Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Thực chất quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về con người và vấn đề xây dựng con người trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.67 KB, 34 trang )

Lời mở đầu
Xây dựng và phát triển con ngời là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại. Làn
sóng văn minh thứ ba đang đa loài ngời tới một kỷ nguyên mới, mở ra bao khả
năng để loài ngời tìm ra những con đờng tối u đi tới tơng lai. Trong bối cảnh đó,
sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các t tởng tự do tìm kiếm
con đờng khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con ngời Việt Nam dễ đi đến
phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong thực tế, không ít ngời rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó
trong chủ nghĩa t bản. Nhiều ngời trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con
ngời trong các tôn giáo và hệ t tởng truyền thống. Có ngời lại sáng tạo ra
những t tởng, tôn giáo cho phù hợp hơn với con ngời Việt Nam hiện nay.
Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của
chủ nghĩa Mác-Lênin trong xã hội ta có lẽ không ai phủ nhận đợc vai trò u
trội và triển vọng của nó trong sự phát triển con ngời.
Trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin về con
ngời, tại hội nghị lần thứ t của Ban chấp hành Trung ơng khoá VII, Đảng ta đã
đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con ngời Việt Nam toàn diện
cách là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội. Đó là con ngời phát triển cao về trí tuệ, cờng tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Xây dựng và phát triển con ngời Việt Nam toàn diện- đó cũng chính là
động lực, là mục tiêu nhân đạo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà
chúng ta đang từng bớc tiến hành. Bởi lẽ, lực lợng lao động nớc ta ngày càng
đóng vai trò quan trọng và quyết định trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và
trong sự phát triển nền kinh tế của đất nớc theo cơ chế thị trờng có sự quản lý
của nhà nớc định hớng xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng đinh: Nâng cao dân trí, bồi dỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con ngời Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi cuả
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng không có
ngời lao động chất lợng cao. Chúng ta không thể phát triển kinh tế, đa nớc ta
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Nhng cũng chính vì nghèo nàn, lạc hậu về kinh


tế mà chất lợng của ngời lao động nớc ta cha cao. Để thoát khỏi cái vòng luẩn
quẩn này và tạo đà cho bớc phát triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nớc thì một nớc đang còn ở tình trạng kém phát triển nh nớc ta
không thể không xây dựng một chính sách phát triển lâu bền, có tầm nhìn xa
trông rộng, phát triển con ngời, nâng cao dần chất lợng của ngời lao động
Nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề con ngời và đặc biệt là vấn đề
xây dựng con ngời trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc ngời
viết lựa chọn đề tài: Thực chất quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về
con ngời và vấn đề xây dựng con ngời trong quá trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nớc làm đề án cho môn học. Trong quá trình làm bài tập đề
án, ngời viết xin chân thành cảm ơn TS.Lê Ngọc Thông và các bạn đồng môn
lớp cao học 17A đã có những ý kiến đóng góp quý báu để hoàn thành bài viết.
Chơng I
Lý luận của chủ nghĩa Mác LÊNIN về con ng ời
1.1. Các quan điểm triết học trớc Mác Lênin về con ng ời
Các nhà triết học khi đề cập đến vấn đề con ngời đè tìm cách trả lời câu hỏi:
Thực chất con ngời là gì? Triết học cổ đại coi con ngời là tiểu vũ trụ, bản chất
cảu con ngời là bản chất của vũ trụ. Con ngời là vật cao quý nhất trong trời đất,
là hoa của đất, là chúa tể của muôn loài, chỉ đứng sau có Thợng Đế. Con ngời đ-
ợc chia ra phần xác và phần hồn. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo cho rằng phần
hồn là do Thợng Đế sinh ra và quy định, chi phối phần xác, linh hồn con ngời là
bất tử. Ngợc lại, chủ ngiã duy vật thì cho rằng phần xác chi phối và quyết định
phần hồn, không có linh hồn bất tử.
1.1.1. Quan niệm về con ngời trong triết học phơng Đông.
Từ thời kỳ cổ đại, các trờng phái Triết học đều tìm cách lý giải vấn đề bản
chất con ngời, quan hệ giữa con ngời đối với thế giới xung quanh. Các trờng
phái triết học tôn giáo phơng Đông nh Phật giáo, Hồi giáo nhận thức bản chất
con ngời trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Con
ngời trong quan niệm của các học thuyết tôn giáo phơng Đông đều phản ánh sai
lầm về bản chất con ngời, hớng con ngời tới thế giới thần linh. Khổng Tử cho

bản chất con ngời là do thiên mệnh chi phối quyết định, đức nhân chính là
giá trị cao nhất của con ngời, đặc biệt là ngời quân tử. Mạnh Tử quy tính thiện
của con ngời vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hởng của phong tục, tập quán xấu
mà con ngời bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp, vì vậy phải thông qua tu dỡng
rèn luyện để giữ đợc đạo đức của mình. Triết học Tuân Tử lại cho rằng, bản
chất con ngời khi sinh ra là ác, nhng có thể cải biến đợc, phải chống lại cái ác
ấy thì con ngời mới tốt đợc. Có thể nói rằng, Triết học phơng Đông biểu hiện
tính đa dạng và phong phú, thiên về con ngời trong mối liên hệ chính trị, đạo
đức. Nhìn chung, con ngời trong triết học phơng Đông biểu hiện yếu tố duy
tâm, có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự
nhiên và xã hội.
1.1.2. Quan niệm về con ngời trong triết học phơng Tây trớc Mác Lênin
Triết học phơng Tây trớc Mác Lênin biểu hiện nhiều quan niệm khác nhau
về con ngời:
Các trờng phái triết học tôn giáo phơng Tây, đặc biệt là Kitô giáo nhận
thức vấn đề con ngời trên cơ sở thế giới quan duy tâm thần bí.
Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con ngời đợc xem là điểm khởi đầu của t
duy triết học. Prôtago, một nhà ngụy biện cho rằng con ngời là thớc đo của vũ
trụ. Quan niệm của Arixtôt về con ngời, theo ông chỉ có linh hồn, t duy, trí
nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con ngời nổi bật lên, con ngời là
thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà nớc, ông xem con ngời là một
động vật chính trị. Nh vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bớc đầu đã có sự phân biệt
con ngời với tự nhiên, nhng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con ngời.
Triết học Tây âu trung cổ xem con ngời là sản phẩm của Thợng đế sáng tạo
ra.
Triết học thời kỳ phục hng-cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính
của con ngời, xem con ngời là một thực thể có trí tuệ. Tuy nhiên con ngời mới
chỉ đợc nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ về mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, những nhà triết học nổi tiếng nh Cantơ,
Hêghen đã phát triển quan niệm về con ngời theo khuynh hớng của chủ nghĩa

duy tâm. Hêghen, với cách nhìn của một nhà duy tâm khách quan đã cho rằng
con ngời là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Hêghen cũng là ngời trình bày
một cách có hệ thống về các quy luật của quá trình t duy con ngời, làm rõ cơ
chế của đời sống tinh thần mỗi cá nhân trong mọi hoạt động của con ngời. Mặc
dù con ngời đợc nhận thức từ góc độ duy tâm khách quan nhng Hêghen là ngời
khẳng định vai trò chủ thể của con ngời đối với lịch sử, đồng thời là kết quả của
sự phát triển lịch sử.
T tởng triết học của Phoiơbắc đã vợt qua những hạn chế trong triết học
Hêghen để hy vọng tìm đến bản chất con ngời một cách đích thực. Phoiơbắc
phê phán tính chất siêu tự nhiên phi vật chất, phi thể xác về bản chất con ngời
trong triết học Hêghen, đồng thời khẳng định con ngời do sự vận động của thế
giới vật chất tạo nên. Con ngời là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên.
Con ngời và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời. Quan niệm này dựa trên
nền tảng duy vật, đề cao yếu tố tự nhiên, cảm tính nhằm giải phóng cá nhân con
ngời. Tuy nhiên, Phoiơbắc không thấy đợc bản chất xã hội trong đời sống con
ngời, tách con ngời khỏi những điều kiện lịch sử, phi giai cấp và trừu tợng.
Nh vậy, các quan niệm về con ngời trong triết học trớc Mác, dù là đứng
trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình,
đều không phản ánh đúng bản chất của con ngời. Tuy vậy, một số trờng phái
triết học vẫn đạt đợc những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con ngời, đề
cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hớng con ngời tới tự do. Đó là
những tiền đề có ý nghĩa cho việc hình thành t tởng về con ngời của triết học
Macxit.
1.2. Con ngời là một thực thể sinh học-xã hội
Tuy rằng con ngời đã bỏ xa giới động vật trong quá trình tiến hoá nhng
nh thế không có nghĩa là con ngời đã lột bỏ tất cả những cái tự nhiên, cái sinh
học để không còn một sự liên hệ nào với tổ tiên của mình. Con ngời là sản
phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Con ng-
ời tựu nhiên là con ngới sinh học mang bản tính sinh vật. Cái sinh học trong con
ngời quy định sự hình thành những hiện tợng và quá trình tâm lý trong con ng-

ời, là điều kiện quyết định sự tồn tại của con ngời. Chẳng hạn, đã là ngời thì ai
cũng phải trải qua các giai đoạn sinh trởng, tử vong, ai cũng phải có nhu cầu ăn,
mặc, ở, sinh hoạt, văn hoá, tình cảm,... Song con ngời không phải là động vật
thuần tuý nh các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với tất cả
nội dung văn hoá-lịch sử của nó. Con ngời là sản phẩm của xã hội, là con ngời
xã hội, mang bản tính xã hội. Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ,
những biến đổi xuất hiện do ảnh hởng của các điều kiện xã hội khác nhau,
những sự quy định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con ngời. Con ngời chỉ có thể
tồn tại đợc một khi con ngời tiến hành lao động sản xuất ra cảu cải vật chất
thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của mình. Chính lao động sản xuất là yếu tố quyết
định hình thành con ngời và ý thức. lAo động là nguồn gốc tạo ra nền văn hoá
vật chất và tinh thần. Mặt khác, trong lao động con ngời quan hệ với nhau trong
lĩnh vực sản xuất, đó là những quan hệ nền tảng để từ đó hình thành các quan hệ
xã hội khác trong các lĩnh vực của đời sống tinh thần.
Chính vì con ngời là sản phẩm của tự nhiên và xã hội cho nên con ngời
chịu sự chi phối của môi trờng tự nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của
chúng. Các quy luật tự nhiên nh quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể và môi tr-
ờng, quy luật về quá trình trao đổi chất,... tác động tạo nên phơng diên sinh học
của con ngời. Các quyluật tâm lý, ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng
sinh học của con ngời, hình thành t tởng, tình cảm, khát vọng, niềm tin và ý chí.
Các quy luật xã hội quy định mối quan hệ giữa ngời với ngời, điều chỉnh hành
vi của con ngời. Hệ thống các quy luật trên cùng tác động lên con ngời tạo nên
thể thống nhất hoàn chỉnh giữa cái sinh học và cái xã hội trong con ngời.
Với t cách là con ngời xã hội, là con ngời hoạt động thực tiễn, con ngời
sản xuất ra của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên, con ngời
là chủ thể cải tạo tự nhiên. Nh vậy, con ngời vừa do tự nhiên sinh ra, bị phụ
thuộc vào tự nhiên vừa tác động vào tự nhiên, tìm cách thống trị tự nhiên. Chỉ
có con ngwoif mới có khả năng in dấu ấn vào tự nhiên bằng cách tạo ra những
sự vật, hiện tợng không nh tự nhiên vốn có, bằng cách biến đổi bộ mặt của tự
nhiên, chinh phục tự nhiên và bắt tự nhiên phục vụ con ngời. Dĩ nhiên, là sản

phẩm của tự nhiên, con ngời chỉ có thể thống trị tự nhiên nếu biết tuân theo và
nắm bắt các quy luật của bản thân giới tự nhiên.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con ngời cũng tạo ra lịch sử của mình.
Con ngời không những là sản phẩm của xã hội mà còn là chủ thể cải tạo xã hội.
Bằng hoạt động lao động sản xuất, con ngời sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật
chất và tinh thần. Bằng hoạt động cách mạng, con ngời viết thêm các trang sử
mới cho chính mình. Mặc dù tự nhiên và xã hội đều vận động theo những quy
luật khách quan, song quá trình hành động của con ngời luôn xuất phát từ nhu
cầu, động cơ và hứng thú, theo đuổi những mục đích nhất định và do đó đã tìm
cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác dụng của quy luật cho phù hợp với nhu
cầu và mục đích của mình. Không thể có xã hội, lịch sử thì cũng không thể có
sự vận động của xã hội, lịch sử nếu không có con ngời với t cách là chủ thể của
lịch sử.
1.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về con ng ời
Triết học Mác-Lênin đã kế thừa quan niệm về con ngời trong lịch sử triết
học, đồng thời các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã mang lại cho học thuyết về
con ngời của mình một điểm mới về cơ bản : coi con ngời là điểm xuất phát và
sự giải phóng con ngời là mục tiêu cao nhất mà nhân loại cần đạt tới.
Trớc hết, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, con ngời là một thực
thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Triết học Mác-Lênin đã khắc
phục những nhận thức duy tâm, nhị nguyên luận về vấn đề bản chất của con ng-
ời trong các trờng phái triết học trớc đó. Trong tác phẩm Góp phần phê phán
triết học pháp quyền của Hêghen, Mác đã nói : con ngời không phải là một
tồn tại trừu tợng, ẩn náu đâu đó ở ngoài thế giới, con ngời chính là thế giới
những con ngời, là nhà nớc, là xã hội. Ông cũng phê phán những quan điểm
mang tính chất thần linh trong triết học tôn giáo : Tôn giáo biến bản chất con
ngời thành tính hiện thực ảo tởng, vì bản chất của con ngời mang tính hiện
thực thực sự. Do đó, đấu tranh chống tôn giáo là gián tiếp đấu tranh chống
cái thế giới tinh thần mà lạc thú của nó là tôn giáo. Ông cho rằng tôn giáo là
thuốc phiện của nhân dân, là sự tha hóa của con ngời. Hay trong Luận c-

ơng về Phoiơbắc, Mác viết : Bản chất con ngời không phải là một cái trừ t-
ợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
ngời là tổng hòa những quan hệ xã hội.
Một số ngời khi nói đến lý luận của Mác về con ngời chỉ nói đến câu:
Con ngời là tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Thực ra không phải chỉ có vậy
mà quan điểm của Mác về con ngời là một quan điểm toàn diện.
Mác và Ăngghen nhiều lần khẳng định lại quan điểm của những ngời đi
trớc rằng con ngời là một bộ phận của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. Nh-
ng khác với họ, hai ông xem xét mặt tự nhiên của con ngời nh ăn, ngủ, đi lại,
yêu thích,... không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên nh ở con vật mà là đã xã
hội hoá. Ngay câu nói của Mác: Bản chất của con ngời không phải là một cái
trừu tợng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiên thực của nó bản chất
con ngời là tổng hoà những quan hệ xã hội cũng chỉ có nghĩa là khi xét con
ngời thì phải đặt nó trong xã hội, phải thấy đợc các quan hệ xã hội và lịch sử đã
tạo nên nó.
Cũng vì trong con ngời có hai mặt, mặt tự nhiên và mặt xã hội nên Mác
nhiều lần so sánh con ngời với con vật, so sánh con ngời với những con vật có
hành động gần giống con ngời nh con ong,... để tìm ra sự khác biệt và Mác đã
chỉ ra sự khác biệt đó ở nhiều chỗ nh nói con ngời sống trong xã hội, con ngời
làm ra t liệu sinh hoạt của mình, con ngời biến đổi tự nhiên theo quy luật của tự
nhiên, con ngời là thớc đo của muôn loài, con ngời sản xuất ra công cụ sản
xuất,...Luận điểm xem con ngời là sinh vật biết chế tạo ra công cụ sản xuất đợc
xem là luận điểm tiêu biểu cho chủ nghĩa Mác về con ngời.
Luận điểm của Mác coi bản chất con ngời là tổng hoà các quan hệ xã
hội có nội dung t tởng nhất định, Mác hoàn toàn không có ý phủ nhận vai trò
của các yếu tố và đặc điểm sinh học của con ngời, ông chỉ đối lập luận điểm coi
con ngời đơn thuần nh một phần của giới tự nhiên còn bỏ qua và không nói gì
đến mặt xã hội của con ngời. Khi xác định bản chất con ngời, trớc hết Mác nêu
bật cái chung, cái không thể thiếu và có tính chất quyết định làm cho con ngời
trở thành một con ngời. Về sau, khi nói đến sự định hớng hợp lý về mặt sinh

học Lênin cũng chỉ bác bỏ sự nghiên cứu thuần tuý sinh học và nhấn mạnh
rằng các yếu tố xã hội thờng xuyên tác động và ảnh hởng to lớn đối với bản chất
và sự phát triển của con ngời. Chính Lê Nin cũng không tán thành quan điểm
cho rằng mọi ngời đều ngang nhau về mặt sinh học, ông viết thực hiện một sự
bình đẳng về sức lực và tài năng của con ngời thì đó là sự ngu xuẩn ..... Nói tới
bình đẳng thì..... đó luôn là sự bình đẳng xã hội, bình đẳng về địa vị xã hội chứ
quyết không phải là sự bình đẳng về thể lực và trí lực của cá nhân.
Khi khẳng định tiến trình phát triển của xã hội loài ngời là sự thay thế lẫn
nhau của các hình thái kinh tế xã hội, Mác đã nói tới việc lấy sự phát triển toàn
diện của con ngời làm thớc đo chung cho sự phát triển xã hội, Mác cho rằng xu
hớng chunng của tiến trình phát triển lịch sử đợc quy định bởi sự phát triển của
lực lợng sản xuất xã hội, bao gồm con ngời và những cônng cụ lao động do con
ngời tạo ra. Sự phát triển của lực lợng sản xuất xã hội tự nó đã nói lên trình độ
phát triển của xã hội qua việc con ngời chiếm lĩnh xã hội và sử dụng ngày càng
nhiều lực lợng tự nhiên với t cách là cơ sở vật chất cho hoạt động sống của
chính con ngời và quyết định quan hệ giữa ngời với ngời trong sản xuất. Sản
xuất ngày càng phát triển, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng gia tăng,
việc tiến hành sản xuất tập thể bằng lực lợng của toàn xã hội và sự phát triển
mới của nền sản xuất do việc đó mang lại sẽ cần đến những con ngời hoàn toàn
mới. Những con ngới có năng lực phát triển toàn diện, đầy đủ sức tinh thông
toàn bộ hệ thống sản xuất. Và đến lợt mình, nền sản xuất đó sẽ tạo nên những
con ngời mới, sẽ làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử dụng
một cách toàn diện năng lực phát triển của bản thân. Bởi vậy theo Mác, phát
triển sản xuất vì sự nghiệp phồn vinh của xã hội, vì cuộc sống tốt đẹp hơn cho
mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội và phát triển con ngời toàn diện là quả
trình thống nhất để làm tăng thêm nền sản xuất xã hội, để sản xuất ra những
con ngời phát triển toàn diện. Và hơn nữa Mác coi sự kết hợp chặt chẽ giữa
phát triển sản xuất và phát triển con ngời là một trong những biện pháp mạnh
để cải biến xã hội.
Trong quan niệm của Mác, con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt động

sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực l-
ợng sản xuất của xã hội mà hơn nữa nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động
của quá trình lịch sử. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con ngời sáng tạo
ra lịch sử của mình, lịch sử của xã hội loài ngời. Từ quan niệm đó Mác khẳng
định: Sự phát triển lực lợng sản xuất xã hội trớc hết có ý nghiã là phát triển sự
phonng phú của bản chất con ngời, coi nh là một mục đích tự thân . Bởi vậy
theo Mác ý nghĩa lịch sử, mục đích cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển
con ngời toàn diện, nâng cao năng lực và phẩm giá con ngời, giải phóng con ng-
ời, loại trừ ra khỏi cuộc sống con ngời mọi sự tha hoá để con ngời đợc sống
với cuộc sống đích thực của mình. Và bớc quan trọng nhất trên con đờng đó
theo Mác là giải phóng con ngời về mặt xã hội. Điều đó cho thấy trong quan
niệm của Mác, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài ngời là vì
con ngời, vì cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn cho con ngời, phát triển con ngời
toian diện và giải phóng con ngời. Nói theo Anghen là đa con ngời từ vơng
quốc của tất yếu sang vơng quốc của tự do , là làm cho con ngời cuối cùng là
ngời chủ của tồn tại xã hội của chính mình, cũng đồng thời trở thành những ng-
ời chủ của tự nhiên, ngời chủ của bản thân mình, trở thành những ngời tự do .
Đó là quá trình mà nhân loại tự tạo ra những điều kiện, những khả năng cho
chính mình nhằm đem lại sự phát triển toàn diện, tự do và hài hoà cho mỗi con
ngời trong cộng đồng nhân loại, toạ cho con ngờo năng lực làm chủ tiến trình
lịch sử của chính mình.
Quan niệm của Mác về định hớng phát triển xã hội lấy sự phát triển của
con ngời làm thớc đo chung càng phải đợc khẳng định trong bối cảnh hiện thời
của xã hội loài ngời. Bởi lẽ ngày nay nhân loại đang sống tronng bối cảnh quốc
tế đầy những biến động, cộng đồng thế giới đang thể hiện hết sức rõ ràng tính
đa dạng trong các hình thức phát triển của nó. Xã hội loài ngời kể từ thời tiền sử
cho đến nay bao giờ cũng là một hệ thống chỉnh thể, thống nhất song cũng đồng
thời là một hệ thống hết sức phức tạp, đa diện, chính sự phức tạp và đa diện của
nó đã tạo nên tính không đồng đều trong sự phát triển kinh tế- xã hội ở các nớc,
các khu vực, các châu lục khác nhau. Đến lợt mình, tính không đồng đều của sự

phát triển này lại hình thành nên một bức tranh nhiều mầu sắc về định hớng
phát triển xã hội. Song, dù phát triển theo hớng nào, mọi định hớng phát triển
vẫn phải hớng tới giá trị nhân văn của nó-tới sự phát triển con ngời.
Mỗi thời đại có một giai cấp trung tâm, giai cấp này có trọng trách hơn
các giai cấp khác cùng thời. Vì vậy, mỗi thời đại ngời ta đều tập trung nghiên
cứu con ngời của giai cấp đó. Thời Mác, giai cấp trung tâm của thời đại là giai
cấp vô sản, cho nên Mác cũng tập trung nghiên cứu con ngời vô sản.
Với Mác, ngời vô sản là ngời sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội hiện
đại, nhng lao động của họ lại bị tha hoá, lao động từ chõ gắn bó với họ trở nên
xa lạ đối với họ và thống trị họ. Tình trạng bất hợp lý này cần phải đợc giải
quyết. Với Mác, ngời vô sản là ngời tiêu biểu cho phơng thức sản xuất mới, có
sứ mệnh và hoàn toàn có khả năng giải phóng mình và giải phóng xã hội để
xaay dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn xã hội T bản. Mác dự đoán rằng, đến xã
hội cộng sản chủ nghĩa, con ngời không còn thất nghiệp, không còn bị ràng
buộc vào một nghềnghiệp nhất định, họ có thể làm bất cứ nghề nào họ có khả
năng và thích thú, họ có quyền làm theo năng lực, hởng theo nhu cầu. Nhng
cách mạng cộng sản không diễn ra theo ý họ, nó không diễn ra đồng loạt ở tất
cả các nớc t bản, hay ít ra là ở các nớc t bản tiên tiến nhất lúc bấy giờ nh dợ
đoán của ông. Trái lại nó diễn ra ở nớc Nga, một nớc công nghiệp cha phát
triển, Nông dân chiếm số đông trong dân số. Vì vậy, quan niệm của ông về con
ngơi khó có điều kiện đợc chứng minh.
1.4. Con ngời chủ thể sáng tạo của lịch sử :
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
ngời. Bởi vậy, con ngời là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của giới
hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con ngời luôn luôn là chủ thể của lịch
sử-xã hội. Nếu nh Phoiơbắc khi nghiên cứu về vấn đề bản chất con ngời đã đi từ
chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa duy tâm thì Mác lại đi từ quan niệm duy vật
chung về con ngời đến quan niệm duy vật lịch sử về con ngời. Ông đã chỉ ra
tính chất biện chứng của mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và đời sống xã hội
của con ngời : xã hội không phải là một lực lợng độc lập, một chủ thể độc lập;

những con ngời hiện thực sống về thực chất là chủ thể duy nhất, là cơ sở hiện
thực của toàn bộ thế giới ngời; cá tính con ngời là yếu tố quan trọng, là trung tâm
trong toàn bộ sự vận động bản chất của con ngời. Từ đó ông định nghĩa : tha hóa
là sự tách rời giữa cá nhân và xã hội.
Mác đã khẳng định : Xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
những con ngời và Lịch sử xã hội của con ngời luôn chỉ là lịch sử của sự
phát triển cá nhân. Với t cách là thực thể xã hội, con ngời hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con ngời cũng
làm ra lịch sử của mình. Con ngời là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể
sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con ngời. Sáng tạo ra lịch sử của chính
mình, con ngời thể hiện ra là giá trị sản sinh ra mọi giá trị, là thớc đo giá trị của
mọi giá trị và do vậy, trong con ngời luôn chúa đựng rất nhiều tiềm năng và giá
trị.
Không có con ngời trừu tợng, chỉ có con ngời cụ thể trong mỗi giai đoạn
phát triển của xã hội. Do vậy, bản chất con ngời, trong mối quan hệ với điều
kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù
hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động tiến lên của lịch sử sẽ quy định tơng ứng
với sự vận động và biến đổi của bản chất con ngời.
Nhờ hiện tợng đơn giản là mỗi thế hệ sau có đợc những lực lợng sản xuất
do thế hệ trớc tạo ra, và những lực lợng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ
sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới nhờ hiện tợng ấy mà hình
thành nên mối liên hệ trong lịch sử loài ngời, hình thành lịch sử loài ngời.
Vậy con ngời không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, là yếu
tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lợng sản xuất xã hội mà
nó còn đóng vai trò là chủ thể hoạt động của quá trình lịch sử.
1.5. Vai trò lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin về con ng ời trong đời sống xã
hội hiện thực
Do nhận thức đợc tầm quan trọng của vấn đề con ngời, đặc biệt là vấn đề
con ngời trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nớc ta hiện nay.

Trong thực tế, không ít ngời rẽ ngang di tìm khả năng phát triển đó trong
chủ nghĩa t bản. Nhiều ngời trở về phục sinh và tìm sự hoàn thiện con ngời
trong các tôn giáo và các hệ t tởng truyền thống. Có ngời lại sáng tạo ra
những t tởgn, tôn giáo mới cho phù hợp hơn với con ngời Việt Nam hiện
nay. Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của
Chủ nghĩa Mác- Lê nin trong xã hội ta, có lẽ không ai phủ nhận đợc vai trò u
trội và triển vọngcủa nó trong sự nghiệp phát triển con ngời tạo đà cho bớc phát
triển tiếp theo của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì một nớc đang
còn ở tình trạng kém phát triển nh nớc ta không thể không xây dựng một chính
sách phát triển lâu dài, có tầm nhìn xa trông rộng phát triển con ngời, nâng cao
dần chất lợng của ngời lao động.
Hơn bất cứ một lĩnh vực nghiên cứu nào khác, lĩnh vực phát triển con ng-
ời là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại đa loài ngời đến một kỷ nguyên
mới, mở ra bao khả năng để họ tìm ra những con đờng tối u đi tới tơng lai, con
đờng khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con ngời trong sự nghiệp công
nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nớc.
Trong đời sống xã hội hiện thực trên cơ sở vận dụng khoa học và sáng tạo
của chủ nghĩa Mác-Lênin về con ngời, tại hội nghị lần thứ t của Ban chấp hành
TW khoá VII, Đảng ta đã đề ra và thông qua nghị quyết về việc phát triển con
ngời Việt Nam toàn diện với t cách là: động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới, đồng thời là mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội. Đó là con ngời phát triển cao
về trí tuệ, cờng tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Bởi lẽ ngời lao động nớc ta ngày càng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nớc theo cơ chế
thị trờng có sự quản lý của nhà nớc định hớng xã hội chủ nghĩa thì chất lợng
của ngời lao động là nhân tố quyết định. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: Nâng cao dân trí, bồi dỡng và phát huy
nguồn lực to lớn của con ngời Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thực tiễn đã chứng tỏ rằng trong xã
hội ta hiện nay tình trạng mất hài hoà về mặt bản thể của môĩ cá nhân là chủ

yếu, là tất cả. Bản thể cá nhân phát triển toàn diệnvà hài hoà về đức-trí-thể-mĩ là
mục tiêu xây dựng con ngời trong CNXH. Nhng mục tiêu cơ bản và quan trọng
hơn là vấn đề con ngời phải trở thành nhân tố quyết định lịch sử xã hội và lịch
sử của chính mình.
Các nhà t tởng t sản xuyên tạc Chủ nghĩa Mác cho rằng đó là Chủ nghĩa
không có con ngời. Thực tế, chủ nghĩa Mác là một chỉnh thể thống nhất ba bộ
phận: Triết học nghiên cứu các quy luật của thế giới giúp ta hiểu đợc bản chất
mối quan hệ tự nhiên- xã hội- con ngời, chính trị kinh tế học giải phẫu xã hội t
bản và vạch ra quy luật đi lên của CNXH, chủ nghĩa xã hội khoa học chỉ ra con
đờng và biện pháp giải phóng phát triển con ngời. Có thể nói cốt lõi của chủ
nghĩa Mác-Lênin là chủ nghĩa nhân đạo, học thuyết vì con ngời. Học thuyết đó
không chỉ chứng minh bản chất con ngời (tổng hoà các quan hệ xã hội) và bản
tính con ngời (luôn vơn tới sự hoàn thiện) mà còn vạch hớng đa con ngời đi đúng
bản chất và bản tính của mình: giải phóng, xoá bỏ sự tha hoá, tạo điều kiện phát
huy sức mạnh bản chất ngời, phát triển toàn diện- hài hoà cho từng cá nhân. Sự
phù hợp giữa t tởng Mácxít với bản chất và bản tính ngời đã thu phục và làm say
mê những con ngời hằng mong vơn lên xây dựng xã hội mới, mở ra mọi khả
năng cho sự phát triển con ngời.
Cùng với t tởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác- Lênin vào Việt Nam đã
làm nên thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc (1945) và thống nhất đất nớc
(1975), thực hiện ý chí độc lập tự do cho con ngời Việt Nam điều mà hàng thế
kỷ bao nhiêu học thuyết khác không làm đợc. Trở thành hệ t tởng chính thống
toàn xã hội, chủ nghĩa Mác- Lênin thay đổi nhanh chóng đời sống tinh thần đại
đa số nhân dân Việt Nam. Thực tiễn hoạt động cách mạng XHCN vừa nhanh
chóng nâng cao trình độ nhận thức toàn diện, vừa phát triển thế giới tinh thần và
năng lực con ngời. Bằng hệ thống giáo dục với các hình thức đào tạo đa dạng,
với các chơng trình khoa học thấm nhuần tinh thần cơ bản chủ nghĩa Mác-
Lênin đã hình thành kế tiếp nhau những lớp ngời lao động mới ngày càng có t t-
ởng, trình độ chung và chuyên môn cao. Ngày nay chúng ta có một đội ngũ cán
bộ văn hoá khoa học công nghệ, với trình độ lý luận và quản lý đều trong cả n-

ớc. Tuy từng vùng lãnh thổ, từng đối tợng hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau mà có ảnh hởg khác nhau nhng con ngời Việt nam với t cách là một cộng
đồng đều giác ngộ lý tởng XHCN.
Chỉ trong thời gian ngắn, hệ t tởng Mácxít đã thể hiện u tế của mình đối
với nền văn hoá dân dã, rũ bỏ dần sự thống trị của các loại t tởng tự phát, lạc
hậu, thấp kém trong con ngời cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin mù quáng.... Với
sức mạnh của tinh thần khoa học, học thuyết Mác- Lênin vạch rõ những yếu tố
phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan và nhân sinh quan sai lệch đã
từng làm méo mó đời sống chân chính, làm thui chột trí tuệ và tính tích cực
trong con ngời của các hệ t tởng truyền thống. Nó cũng tỏ rõ tính u việt trong
con ngời đối với các luồng t tởng ngoại nhập phơng Tây với các trào lu t tởng t
sản hiện đại đang làm lệch hớng những con ngời chân chính trong điều kiện đời
sống vật chất khó khăn nh chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng,...
Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, xiềng xích của tâm lý cổ truyền, của
nền sản xuất tiểu nông với t duy ngây thơ, kinh nghiệm phi khoa học trong con
ngời thiếu văn hoá do xã hội cũ để lại đã đợc tri thức khoa học Mácxít phá tan.
Một ý thức hệ tiến ra đời, các tín ngỡng dần nhờng chố cho niềm tin khoa học.
Các yếu tố t duy duy vật biện chững hình thành trong đời sống thờng ngày,
trong lao động, trong chiến đấu cũng nh trong mọi hoạt động xã hội. Thế giới
quan khoa học ngày càng ăn sâu ở những con ngời luôn phấn đấu cho thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội, nó nhìn thé giới, xã hội, con ngời trong sự vận động và
phát triển, trong tính hiện thực và tiềm ẩn những khả năng, nó thấy tồn tại
khách quan là điều kiận cho sự sống và sự phát triển của con ngời. Thế giới
quan đó hàm chứa nhân sinh quan tiến bộ, khắc phục dần những quan niệm sai
lầm, phiến diện về con ngời của các hệ t tởng khác, mẫu ngời quân tử trong xã
hội phong kiến, ngời điểu kỷ trong xãa hội nông nghiệp, ngời bạo lực thực dụng
của xã hội T bản,..
Sự chuyển đổi hệ t tởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị xã hội và giá trị con
ngời. Con ngời từ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ dựa trên tình nghĩa
chuyển sang dựa trên lý trí và dân chủ, từ chỉ tìm cách hoà đồng chuyển sang tôn

trọng cả cá tính và bản lĩnh riêng... Các chuẩn mực con ngời mới đòi hỏi không
chỉ phát triển từng mặt riêng lẻ mà phải là cá nhân phát triển hài hoà thể chất,
tinh thần, trí tuệ, thẩm mỹ,... Tính khoa học, tính cách mạng cuả học thuyết
Mácxít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở hình thành lối sống
tích cực, phát triển ý thức luôn vơn lên làm chủ và xây dựng cuộc sống mới, xuất
hiện ngững nhân cách mới.
Tất nhiên con ngời phát triển ngày nay không chỉ là sản phẩm cảu hệ t t-
ởng Mácxít, vì ngay khi chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ t tởng chính thống ở
Việt Nam thì các tôn giáo, các hệ t tởng và văn hoá bản địa đã có sức sống riêng
của nó. Chủ nghĩa Mác-Lênin thâm nhập nó nh một hệ t tởng khoa học vợt hẳn
lên trên cái nền bản địa nhng nó cũng chịu sự chi phối, tác độngu, đan xen của

×