTX khơng phải chỉ đóng cửa trong nội bộ
mà để tạo nền tảng cho nền kinh tế và HTX phát triển kinh nghiệm trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh, là sự chia sẻ thông tin cho nhau về các mặt tổ chức
quản lý, khoa học kỹ thuật và cả sự hỗ trợ khi gặp rủi ro trong kinh doanh. Có
như vậy HTX mới có thể vững mạnh được. Hồ Chí Minh cũng khẳng định,
muốn tổ chức HTX thành công, hoạt động có hiệu quả thì khơng chỉ nhận
thức đúng về lý luận mà trong chỉ đạo thực hiện cần phải có phương châm,
phương pháp và nguyên tắc phù hợp. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về HTX,
Người cũng đã khái quát và xây dựng thành hệ thống các nguyên tắc bảo đảm
cho q trình hợp tác hố diễn ra phù hợp với các quy luật khách quan và điều
kiện Việt Nam, trong đó nổi bật là ngun tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có
lợi và quản lý dân chủ. Những chỉ dẫn đó của chủ tịch Hồ Chí Minh về kinh
tế hợp tác và HTX đã định hướng cho việc hoạch định đường lối, chính sách



17

của Đảng và Nhà nước về vấn đề này trong nhiều thời kỳ lịch sử của cách
mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác- Lênin, hệ thống tư tưởng về HTX
của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
1.1.2. Quá trình phát triển nhận thức để đi đến hợp tác xã kiểu mới
ở nước ta
Có thể nói, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc
chỉ đạo xây dựng các HTXNN theo mơ hình hợp tác hóa - tập thể hoá được đề
cập sớm, ngay từ những năm 50, đầu những năm 60, trong thời kỳ đẩy mạnh
cải tạo XHCN ở miền Bắc. Trên cơ sở thực hiện các chỉ thị, hướng dẫn về
phát triển HTX của Đảng, đến cuối những năm 60, nông nghiệp miền Bắc
nước ta đã thu được nhiều thắng lợi, phong trào HTX đã góp phần quan trọng
vào việc khơi phục nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời
sống nông dân, cung cấp nhiều nông sản cho xã hội …
Tuy nhiên, do nóng vội, chủ quan, lấy mục tiêu cải tạo XHCN là then
chốt, chạy theo số lượng, mở rộng quy mơ HTX q nhanh, khơng tính tốn
đầy đủ đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nông thôn cũng như
bộ máy quản lý HTX cồng kềnh, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ hạn
chế, yếu kém, tình trạng mất dân chủ diễn ra phổ biến, năng suất lao động
ngày càng sút kém…cho nên đến những năm 70, 80 hệ thống HTX với mơ
hình tổ chức kiểu cũ đã tan rã từng mảng lớn, góp phần làm cho nơng nghiệp
lâm vào khủng hoảng. Thực tế đó đặt ra u cầu cấp thiết phải tìm ra mơ hình
kinh tế hợp tác phù hợp để thay thế.
Bước vào thời kỳ đổi mới, để thực hiện nhiệm vụ cấp bách là đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, Đảng ta đã xác định vai trò quan trọng của
nơng nghiệp và kinh tế nơng thơn, từ đó có sự đổi mới mạnh mẽ trong cơ chế
quản lý kinh tế nơng nghiệp. Cùng với q trình đổi mới, HTX đã có nhiều
thay đổi dựa trên nền tảng nhận thức mới, tư duy mới và từng bước được
hoàn thiện qua các kỳ đại hội. Nhìn chung những chủ trương, chính sách của



18

Đảng và Nhà nước đều thể hiện sự nhất quán đối với sự tồn tại lâu dài của nền
kinh tế hàng hố nhiều thành phần trong q trình xây dựng CNXH ở nước ta,
trong đó có kinh tế tập thể và HTX.
Trải qua gần nửa thế kỉ tiến hành hợp tác hố nơng nghiệp, chúng ta đã
tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong xây dựng mơ hình HTX và kinh tế hợp
tác. Chính từ thực trạng khủng hoảng của mơ hình HTX kiểu cũ đã dần hình
thành những mơ hình HTX kiểu mới xuất phát từ sự đổi mới nhận thức và
mong muốn của các hộ nông dân. Trong cơ chế kinh tế mới, các HTX kiểu cũ
càng bộc lộ sự yếu kém, lúng túng trong sản xuất kinh doanh, sự tồn tại của
nó chỉ cịn là hình thức. Vấn đề đặt ra là kinh tế hợp tác và HTX thoát khỏi
khủng khoảng như thế nào, mối quan hệ của nó với kinh tế hộ và các thành
phần kinh tế khác ra sao trong điều kiện kinh tế hộ bên cạnh những thế mạnh
vẫn cịn nhiều hạn chế khơng thể vượt qua. Thực tiễn cho thấy, kinh tế hộ
càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng trở nên bức thiết hơn. Chính vì vậy
trong nghị quyết TW4 khố VIII, Đảng ta xác định: Hợp tác hóa là yêu cầu
cấp bách đối với người nông dân, để phục vụ cho sản xuất của các hộ tốt hơn,
để bảo vệ lợi ích của nông dân, để nông dân không bị thua thiệt. Quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quan hệ sản xuất
trong nơng nghiệp, nơng thơn, tăng cường khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện
phát triển kinh tế hợp tác và HTX trên cơ sở liên kết, hợp tác tự nguyện ở các
hộ, các trang trại bằng nhiều hình thức, bước đi, quy mơ thích hợp để nâng
cao hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong các chính sách và giải pháp đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước, đại hội X của Đảng nêu rõ:
Tiếp tục nghiên cứu xây dựng mơ hình HTX kiểu mới trên cơ sở
tổng kết các đơn vị làm tốt để tăng sức hấp dẫn, tạo động lực cho kinh tế
tập thể nhất là đối với nông nghiệp, thủ cơng nghiệp. Đa dạng hố hình



19

thức sở hữu trong kinh tế tập thể,… phát triển các loại hình doanh
nghiệp trong HTX và các hình thức liên hiệp HTX [13, tr.236].
Cũng tại đây, văn kiện Đại hội X khẳng định: Kinh tế nhà nước cùng
với kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. HTX ở nước ta đã được xác định vừa là tổ
chức kinh tế, vừa là tổ chức xã hội, là nhân tố quan trọng để người lao động,
hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông.
Trên cơ sở nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng, hình thành mơ
hình kiểu mới, nhiều chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống chính sách,
pháp luật của Nhà nước về HTX đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để
tiến hành chuyển đổi, đổi mới và tổ chức hoạt động trong các HTX, bao gồm:
Hiến pháp năm 1992, luật HTX năm 1996, luật sửa đổi, bổ sung một số điều
luật HTX năm 2003 và nhiều chính sách cụ thể khác nhằm tạo điều kiện thuận
lợi, hỗ trợ HTX phát triển, nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả, sức cạnh
tranh để có thể tham gia bình đẳng trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều
thành phần kinh tế. So với mơ hình HTX kiểu cũ, HTX kiểu mới có nhiều
thay đổi quan trọng về vai trị, vị trí, con người trong các quan hệ kinh tế- xã
hội ở nông thôn. HTX được xác định:
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự
nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy
sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau
thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước [23, tr.6]

Sự phát triển nhận thức và tổ chức hoạt động đối với các HTX được cụ
thể hố một cách sâu sắc ở sự hình thành các HTX kiểu mới theo những hình


20

thức khác nhau. Luật HTX được ban hành và có hiệu lực năm 1997, đặc biệt
là sau khi có nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng và nghị quyết số 13
ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 (khoá IX) về “tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, khu vực HTX đã dần khơi
phục tình trạng khủng hoảng, có những thay đổi quan trọng và có bước phát
triển mới. Hiện nay, cả nước có hơn 17.900 HTX, 39 liên hiệp HTX, tăng hơn
so với đầu năm 2001 (14.841 HTX) là 17,8%. Các HTX đã thu hút trên 12
triệu xã viên, hộ xã viên là người lao động, các hộ kinh tế gia đình, kinh tế cá
thể, các doanh nghiệp nhỏ. Khu vực lớn và quan trọng nhất là HTX nông
nghiệp với 8.535 HTX và trên 100.000 tổ hợp tác trong nông, lâm, diêm
nghiệp, thu hút khoảng 8,3 – 8,5 triệu xã viên, hộ xã viên tham gia. Bên cạnh
đó, sự phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn cũng ghi nhận đóng góp của
nhiều mơ hình HTX trong các lĩnh vực truyền thống như HTX tiểu thủ công
nghiệp, HTX tín dụng…và các HTX trong các ngành nghề mới xuất hiện như
HTX vệ sinh- môi trường, HTX nước sạch, HTX điện …
Hoạt động của HTX hiện nay chủ yếu là phục vụ các nhu cầu kinh tế
của xã viên, hộ xã viên và phát triển cộng đồng mà chưa tính đến kinh tế của
hộ xã viên, riêng khu vực này đã đóng góp 6,83% GDP. Thơng qua các hoạt
động kinh tế, xã hội của mình, các HTX đã và đang khẳng định vai trị quan
trọng khơng chỉ đối với sản xuất, kinh doanh và đời sống của hàng chục triệu
người dân mà cịn là nhân tố khơng thể thay thế góp phần thúc đẩy dân chủ
hố, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở.
1.2. PHÁT TRIỂN HTX KIỂU MỚI LÀ YÊU CẦU CẤP THIẾT TRONG Q
TRÌNH CƠNG NGHIỆP HỐ, HIỆN ĐẠI HỐ NƠNG NGHIỆP, NƠNG THƠN


1.2.1 Đặc trưng và ưu thế của mơ hình hợp tác xã kiểu mới
Từ những nội dung được quy định trong luật HTX năm 2003 và các
quan điểm có tính nguyên tắc trong xây dựng kinh tế tập thể đã nêu trong nghị
quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khoá IX về


21

“tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”, có thể nêu lên
những đặc trưng cơ bản và ưu thế của mơ hình HTX kiểu mới như sau:
Thứ nhất, về thành viên tham gia HTX
Khác với HTX kiểu cũ, thành viên HTX chỉ gồm các cá nhân, HTX
kiểu mới là một tổ chức kinh tế do các thành viên bao gồm cả cá nhân, hộ gia
đình và pháp nhân (người lao động, cán bộ, công chức, các hộ sản xuất kinh
doanh, trang trại, doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc các thành phần kinh tế…), cả
người có ít vốn lẫn người có nhiều vốn có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn
hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình
theo quy định của pháp luật về HTX. HTX khơng thủ tiêu tính tự chủ sản xuất,
kinh doanh của các thành viên mà chỉ làm những gì mỗi thành viên riêng lẻ
khơng làm được hoặc làm khơng có hiệu quả để hỗ trợ cho các thành viên phát
triển. Thành viên tham gia HTX vẫn là những “đơn vị kinh tế tự chủ”.
Thứ hai, HTX tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc tự nguyện:
Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của
luật HTX, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX. Xã viên có
quyền ra khỏi HTX theo quy định của điều lệ HTX. Nguyện vọng của họ
được tôn trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng,
đảm bảo động viên được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia.
- Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và cơng khai:

Xã viên có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát HTX. Những
vấn đề lớn trong sản xuất, kinh doanh của HTX đều phải được đại hội xã viên
thảo luận dân chủ và thông qua. Các xã viên đều có quyền ngang nhau trong
biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như
nhau, khơng phụ thuộc vào mức độ vốn góp. Đồng thời, HTX phải thực hiện
tốt việc công khai cho xã viên biết theo định kỳ về phương thức, kế hoạch sản
xuất kinh doanh, cơng khai tài chính, phân phối thu nhập của HTX. Đây là


22

nguyên tắc đặc biệt quan trọng, có tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phương
hướng phát triển lành mạnh của HTX
- Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi:
HTX là tổ chức kinh tế hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế làm
chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng
lợi ích xã hội của các thành viên. Trong thành lập và hoạt động, HTX có
quyền được lựa chọn ngành nghề sản xuất- kinh doanh phù hợp mà pháp luật
khơng cấm, theo ý chí và nguyện vọng của xã viên; hoàn toàn tự chủ trong
hoạt động sản xuất- kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị
trường; liên doanh, liên kết với các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong phân phối lợi ích và giải quyết những vấn đề có liên quan đến nghĩa vụ
và quyền lợi, phải tuân thủ ngun tắc cùng có lợi, hài hồ giữa xã viên với xã
viên, giữa xã viên với HTX, HTX với lợi ích cộng đồng. Nguyên tắc này đã
xác định rõ điều kiện tồn tại và phát triển của HTX chính là ở vai trò, trách
nhiệm làm chủ của các xã viên đối với HTX; chủ động phát huy các nguồn
lực, nhất là nguồn lực sẵn có của xã viên; HTX năng động tìm kiếm cơ hội
kinh doanh và cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
- Hợp tác và phát triển cộng đồng:
Là nguyên tắc và tiêu chí mang tính đặc trưng của HTX kiểu mới, gắn

kết lợi ích kinh tế của các thành viên hợp tác xã với lợi ích xã hội và phát
triển cộng đồng. HTX là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của
các thành viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt
qua khó khăn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các
thành viên tham gia. Trên cơ sở đó khơng ngừng nâng cao vai trị, tính chất xã
hội của HTX để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực thực hiện chủ
trương giải quyết công ăn việc làm, xố đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ
tầng xã hội, tăng cường tình làng nghĩa xóm, đồn kết cộng đồng. Đó là nhân
tố quan trọng để HTX phát triển bền vững


23

Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX
- Về quan hệ sở hữu:
Trong mô hình HTX kiểu cũ, sở hữu cá nhân khơng được thừa nhận, sở
hữu của các hộ gia đình bị xố bỏ, chỉ thừa nhận chế độ sở hữu tập thể về tư
liệu sản xuất. Người lao động vào HTX phải đóng góp ruộng đất, trâu bị,
cơng cụ sản xuất chủ yếu. Trong HTX kiểu mới, sở hữu tập thể và sở hữu cá
nhân của thành viên được phân định rõ. Sở hữu tập thể (sở hữu của hợp tác
xã) bao gồm các nguồn vốn tích luỹ tái đầu tư, các tài sản do tập thể mua sắm
để dùng cho hoạt động của HTX, tài sản trước đây được giao lại cho tập thể
sử dụng và tài sản do nhà nước hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
tài trợ làm tài sản không chia và các quỹ không chia. Thành viên khi tham gia
HTX khơng phải góp tư liệu sản xuất mà điều kiện tiên quyết là phải góp vốn
theo quy định của điều lệ HTX, có thể góp sức khi HTX có nhu cầu; suất vốn
góp khơng hạn chế, song được khống chế một tỷ lệ nhất định so với tổng số
vốn góp của các thành viên (vốn điều lệ của HTX) nhằm bảo đảm tính chất
của HTX (theo Luật HTX năm 2003 thì khơng q 30%). Vốn góp của thành
viên được chia lãi hàng năm và được rút khi thành viên ra HTX. Thành viên

có thể góp vốn bằng ngoại tệ, tài sản, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ
và các loại giấy tờ có giá khác, được quy ra tiền Việt Nam theo giá thị trường
tại thời điểm góp và giá trị đó được ghi thành vốn góp của thành viên, cịn bản
thân hiện vật thuộc sở hữu tập thể HTX. Sở hữu thuộc cá nhân thành viên được tôn trọng; thành viên có tồn quyền sử dụng vốn, các phương tiện sản xuất
thuộc sở hữu riêng để sản xuất, kinh doanh. Những thành viên của HTX vẫn
là những chủ thể độc lập, có kinh tế riêng. Vị trí, vai trị cũng như quyền tự
chủ của kinh tế thành viên không bị mất đi mà ngược lại được hỗ trợ thêm từ
phía HTX để phát triển.
- Về quan hệ quản lý trong hợp tác xã:


24

Trong các HTX kiểu cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ
thuộc. Xã viên bị tách khỏi tư liệu sản xuất trở thành người lao động làm cơng
theo sự điều hành tập trung của HTX, tính chất hợp tác đích thực trong HTX
khơng cịn. Trong các HTX kiểu mới, quan hệ giữa HTX và thành viên là
quan hệ bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro
trong sản xuất, kinh doanh. Đặc trưng chung của HTX kiểu mới là hoạt động
sản xuất, kinh doanh của HTX khơng bao trùm tồn bộ hoạt động sản xuất,
kinh doanh của thành viên như HTX kiểu cũ, mà chỉ diễn ra ở từng khâu công
việc, từng công đoạn, nhằm hỗ trợ phát huy thế mạnh của từng thành viên và
do đó cũng tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của thành viên. Thành viên
tham gia quyết định những công việc quan trọng của HTX như sửa đổi điều lệ
HTX, tổ chức lại HTX, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý HTX, xác định phương án sản xuất, kinh doanh, phương án phân phối thu nhập trong HTX...
Nguyên tắc bầu cử và biểu quyết được thực hiện bình đẳng, mỗi thành viên
một phiếu bầu, khơng phân biệt vốn góp ít hay nhiều. Bộ máy quản lý HTX tổ
chức gọn, nhẹ, hiệu quả. Chức năng, nhiệm vụ của ban quản trị, ban kiểm
soát, trưởng ban quản trị, chủ nhiệm được xác định rõ ràng, cụ thể. Chủ nhiệm
được giao quyền chủ động điều hành công việc và tự chịu trách nhiệm về

những quyết định của mình.
- Về quan hệ phân phối
Trong các HTX kiểu cũ, chế độ phân phối mang nặng tính bình qn,
bao cấp, chủ yếu phân phối theo công lao động, việc phân phối theo vốn góp
gần như khơng được thực hiện (vì việc góp vốn chỉ mang tính hình thức). Vì
vậy, khơng khuyến khích người lao động hăng hái, tích cực làm việc, xã viên
thiếu gắn bó với HTX, dành cơng sức làm kinh tế gia đình. Trong các HTX
kiểu mới, hình thức phân phối được thực hiện trên nguyên tắc công bằng,
cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia
dịch vụ. Người lao động là xã viên, ngồi tiền cơng được nhận theo số lượng
và chất lượng lao động, còn được nhận lãi chia theo vốn góp và theo mức độ


25

sử dụng dịch vụ của HTX; lợi nhuận và vốn góp càng lớn, mức độ sử dụng
dịch vụ càng nhiều thì thu nhập càng cao. Đây là động lực khuyến khích
người lao động hăng say làm việc, gắn bó với HTX. Trong q trình phân
phối, các HTX cịn tạo ra được các quỹ không chia, một mặt để mở rộng sản
xuất, kinh doanh, mặt khác tạo nên phúc lợi công cộng cho mọi thành viên
trong HTX được hưởng chung, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích tập thể, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài.
Thứ tư, về cơ chế quản lý đối với HTX
Các HTX kiểu mới đã được giải phóng khỏi sự ràng buộc cứng nhắc
của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp. Khác với trước đây, HTX ngày
nay đã thực sự là một tổ chức kinh tế độc lập, tự chủ, có đầy đủ tư cách pháp
nhân trong cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật như các doanh
nghiệp, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế khác cũng
như phân chia lỗ lãi, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách

nhiệm đối với thành viên. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của HTX, khơng cịn can
thiệp trực tiếp vào các hoạt động của HTX. Vai trò của Nhà nước trong việc
quản lý đối với HTX được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính
sách khuyến khích phát triển HTX. Các nghĩa vụ đóng góp vật chất quá nặng
trước kia của HTX đối với chính quyền và cộng đồng, nhất là đối với các
HTX ở nông thôn đã từng bước được xoá bỏ, HTX tập trung vào phục vụ và
thực hiện các nghĩa vụ đối với các thành viên của chính mình là chủ yếu
Thứ năm, về mơ hình HTX
Tổ chức và hoạt động của HTX không bị giới hạn về quy mô, lĩnh vực và
địa bàn (trừ một số lĩnh vực có quy định riêng) với mơ hình linh hoạt, đa dạng về
hình thức, phù hợp với đặc điểm từng ngành, từng vùng với nhiều trình độ phát
triển từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho hoạt động sản
xuất, kinh doanh đến mở mang ngành nghề, vươn lên kinh doanh tổng hợp và


×