Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu tố đó, yếu tố nào đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.1 KB, 33 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA MARKETING

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đề tài:
Đề tài 1: Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trong các
yếu tố đó, yếu tố nào đóng vai trị quyết định đối với bản chất khoa học
và cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao?
Đề tài 2: Vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân,
cần, kiêm, liêm, chính, chí cơng vơ tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh để
xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện nay.


MỤC LỤC
ĐỀ TÀI 1............................................................................................................................ 1
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
I.

Cơ sở lí luận.............................................................................................................3
1. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh......................................................................3
2. Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh........................................................................3
3. Nguồn gốc và q trình hình thành...................................................................3
4. Giá trị tư tưởng....................................................................................................3

II.

Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh....................................................5

1. Yếu tố khách quan...............................................................................................5


2. Yếu tố chủ quan:..................................................................................................9
III. Trong các yếu tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin
là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh.....................................................................................................11
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 13
ĐỀ TÀI 2.......................................................................................................................... 14
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................14
I.

Cơ sở lý luận..........................................................................................................15
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người cộng sản mẫu mực, một tấm gương sáng
cho mọi người noi theo. Cả cuộc đời Người “trung với nước, hiếu với dân, cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”...........................................................................15
2. Tấm gương đạo đức cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm,
liêm, chính, trí cơng vơ tư” khơng thể khơng kể đến Chủ tịch Hồ Chí Minh (1980
- 1969)........................................................................................................................ 16

II.

Vận dụng để xậy dựng đạo đức lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện nay. . .18

1. Trung với nước, hiếu với dân............................................................................18
2. Xây dựng đạo đức lối sống “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” cho sinh
viên Việt Nam hiện nay............................................................................................21
3. Liên hệ bản thân................................................................................................24
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 26
PHỤ LỤC (Link tài liệu tham khảo).............................................................................27


ĐỀ TÀI 1

Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu tố đó, yếu tố nào
đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách mạng của tư tưởng Hồ
Chí Minh? Tại sao?
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh “là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân
tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt
Nam”. Người là sự kết tinh của truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc
Việt Nam và tinh hoa văn hóa thế giới. Nguời đã có những cống hiến to lớn đối với phong
trào đấu tranh vì hịa bình và tiến bộ nhân loại. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ
Chí Minh là bản hùng ca của chủ nghĩa yêu nước, về tinh thần tận tụy, hi sinh phấn đấu
quên mình vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân. Di sản tư tưởng và tấm
gương đạo đức cao đẹp của Người mãi mãi là tài sản quý báu của toàn Đảng, toàn dân ta,
là niềm tự hào, nguồn cổ vũ lớn lao đối với các thế hệ người Việt Nam.
Đại hội Đảng lần IX khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một tư tưởng toàn
diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng
thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người”. Hệ thống quan điểm của Người vơ cùng tồn diện sâu
sắc về cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng
Việt Nam trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Vậy tư tưởng đó được hình thành như thế nào?
Bằng những kiến thức đã được trang bị trong học phần Tư tưởng Hồ Chí Minh,
nhóm 6 đã thực hiện đề tài “Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh? Trong các yếu
tố đó, yếu tố nào đóng vai trò quyết định đối với bản chất khoa học và cách mạng của tư
tưởng Hồ Chí Minh? Tại sao?”. Trong quá trình thực hiện, đề tài này đã giúp các thành
viên trong nhóm hiểu sâu hơn về Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài thảo luận có kết cấu 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận
Phần II: Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh

Phần III: Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định
bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng HỒ CHÍ MINH
Bài thảo luận dựa vào tài liệu tham khảo và những kiến thức được trang bị trong
học phần Tư tưởng Hồ Chính Minh. Vì trình độ có hạn nên bài thảo luận của nhóm 6
khơng tránh khỏi thiếu sót và hạn chế, hi vọng thầy có thể động viên và góp ý để bài thảo
luận được hồn thiện hơn. Chúng em xin cảm ơn!
1


I.
I.1.

Cơ sở lí luận
Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là
sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp và giải phóng con người.
I.2.

Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
 Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
 Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
 Tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc
 Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của
dân, do dân, vì dân
 Tư tưởng về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

 Tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân
 Tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
 Tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
 Tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa
là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân

I.3.

Nguồn gốc và quá trình hình thành
 Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu
nước
 Thời kỳ từ năm 1911 - 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
 Thời kỳ từ năm 1921 - 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt
Nam
 Thời kỳ từ 1930 - 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững những quan điểm
đã được khẳng định
 Thời kỳ từ 1945 - 1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được phát triển, hoàn
thiện

I.4.

Giá trị tư tưởng

4.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của
cách mạng Việt Nam
2


Tư tưởng Hồ chí Minh soi đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực

hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Là ngọn cờ dẫn dắt
cách mạng Việt Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong suốt nửa thế kỉ, từ cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để Đảng ta vạch ra đường lối cách
mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đi đến
thắng lợi. Đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa phong kiến, mới trở thành một nước độc lập, tự chủ, có nền kinh tế phát triển bền vững,
con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bất cơng, được phát triển tự do, toàn diện,
vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
4.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của dân tộc
Việt Nam
 Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tổn bất diệt,
là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam bởi đó là "kết quả sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại." Ở luận điểm này,
có hai vấn đề cần làm rõ:
o Thứ nhất: Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chủ nghĩa Mác-Lê-nin, lấy chủ
nghĩa Mác-Lê-nin làm nền tảng, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là sự kế thừa, phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nổi bật là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần
đoàn kết dân tộc, và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây.
o Thứ hai: Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác-Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Tính sáng tạo của tư tưởng
Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ: trung thành với những nguyên lý phổ biến của chủ
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời khi nghiên cứu vận dụng những nguyên lý đó, Hồ Chí Minh
mạnh dạn loại bỏ những gì khơng phù hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, dám đề xuất
những vấn đề mới do thực tiễn đề ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả.
4.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại
Là người giải phóng dân tộc và đấu tranh cho tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
lãnh đạo cuộc đấu tranh của Việt Nam để giành tự do và độc lập dân tộc. Đối với những
người Việt Nam và các dân tộc trên thế giới, trước tiên đó là một con người của hịa bình
và của sự hịa giải vì phải cơng nhận rằng Hồ Chí Minh đã luôn luôn đấu tranh cho sự

phát triển của đất nước, của khu vực và trên thế giới. Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt
của độc lập dận tộc trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của
đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối quan hệ giữa
cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vơ sản ở chính quốc và về khả
năng cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở
chính quốc.Việc xác định đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong
tư tưởng Hồ Chí Minh có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành hiện thực của
nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
4.4. Tìm ra con đường đấu tranh tự giải phóng cho các dân tộc thuộc địa
3


Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con đường
cứu nước đúng đắn cho dân tộc đến việc xác định một con đường cách mạng, một hướng
đi, một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu con người bị áp bức trong các nước
thuộc địa lạc hậu. Người đã giải quyết đúng đắn vấn đề “làm thế nào để giải phóng các
dân tộc thuộc địa"; xác định chủ nghĩa đế quốc là kẻ thù lớn nhất của các dân tộc bị áp
bức, Người kêu gọi lao động toàn thế giới, nhất là các nước thuộc địa cần phải đại đoàn
kết, đại hịa hợp. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao giờ cũng gắn liền hạnh phúc của
những con người bị áp bức, bị đọa đầy thuộc các dân tộc bị thống trị và lệ thuộc ở thuộc
địa với độc lập dân tộc, với tự do, giai cấp được giải phóng. Vì thế, theo Hồ Chí Minh:
"Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải
phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới".
Muốn giải phóng con người trước hết phải giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Quan điểm này nhất quán và thấu suốt trong suốt cả cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh.
4.5. Cổ vũ các dân tộc đấu tranh vì những mục tiêu cao cả giải phóng con người
Theo các đại biểu, “tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “kim chỉ nam” đưa cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng. Tư tưởng và tấm gương đấu
tranh bất khuất cho độc lập, tự do của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã trở thành
nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa

trong thế kỷ XX, có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng, đấu tranh giải
phóng dân tộc trên thế giới. Việt Nam - Hồ Chí Minh chính là biểu tượng của đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc, là biểu tượng của chiến thắng, giải phóng dân tộc, xây dựng
chủ nghĩa xã hội, buộc chủ nghĩa đế quốc phải thất bại”.
II. Các yếu tố cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh
II.1. Yếu tố khách quan
1.1. Bối cảnh lịch sử hình thành
 Bối cảnh thời đại
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đã chuyển
sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền (ĐQCN), với đặc điểm quan trọng nhất
của nó là xâm chiếm thuộc địa. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các
dân tộc thuộc địa. Thống trị và xâm chiếm thuộc địa đã đẩy mạnh phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập
dân tộc, gắn bó với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới là đặc điểm mới của thời
đại.
Có một thực tế lịch sử là trong quá trình xâm lược và thống trị của chủ nghĩa thực
dân tại các nước ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, sự bóc lột phong kiến trước
kia vẫn được duy trì và bao trùm lên nó là sự bóc lột tư bản chủ nghĩa. Bên cạnh các giai
cấp cơ bản trước kia, đã xuất hiện thêm các giai cấp, tầng lớp xã hội mới, trong đó có giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Từ cuộc đấu tranh sôi nổi của công nhân các nước tư bản chủ nghĩa vào cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã dẫn đến một cao trào mới của cách mạng thế giới với
đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Chính cuộc cách mạng vĩ đại này
4


đã làm "thức tỉnh các dân tộc châu Á". Cách mạng Tháng Mười Nga đã lật đổ nhà nước tư
sản, thiết lập Chính quyền Xơ viết, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử lồi người. Cuộc
cách mạng vơ sản ở nước Nga thành công đã nêu một tấm gương sáng về sự giải phóng
các dân tộc bị áp bức, mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải

phóng dân tộc 9h. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, nhiều dân tộc vốn là thuộc
địa của đế quốc Nga đã được tự do, được hưởng quyền dân tộc tự quyết, hình thành nên
các quốc gia độc lập và dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Xơviết (1922).
Từ sau Cách mạng Tháng Mười Nga, với sự ra đời của Quốc tế Cộng sản (tháng
3-1919), phong trào công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng càng có quan hệ
mật thiết với nhau hơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc.


Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX

Vào năm 1858, Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập đã bị chủ nghĩa tư
bản Pháp xâm lược, trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Dưới ách thống
trị của thực dân Pháp, bị mất độc lập tự do, nhân dân ta khơng ngừng nổi lên chống lại
chúng.
Vào 6/6/1884, Chính quyền triều Nguyễn kí hiệp ước Patơnốt, từng bước khuất
phục trước cuộc xâm lược của tư bản Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của thực dân Pháp
trên toàn cõi Việt Nam. Vì vậy, trừ một số ít người cam tâm làm tay sai cho giặc, còn đại
đa số nhân dân nung nấu ý chí căm thù và chờ thời cơ vùng lên tự giải phóng giành độc
lập.
Cuối thế kỷ XIX phong trào yêu nước chống Pháp phát triển mạnh mẽ với các
xu hướng khác nhau và sự bế tắc về đường lối cách mạng. Các cuộc khởi nghĩa vũ
trang dưới khẩu hiệu "Cần vương" do các sĩ phu, văn thân lãnh đạo cuối cùng đã thất bại.
Phong trào của các sĩ phu yêu nước theo ý thức hệ phong kiến: với tư tưởng tôn quân,
chưa tin tưởng vào nhân dân. Mục tiêu đánh Pháp để phục hồi chế độ phong kiến: Tiêu
biểu như Trương Định, Nguyễn Trung Trực ở Miền Nam, Phan Đình Phùng ở Miền
Trung, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích ở Miền Bắc... Sự thất bại của các cuộc
khởi nghĩa này về bản chất thể hiện sự bất lực, sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến

trước nhiệm vụ lịch sử.
Các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp khiến cho xã hội nước ta có sự biến
chuyển và phân hóa, giai cấp cơng nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản bắt đầu xuất hiện,
tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc Việt Nam đầu
thế kỷ XX.
Sang đầu thế kỷ XX: Các "tân thư ", "tân văn", "tân báo" và những ảnh hưởng của
trào lưu cải cách ở Nhật Bản, Trung Quốc tràn vào Việt Nam, phong trào yêu nước của
nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Với các phong trào Đông du,
Duy tân, Đông kinh nghĩa thục... nổi lên mạnh mẽ và rộng khắp nhưng nhanh chóng
thất bại vì đường lối cách mạng không rõ ràng, không huy động được mọi tầng lớp
nhân dân, tư tưởng cầu viện nước ngồi, khơng độc lập tự chủ...
5


Tóm lại: Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là xã hội thuộc địa
nửa phong kiến với hai mâu thuẫn cơ bản:
Một là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược
và tay sai.
Hai là, mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam mà chủ yếu là nông dân với giai cấp
địa chủ phong kiến.
Để giải quyết các mâu thuẫn khách quan đó, các phong trào yêu nước đã nổ ra liên
tiếp nhưng đều không thành công. Sự thất bại của phong trào yêu nước nói lên sự khủng
hoảng về đường lối chính trị ở Việt Nam, do đó, địi hỏi khách quan của thực tiễn lúc này
là phải tìm kiếm một đường lối mới để giải phóng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh ra đi
tìm đường cứu nước là một tất yếu lịch sử.
1.2. Những tiền đề tư tưởng lí luận


Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam


Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành nên những giá trị
truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam, trở thành tiền đề tư
tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là truyền thống yêu
nước, kiên cường, bất khuất; là tinh thần tương thân tương ái, lòng nhân nghĩa, ý
thức cố kết cộng đồng; là ý chí vươn lên vượt qua mọi khó khăn, thử thách; là trí thơng
minh, tài sáng tạo, q trọng hiền tài, khiêm tốn tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để
làm giàu cho văn hóa dân tộc...
Trong những giá trị truyền thống đó, chủ nghĩa yêu nước là tư tưởng, tình cảm cao
quý, thiêng liêng nhất, là cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và lịng dũng cảm của người Việt
Nam, cũng là chuẩn mực đạo đức cơ bản của dân tộc. Là dịng chảy chính của tư tưởng
văn hóa truyền thống Việt Nam, xuyên suốt trường kỳ lịch sử, là động lực mạnh mẽ cho
sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc giục Nguyễn Tất Thành quyết chí
ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc. Chủ nghĩa yêu nước sẽ biến thành lực lượng vật chất thực sự khi nó ăn sâu vào tiềm
thức, vào ý chí và hành động của mỗi con người. Chính từ thực tiễn đó Hồ Chí Minh đã
đúc kết chân lý: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu
của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết
thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”.
 Tinh hoa văn hoá nhân loại
Việc kết hợp các giá trị truyền thống của văn hóa phương Đơng với các thành
tựu hiện đại của văn minh phương Tây - đó chính là nét đặc sắc trong quá trình hình
thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa Hồ Chí Minh.
Đối với văn hóa phương Đơng, cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán học, Hồ
Chí Minh biết chắt lọc, tiếp thu những mặt tích cực của Nho giáo. Đó là các triết lý
hành động, tư tưởng hành thế nhập đạo giúp đời; là lí tưởng về một xã hội bình trị, ước
6



vọng về một xã hội bình trị, hịa mục, hịa đồng; là triết lý nhân sinh, tu thân dưỡng tính,
đề cao văn hóa lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo,
lựa chọn những yếu tố tích cực, phù hợp để phục vụ nhiệm vụ cách mạng. Trong các tác
phẩm của mình, Hồ Chí Minh đã sử dụng khá nhiều mệnh đề của Nho giáo và đưa vào đó
những nội dung và ý nghĩa mới. Người nói: “Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong
học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều khơng đúng song những điều hay trong đó thì
chúng ta nên học”.
Về phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các tư tưởng vị
tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, thương người như thể thương thân; là nếp sống có
đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện; là tinh thần bình đẳng, dân chủ,
chống phân biệt đẳng cấp; là việc đề cao lao động, chống lười biếng “nhất nhật bất tác,
nhất nhật bất thực”; là chủ trương sống không xa lánh việc đời mà gắn bó với dân, với
nước, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống kẻ thù dân tộc...
Ngoài ra tư tưởng chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn cũng được Hồ Chí
Minh tìm hiểu để thấy trong đó những điều có thể vận dụng ở nước ta. Về chủ nghĩa
Tam dân của Tơn Trung Sơn, Hồ Chí Minh tìm thấy những điều thích hợp với điều kiện
nước ta, đó là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc.
Cùng với những tư tưởng triết học phương Đông. Hồ Chí Minh cịn tiếp thu nền
văn hóa dân chủ và cách mạng phương Tây. Người sớm làm quen với văn hóa Pháp,
tìm hiểu các cuộc cách mạng ở Pháp và ở Mỹ. Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư
tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm của các nhà Khai sáng như Vonte
(Voltaire), Rútxô (Rousso), Môngtétxkiơ (Montésquieu). Người tiếp thu các giá trị của
bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền
sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
Nói tóm lại, trên hành trình cứu nước, Hồ Chí Minh đã tự biết làm giàu trí tuệ của
mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, Đơng và Tây vừa tiếp thu, vừa chọn lọc để từ tầm cao
tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
 Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng
Hồ Chí Minh.

Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những
tri thức văn hóa tinh túy được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị vốn hiểu biết phong
phú, được tích lũy qua thực tiễn hoạt động đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải phóng
dân tộc. Bản lĩnh trí tuệ đã nâng cao khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo ở Người
khi vận dụng những nguyên lý cách mạng của thời đại vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thực tiễn trong suốt 10 năm đi tìm đường cứu nước, nhất là sau khi đọc Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin
(1920), Nguyễn Ái Quốc đã "cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng... vui mừng
đến phát khóc, vì đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc”. Như vậy, chính luận
cương của V.I.Lênin đã nâng cao nhận thức của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng
dân tộc. Nó phù hợp và đáp ứng những tình cảm, suy nghĩ, hoài bão được ấp ủ từ lâu nay
7


đang trở thành hiện thực Người viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa
phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”.
Từ những nhận thức ban đầu về chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đã tiến dần tới
những nhận thức “lý tính”, trở lại nghiên cứu chủ nghĩa Mác sâu sắc hơn để rồi tiếp thu
học thuyết của các ông một cách có chọn lọc, không rập khuôn máy móc, khơng sao
chép giáo điều. Người tiếp thu lý luận Mác - Lênin theo phương pháp mácxít, nắm lấy
cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện
chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách
mạng Việt Nam, chứ khơng đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
Thế giới quan và phương pháp luận Mác Lênin đã giúp Hồ Chí Minh tổng kết kiến
thức và kinh nghiệm thực tiễn để tìm ra con đường cứu nước: “trong cuộc đấu tranh, vừa
nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tơi hiểu được rằng chỉ
có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và
những người lao động trên thế giới”; “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng
chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”; “Chính
là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo phù

hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to
lớn”.
II.2. Yếu tố chủ quan:
2.1. Khả năng tư duy và trí tuệ của Hồ Chí Minh
 Tư duy Hồ Chí Minh là sự kết tinh từ tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại,
là tài sản tinh thần quý báu của nhân dân ta, giá trị hợp thành nền văn hóa Việt
Nam. Mặc dù thể hiện cái riêng, nhưng phong cách tư duy của Người không xa lạ mà
mang tính lan tỏa, tác động tích cực tới hành động của các thế hệ người dân Việt Nam yêu
nước nói riêng, nhân dân u chuộng hịa bình trên thế giới nói chung.
 Được hình thành từ con người có đức dày, tâm trong, trí sáng, tầm cao trí tuệ,
nhân cách, ý chí lớn lao, hoạt động phong phú, đa dạng trên không gian, thời gian rộng
lớn, với nhiều lĩnh vực, vị trí cơng việc khác nhau, nhưng phong cách tư duy Hồ Chí
Minh là biểu hiện đặc sắc của sự độc lập, tự chủ, sáng tạo.
 Hồ Chí Minh là người tiếp thu những tư tưởng tiến bộ ở trong nước và thế giới,
kết hợp nhân tố chủ quan rồi tạo thành tư tưởng của mình, nhưng tư tưởng của Người
không phải là con số cộng của nhiều luồng tư tưởng, học thuyết, mà là sự kết tinh luồng
ánh sáng trí tuệ của dân tộc và nhân loại. Được như thế là bởi Hồ Chí Minh có tư duy
độc lập, tự chủ, biết kế thừa có chọn lọc những tư tưởng, nguyên lý của các nhà lý
luận, nhà tư tưởng của dân tộc Việt Nam và thế giới. Nhiều người nước ngồi cảm
nhận, trong phong cách Hồ Chí Minh có dáng dấp của V.I. Lê-nin, Găng-đi, của Oa-sinhtơn,… thậm chí cịn thấy có một số nét của chính mình. Phong cách Hồ Chí Minh là riêng
biệt, đặc sắc, điều mà khơng ít người khát khao muốn học tập. Nhà thơ Liên Xơ Ơ-xíp
Man-đen-sơ-tam, vào cuối năm 1923, sau khi gặp gỡ, trò chuyện với Nguyễn Ái Quốc, đã
viết một bài đăng báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ), có đoạn: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra
một thứ văn hóa, khơng phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai,…
8


Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như
nghe thấy ngày mai, như thấy sự n tĩnh mênh mơng của tình hữu ái tồn thế giới”.


 Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ từ sớm và được rèn giũa qua bao nhiêu
năm tháng hoạt động cách mạng. Năm 1923, Người kể lại với một người bạn nước ngồi:
“Khi tơi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác
ái,… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những
gì ẩn đằng sau những chữ ấy”.
 Vì có tư duy độc lập, tự chủ, nên Người chọn con đường sang Pháp, các nước
Châu Âu, Châu Mỹ và đi hầu khắp các châu lục khác để nghiên cứu, khảo sát, tìm mục
tiêu, con đường cứu nước mới, phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và xu thế của thời đại.
Từ người tìm đường, Hồ Chí Minh trở thành người mở đường, người dẫn đường cho dân
tộc Việt Nam phát triển.
 Hồ Chí Minh có tư duy sáng tạo. Sáng tạo, sáng tạo và sáng tạo là tư duy của
Người trong cuộc sống. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng Việt Nam là
một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Người cho rằng: “Lý luận do kinh
nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta, do kinh nghiệm từ trước và kinh nghiệm
hiện nay gom góp phân tích và kết luận những kinh nghiệm đó thành ra lý luận. Nhưng
phải biết khéo lợi dụng kinh nghiệm. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng một mực
bắt chước làm theo thế ấy. Thí dụ: nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra
khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà khơng xét hồn cảnh nước mình như thế nào để làm cho
đúng”.
2.2. Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn
 Với mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và
sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có hiệu quả
cho dân tộc và nhân loại.Có được điều đó là nhờ vào nhân cách, phẩm chất và tài năng trí
tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh.
 Phẩm chất, năng lực hoạt động đó được biểu hiện trước hết ở tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nhận
xét, đánh giá các sự vật sự việc chung quanh.
 Phẩm chất, năng lực hoạt động đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh kiên định,
luôn tin vào nhân dân; khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi; nhạy bén với cái mới, có
phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã khám phá

ra lý luận cách mạng thuộc địa trong thời đại mới trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống
quan điểm toàn diện, sâu sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định
ra các quyết sách đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
 Những phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động của Hồ Chí Minh cịn biểu hiện
ở sự khổ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một
nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu
nước thương dân, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc
của đồng bào.
9


Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cịn là người có năng lực tổng kết thực tiễn và dự báo
tương lai. Đây không phải là một năng lực trừu tượng mà nó là kết quả của tri thức và
kinh nghiệm. Một dự đoán được coi là đúng đắn, khoa học, bao giờ cũng là kết quả của
q trình tích lũy thơng tin, dữ liệu, phân tích hàng loạt sự kiện trong nước và thế giới,
tổng kết thực tiễn lịch sử và hiện tại ra quy luật vận động của hiện thực, vận dụng nó để
phán đốn những diễn biến mới phát triển, xu hướng phát triển mới của tình hình - đây là
dự báo khoa học. Người lãnh đạo chủ chốt như Hồ Chí Minh thì năng lực này là rất quan
trọng để vạch ra đường lối, chính sách có khả năng xoay chiều được tình thế, đưa cách
mạng và đất nước tiến lên.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa
nhân loại với chủ nghĩa Mác Lê-nin làm nền tảng. Từ thực tiễn dân tộc và thời đại qua
sự tiếp biến và phát triển của Hồ Chí Minh- một con người có tư duy sáng tạo, có phương
pháp biện chứng, có nhân cách, phẩm chất cách mạng cao đẹp tạo nên. Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã trở thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
III. Trong các yếu tố hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, Chủ nghĩa Mác - Lênin là
nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất cách mạng và khoa học của tư
tưởng Hồ Chí Minh
 Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các quan điểm lý luận và phương

pháp khoa học được kết tinh và là đỉnh cao thành tựu trí tuệ của lồi người, của tinh
hoa văn hóa mà nhân loại sáng tạo ra. Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy
nhân loại, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của các đảng cộng
sản và công nhân trong đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa
 Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, là cơ sở hình thành
thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí Minh. Nhờ đó mà Người đã
có bước phát triển về chất từ một người yêu nước trở thành một chiến sĩ Cộng Sản lỗi lạc
tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.
Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh có bước nhảy
vọt lớn: kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp dân tộc với
giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; nâng chủ nghĩa yêu nước lên một trình độ
mới trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ đây, Người thực sự tìm thấy con
đường cứu nước chân chính, triệt để: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" và "chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản
thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới"
 Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lê nin đối với chúng ta những người cách mạng và nhân dân Việt nam, không những là cẩm nang thần kỳ,
không những là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng đường chúng ta đi tới
thắng lợi cuối cùng, đi tới xã hội chủ nghĩa”
10


 Đối với chủ nghĩa Mác - Lê nin, Hồ Chí Minh đã nắm vững cái cốt lõi, linh hồn
của nó, là phương pháp biện chứng duy vật, học tập, lập trường, quan điểm, phương pháp
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
 Người đã tổng kết kinh nghiệm, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của đất nước để từ đó đưa cách mạng đi lên thắng lợi. Người đã tiếp thu và
chuyển hóa những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hóa của dân tộc và của
nhân loại tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch sử.

Vì vậy, trong q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa Mác - Lênin
có vai trị to lớn, là cơ sở, nguồn gốc quan trọng nhất, là nhân tố quyết định trực tiếp đến
bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí Minh ln khẳng định: Chủ
nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học nhất, cách mạng nhất, “muốn
cách mạng thành công, phải đi theo chủ nghĩa Karl Marx và chủ nghĩa Lê-nin”. Đối với
Người, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở theo chủ nghĩa Karl Marx và chủ nghĩa Lênin. Đối
với Người, chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Người không bao giờ xa rời chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời kiên quyết chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
 Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là một nguồn gốc - nguồn gốc chủ yếu nhất,
của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ phận hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư
tưởng Hồ Chí Minh. Khơng thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngồi hệ tư tưởng Mác Lênin, hay nói cách khác, khơng thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của nó
là chủ nghĩa Mác - Lênin. Cho nên, có thể nói, ở Việt Nam, giương cao tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng là giương cao chủ nghĩa Mác - Lênin. Muốn bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa
Mác - Lênin một cách có hiệu quả, phải bảo vệ, quán triệt và giương cao tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đó là lịch sử mà cũng là lơ-gíc của vấn đề. Nó giúp chỉ ra sai lầm của quan niệm
đối lập tự tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin.

11


KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát
triển của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh, tư tưởng Hồ
Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị đúng đắn của
cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần quý báu
của dân tộc và nhân loại.
Bước vào thế kỷ mới, tình hình quốc tế và trong nước đặt ra cho chúng ta yêu cầu
cấp bách là không những phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh mà cịn phải bảo vệ và phát triển học thuyết cách mạng và khoa học

ấy lên một tầm cao mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác - Lênin, bắt
nguồn chủ yếu từ chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng khơng hồn tồn đồng nhất với chủ
nghĩa Mác - Lênin, mà là sự tổng hịa, sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa truyền thống Việt
Nam, tinh hoa văn hóa nhân loại với chủ nghĩa Mác - Lênin, trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin nằm trong sự thống nhất hữu
cơ; cả hai đều là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta.

12


ĐỀ TÀI 2
Vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính,
chí cơng vơ tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức, lối sống cho sinh
viên Việt Nam hiện nay.
LỜI MỞ ĐẦU
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về đạo đức và thực hành đạo đức. Ở Người,
đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đời công và đời tư,
giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường. Chính vì thế, bất cứ người Việt Nam nào
cũng có thể tìm thấy những vấn đề đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt ra rất gần gũi với mình.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù
hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là
nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ nhất định. Chính tấm
gương đạo đức trong sáng, trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư là sự quy tụ đặc sắc nhất những giá trị của đạo đức cách mạng của Người. Đặc biệt,
việc Hồ Chí Minh giải thích cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư bằng thực tiễn, bằng
tấm gương rèn luyện đạo đức cần mẫn hằng ngày của Người, đã củng cố thêm giá trị
những phẩm chất này, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống nhân dân. Đến ngày nay,
những chuẩn mực đó vẫn là một nội dung đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng đạo
đức lối sống của sinh viên Việt Nam. Để làm rõ hơn vấn đề này, nhóm 6 đã phân tích đề
tài “Vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí

cơng vơ tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay.” Việc vận dụng các chuẩn mực trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đạo đức lối sống
cho sinh viên là công việc hết sức cần thiết và cập nhật, bởi vì như chúng ta đã biết, nước
ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế thị trường, bên
cạnh những mặt tích cực cũng tồn tại nhiều mặt trái, tiêu cực cần khắc phục và hạn chế
như: buôn lậu, trốn thuế, làm hàng giả, nạn tham ơ, tham nhũng... Chính vì vậy, đòi hỏi
chúng ta, nhất là sinh viên phải nhận thức một cách sâu sắc hơn những tư tưởng của Hồ
Chí Minh về trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư để phát
triển, xây dựng đất nước.

13


I. Cơ sở lý luận
I.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - một người cộng sản mẫu mực, một tấm gương sáng
cho mọi người noi theo. Cả cuộc đời Người “trung với nước, hiếu với dân, cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vô tư”
Cụ thể, Người đã chỉ rõ nội hàm của từng đức như sau:
Trung với nước là sự trung thành với sự nghiệp dựng nước, giữ nước và xây
dựng đất nước của nhân dân.
Hiếu với dân không phải chỉ là thương dân mà cịn là gần dân, gắn bó với dân,
kính trọng và học tập dân, lấy dân làm gốc.
Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, không phải một sớm, một chiều mà
thường xuyên, liên tục; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với
tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Phải thấy rõ
“lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.
Kiệm tức là tiết kiệm, không xa xỉ, khơng hoang phí, khơng bừa bãi và khơng
phải là bủn xỉn; tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của
nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành

cái to, không phô trương hình thức,khơng liên hoan, chè chén lu bù.
Liêm tức là “ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của dân”; “khơng xâm
phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không
tham lam, không tham địa vị, không tham tiền tài, không ham người tâng bốc mình,
khơng tham danh tiếng, khơng tham ăn ngon, sống n. Vì vậy mà quang minh chính đại,
khơng bao giờ hủ hóa.
Chính nghĩa là “khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn”. Đối với mình, khơng tự cao, tự
đại, ln chịu khó học tập, rèn luyện, cầu tiến, ln tự kiểm điểm để phát triển điều hay,
hạn chế điều xấu của bản thân. Đối với người, khơng nịnh hót người trên, không xem
khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa
lọc. Đối với việc, đặt việc công, việc nước lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí cơng vơ tư là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi
hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

14


I.2. Tấm gương đạo đức cách mạng “trung với nước, hiếu với dân, cần, kiệm,
liêm, chính, trí cơng vơ tư” khơng thể khơng kể đến Chủ tịch Hồ Chí Minh (1980
- 1969)

Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung là nhà cách mạng,
người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và
lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong
thế kỷ XX, một chiến sĩ cộng sản quốc tế.
Người khẳng định đạo đức là gốc của người cách mạng, muốn làm cách mạng
phải lấy đạo đức làm gốc. Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất
bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi và thành công cũng vẫn giữ
vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo

hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người nói “phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân".
Cả cuộc đời người lo cho nước, cho dân. Suốt cả cuộc đời mình, Người ln vì
dân, vì nước, đấu tranh khơng mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Người yêu
cầu cán bộ, chiến sĩ quân đội phải thấm nhuần sâu sắc rằng, quân đội từ nhân dân mà ra,
vì nhân dân mà chiến đấu; mọi người phải biết kính già, yêu trẻ, đúng đắn với phụ nữ.
Quân đội phải hết lòng, hết sức giúp đỡ nhân dân, đặc biệt trong thiên tai, đói rét. Vì rằng,
“Dân như nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh
thắng giặc”. Người tiếp tục nhắc nhở điều này trong Bài nói tại Hội nghị kiểm thảo chiến
dịch đường số 8: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình khơng phải là “cứu tinh” của
dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân. Tất cả quân nhân phải làm cho dân tin,
dân phục, dân yêu. Phải làm thế nào để khi mình chưa đến, thì dân trơng mong, khi mình
đến thì dân giúp đỡ, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Muốn vậy, bộ đội phải giúp
đỡ dân, thương yêu dân”.
15


Hồ Chí Minh ln “cần kiệm liêm chính, chí cơng vô tư” từ trong suy nghĩ đến
hành động; từ cuộc sống đời thường đến vị thế một nguyên thủ quốc gia và cho đến lúc
đi xa. Người lựa chọn cuộc sống cần kiệm, giản dị, chan chứa tình yêu thiên nhiên,
không màng danh vọng, không ham của cải, chẳng ưa sự xa hoa và những nghi thức
sang trọng, Hồ Chí Minh từng nói, người ta ai cũng muốn ăn ngon, mặc đẹp, nhưng điều
quan trọng là phải thiết thực và phù hợp, đúng thời, đúng hoàn cảnh. Người ăn mặc đều
giản dị và tiết kiệm và đó là lối sống của Người…và Người đã từng nói với một đồng chí
lãnh đạo cấp cao của Đảng chân tình rằng: “Này chú! Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mặc
áo vá vai thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cuốc đất trồng rau
Để góp phần chống nạn đói năm 1945, Người đã kêu gọi đồng bào cả nước nêu
cao tinh thần tương thân, tương ái, nhường cơm, sẻ áo: “Lúc chúng ta nâng bát cơm
mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta khơng khỏi động lịng. Vậy tơi xin đề nghị với đồng
bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3
bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo. Như vậy, thì những người nghèo
sẽ có bữa rau, bữa cháo để chờ mùa lúa năm sau, khỏi đến nỗi chết đói”. Người gương
mẫu nhịn ăn, để dành gạo cho vào hũ gạo cứu đói, Người cịn bán chiếc áo lụa đồng
bào tặng lấy tiền mua áo ấm tặng cho chiến sĩ trong mùa đông giá rét và đem số tiền
tiết kiệm ít ỏi vốn là tiền nhuận bút của mình để mua nước ngọt tặng cho các chiến sĩ trực
phịng khơng trong những ngày hè nóng bức năm 1967.
Sự tiết kiệm, giản dị, thanh liêm càng được thể hiện đậm nét trong cuộc sống
sinh hoạt hàng ngày của Người. Về bữa ăn: Bác ưa các món dân gian, dưa cà, mắm
tép, cá kho. Khi đi công tác địa phương, Bác dặn các đồng chí phục vụ chuẩn bị cơm nắm,
thức ăn từ nhà hoặc mang nồi đi nấu cho tiết kiệm, tránh các nơi đón tiếp linh đình, lãng
phí. Về trang phục: Bác thường xun mặc bộ kaki, đi dép lốp cao su, dùng túi vải,
mũ cát, kể cả khi đi công tác. Về ở: Bác không chọn dinh thự cao cấp, đầy đủ tiện
nghi sang trọng mà là mấy gian nhà vốn là nơi ở của người thợ, chọn một căn nhà sàn,
Bác sống giản dị đến giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng “trung với nước, hiếu với dân,
cần, kiệm, liêm, chính, trí cơng vơ tư” của Chủ tịch Hồ Chí Minh ln là những giá
16


trị đạo đức cao đẹp của thời đại. Trải qua thời gian và thử thách, trước những biến cố
thăng trầm của lịch sử, những phẩm chất đạo đức đó vẫn còn nguyên giá trị. Tiếp tục học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc làm vô cùng quan trọng và
cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân ta.
II. Vận dụng để xậy dựng đạo đức lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện nay


II.1. Trung với nước, hiếu với dân
1.1. Trung với nước, hiếu với dân trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh những
phẩm chất đạo đức vốn có từ xa xưa trong tư tưởng đạo đức truyền thống phương
Ðơng nói chung và đạo đức truyền thống Việt Nam nói riêng.
Theo Người trung với nước là trung thành với lợi ích của quốc gia, dân tộc, với sự
nghiệp đấu tranh cách mạng của Ðảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa... Nước ở đây với ý nghĩa “Dân là con nước, nước là mẹ
chung”, là nước của dân, của tồn dân tộc chứ khơng phải của riêng ai, và chính mỗi
người dân là những “chủ nhân ơng” của đất nước. Mối quan hệ nước-dân, dân-nước mang
ý nghĩa nhân văn sâu sắc, hòa quyện với nhau trong một thể thống nhất về trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi công dân với cộng đồng, quốc gia, dân tộc.
Chuẩn mực đạo đức trung với nước ấy đã được thế hệ trẻ đặc biệt là sinh viên
kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Minh chứng cho lời khẳng định
đó là chúng ta có thể thấy sự kiện gần đây khi dịch Covid-19 đang bùng phát, sinh viên
đã rất có ý thức trong việc thực hiện các yêu cầu của nhà nước trong việc phòng
tránh dịch bệnh, bên cạnh đó sinh viên cũng là lực lượng đi đầu trong việc tuyên
truyền, vận động người dân có ý thức phòng tránh, cách ly để ngăn chặn dịch bệnh,
khai báo y tế một cách trung thực để tình hình dịch bệnh nhanh chóng được kiểm sốt.
Nhằm hỗ trợ cho cơng tác cách ly những người Việt ở nước ngồi trở về nước, sinh viên
cũng sẵn sàng dọn đồ đạc lúc đêm khuya để nhường chỗ cách ly và không quên để lại lời
động viên cho những người có nguy cơ nhiễm bệnh Covid. Chỉ một hành động nhỏ này
thôi cũng có thể thấy sinh viên là những người vơ cùng yêu nước, sẵn sàng đứng lên khi
Tổ quốc cần. Tiếp đó là thơng qua sự kiện nóng những ngày trở lại đây, ta lại càng thấy
17


thêm chuẩn mực đạo đức “trung với nước” đang được thế hệ trẻ ngày nay kế thừa và phát
huy. Thời điểm gần đây, khi mà cả thế giới đang lao vào phịng chống dịch bệnh thì
Trung Quốc tranh thủ đẩy mạnh hành vi thơn tín biển Đơng, Bắc Kinh loan báo thành
lập hai quận hành chính để quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung

Quốc tự cho là của họ nhằm thực hiện âm mưu đường lưỡi bị ở biển Đơng, bất chấp
tun bố chủ quyền của Việt Nam. Đứng trước hành động đó, Đảng và nhà nước ta cực
lực phản đối và yêu cầu phản đối mạnh mẽ việc thành lập cái gọi là “thành phố Tam Sa”
và các hành vi có liên quan vì đã vi phạm nghiêm trọng chủ quyền của Việt Nam. Đứng
trước hành động đó, những người nổi tiếng bên Trung có lượng fan khá đơng đảo là
sinh viên Việt Nam chia sẻ đường lưỡi bị thì sinh viên đã có những chính kiến của
mình chung tay, đồng lịng đứng về phía Đảng và nhà nước ta. Khi mà đa số những
người nổi tiếng bên Trung Quốc (là những người có lượng fan khá đông đảo đến từ các
bạn trẻ trong đó có một phần khơng nhỏ là sinh viên Việt Nam) chia sẻ “đường lưỡi bò”
ủng hộ cho hành vi sai trái của Trung Quốc thì sinh viên Việt Nam đã có những chính
kiến của mình, khơng vì u mê thần tượng mà ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia. Qua đây, ta
có thể thấy chuẩn mực đạo đức “trung với nước” trải qua nhiều năm vẫn còn giữ được
nguyên vẹn giá trị đến ngày nay và tiếp tục được kế thừa và phát triển.
Đối với chuẩn mực đạo đức “hiếu với dân” theo Hồ Chí Minh hiếu với dân
khơng phải chỉ là hiếu với cha mẹ mình như người xưa vẫn nói, mà là hiếu với nhân dân,
với tồn dân tộc, vì “nước lấy dân làm gốc”, dân là “gốc” của nước.
 Hiếu với cha mẹ: Cha mẹ nuôi dưỡng chúng ta thành người, vì thế hiếu
thảo với cha mẹ là điều mà ai cũng nên làm. Một khi hiểu được chữ “Hiếu”, ông Trời ắt
để dành phúc phận cho. Người xưa từng dạy: Thái độ đối đãi của một người đối với cha
mẹ mình, có ẩn chứa phần tính cách chân thực nhất của họ. Có một số người khi đối xử
với người thân trong gia đình mình thường giữ tư tưởng độc đoán bảo thủ.Thế nào là độc
đốn bảo thủ? Chính là áp đặt tư tưởng quan điểm của mình lên cha mẹ lên người thân.
Bởi tư tưởng bảo thủ độc đốn gia trưởng đó, rất nhiều khi họ sẽ tự làm tổn thương tới
bản thân cũng làm tổn thương tới cha mẹ mình.Cha mẹ sinh ra ta mới mãi mãi là chỗ dựa
lớn nhất, mới là tài sản đáng quý nhất chúng ta có.Khi chúng ta hiếu thuận với cha mẹ
mình, thứ chúng ta có được không chỉ là danh tiếng. Bởi đối xử hiếu thuận với cha mẹ
chính là biểu hiện phẩm chất đạo đức làm người.
 Hiếu với dân tộc: Bác Hồ từng chỉ rõ: “Trong bầu trời khơng gì q bằng
nhân dân... Trong xã hội khơng có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của
nhân dân”; "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau có tình có nghĩa như thế. Từ khi có

Ðảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng
bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà... đạo đức ngày nay cao rộng hơn:
không phải chỉ có hiếu với bố mẹ, mà trung với nước, hiếu với dân”. Người kiên quyết
cách mạng nhất lại là người đa tình, chí hiếu nhất. Sinh viên là thế hệ tương lai của đất
nước, cần dấn bước vào đời với quyết tâm lớn, với những hành động quyết liệt, vì mục
đích đưa đất nước bước lên tầm cao mới, khẳng định được tư thể tồn tại đường hoàng của
mình trước thế giới, nhân loại. Thế hệ trẻ cần phải biết không ngừng khám phá, sáng tạo,
“đi con đường người trước đã đi bằng rất nhiều lối mới. Một triết gia Trung Hoa đã
từng viết “dân là nước, nước có thể chở thuyền mà cũng có thể lật thuyền”. Dân là
18


sức mạnh, nguồn sống của đất nước, dân có được yên ổn, ấm no thì đất nước mới được
yên ổn và giàu mạnh. Vì thế, sinh viên chúng ta hiện nay cần phải bình ổn đồn kết
một lịng, chung tay góp sức nhỏ để tạo lên điều lớn lao giúp ích cho Tổ quốc bởi
“dân là gốc của nước nhà, gốc có vững thì nước nhà mới n”.
1.2. Trung với nước, hiếu với dân theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện
trong mọi cơng việc cách mạng của Ðảng, trong từng suy nghĩ, việc làm cụ thể của mỗi
sinh viên hiện nay. Ðó là, lịng u nước thương nòi, tự hào với truyền thống vẻ vang của
dân tộc; là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp của
Ðảng và dân tộc, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vươn lên vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng; là
sự tin yêu, kính trọng nhân dân. Và để phát huy hơn nữa chuẩn mực đạo đức trung với
nước hiếu với dân thì sinh viên cần:
 Một là bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc
bồi dưỡng thế hệ trẻ, nội dung hàng đầu là xây dựng đạo đức cách mạng, giáo dục tư
tưởng xã hội chủ nghĩa và gột rửa chủ nghĩa cá nhân.
 Hai là bồi dưỡng tri thức lý luận và văn hóa, khoa học kĩ thuật theo chủ tịch
Hồ Chí Minh, thanh niên phải vừa có đức, vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà khơng có
tài thì làm việc gì cũng khó, người có tài mà khơng có đức sẽ trở lên vơ dụng. Hơn nữa,

chính sự dốt nát là một trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển. Vì vậy,
để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài, bên cạnh việc trao đổi cách mạng,
thanh niên cần phải hăng hái học tập, trong đó học tập lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Nghiên cứu học tập lý luận nhằm trang bị và nâng cao trình độ lý luận cách mạng - đèn
pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn.
 Ba là bồi dưỡng thể chất, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac- Lenin chỉ ra rằng
tương lai loài người hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ trẻ toàn diện, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến sự phát triển tồn diện và trong đó có thể chất. Theo
Người, việc giữ gìn dân chủ xây dựng nước nhà thực hiện theo đời sống mới tất cả đều
cần sự khỏe mạnh. Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương sáng để rèn luyện thể
dục thể thao, coi việc bồi bổ sức khỏe vừa là nhiệm vụ, vừa là bổn phận của mỗi người
dân yêu nước.
1.3. Bên cạnh những những bạn sinh viên nỗ lực hết mình rèn luyện đạo đức, lối
sống thì vẫn cịn một bộ phận nhỏ các bạn sinh viên đang dần quên đi đạo đức
truyền thống trong khi mà những chuẩn mực đạo đức đó vẫn cịn giá trị trong xã hội
ngày nay. Vì vậy, cần giáo dục đạo đức cho sinh viên là yêu cầu cấp thiết để góp phần
ngăn chặn nguy cơ suy thối đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh tồn
cầu hố hiện nay. Để làm được điều này, cần sự nỗ lực rất lớn đối với sinh viên, cụ thể: (
Vì vậy mỗi sinh viên chúng ta cần: )
Một là, sinh viên cần luôn ghi nhớ nhiệm vụ “trung với nước, hiếu với dân”,
suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người. Sinh viên cần phải tuyệt đối trung thành với Đảng, tin tưởng vào Đảng và nhà
nước ta. Khơng nghe, tin theo và tun truyền những hình ảnh khơng tốt, vu khống, hạ
thấp uy tín của Đảng và nhà nước ta. Không tham gia các tổ chức phản động nhằm phá
19


hoại Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Sinh viên được giáo dục và giáo dục
một cách thường xuyên, sâu rộng để mỗi người nhận thức sâu sắc và đầy đủ về truyền
thống trung, hiếu của dân tộc, về những hy sinh to lớn của các thế hệ ơng cha ta để chúng

ta có được ngày nay, qua đó nâng cao tinh thần yêu nước, tự hào về truyền thống anh
hùng của dân tộc, coi đó là lương tâm, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam yêu nước.
Trung với nước ngày nay là trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hóa, bảo vệ Đảng, chế độ,
nhân dân và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước.
Hai là, chúng ta đang sống ở trong thời bình là nhờ xương máu, sự hi sinh của ông
cha ta. Chúng ta cần phải biết ơn đến những công lao to lớn của các thế hệ trước.
Chúng ta sống trong thời bình khơng có nghĩa là qn đi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc bởi có
rất nhiều thù địch đang hướng đến nước ta nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Kiên
quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ của các thế lực thù địch, cơ hội
hịng chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đồn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với nhân dân.Giới
trẻ ngày nay,đặc biệt là thế hệ sinh viên sẽ là cầu nối giữa hai thế hệ cũ và mới,giúp đất
nước trở thành khối đại đoàn kết dân tộc. Đoàn kết là yêu nước, chia rẽ là làm hại cho đất
nước. Phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với cơng việc, có lương tâm nghề nghiệp
trong sáng; quyết tâm phấn đấu để thành đạt và cống hiến nhiều nhất cho đất nước,
cho dân tộc; quyết tâm xây dựng quê hương giàu đẹp, văn minh. Vận dụng sáng tạo
các tri thức khoa học, công nghệ hiện đại, các sáng kiến trong sản xuất, cơng tác, hồn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mọi sự bảo thủ, trì trệ, lười học tập, ngại lao động,
đòi hỏi hưởng thụ vượt quá khả năng và kết quả cống hiến là trái truyền thống đạo lý dân
tộc và trái với tư tưởng yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ba là, Sinh viên cần thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của công
dân như quyền bầu cử, thực hiện nghĩa vụ quân sự,… chấp hành các quy định của
pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm pháp luật. Không vi phạm các nội quy tại
trường lớp, nơi cư trú, bài trừ những tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu, tiếp thu có chọn lọc
tinh hoa văn hóa thế giới. Chúng ta nên xây dựng nếp sống văn hóa kính trên nhường
dưới, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, tôn sư trọng đạo, phát huy truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta. Ln đặt lợi ích tập thể lên lợi ích cá nhân, tích cực tham gia các hoạt động của
trường lớp của Đoàn và xã hội. Hăng hái tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường,
tuyên truyền cho mọi người về tầm quan trọng của bảo vệ môi trường.
II.2. Xây dựng đạo đức lối sống “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” cho sinh

viên Việt Nam hiện nay.
Sinh viên là lực lượng trí thức, trẻ tuổi, là tương lai của một đất nước. Nhiệm vụ
chính của sinh viên là học tập, nghiên cứu, việc có thể hiểu rõ và vận dụng những phẩm
chất “Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” trong thời đại mới có nhiều biến động hiện
nay là điều có ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
2.1. Thực trạng đạo đức lối sống của sinh viên hiện nay
Xã hội Việt Nam, trong hai thập kỷ trở lại đây, đã phát triển vơ cùng nhanh chóng.
Sinh viên là những người trẻ được nuôi dạy trong thời đại mới của đất nước đã có
những lối sống mới, hiện đại hơn. Tuy nhiên cùng với những mặt tích cực như lối
20


sống tự do, hội nhập vẫn tồn tại những mặt trái là hệ quả của cuộc sống hiện đại. Đó
là một lối sống lãng phí, thiếu ý chí xa rời những lời răn dạy đúng đắn của những
cha ông đi trước. Những triết lý mà Bác đã truyền lại vẫn cịn giữ ngun giá trị cho đến
ngày nay. Đó là những tư tưởng mang tính thời đại, là những điều mà Bác có thể nhìn
nhận cách đây gần 50 năm đúng với những người trẻ là tương lai của đất nước. Nhiệm vụ
chúng ta cần hiểu sâu sắc ý nghĩa tư tưởng của Bác về những triết lý “Cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư” và vận dụng vào cuộc sống trong thế kỉ XXI ngày nay.
2.2. Vận dụng xây dựng đạo đức lối sống cho sinh viên Việt Nam hiện nay
“Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm và ln dành những tình cảm
u thương, ân cần, quan tâm, chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho thế
hệ trẻ, cán bộ, đảng viên trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước.”
Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư” trong thời đại mới của thế kỷ XXI
Nếu như đối với nhiều bạn sinh viên trẻ “Cần” chỉ đơn giản là việc siêng năng chăm
chỉ làm việc, thì trong tư tưởng Hồ Chí Minh chữ “Cần” có ý nghĩa nhiều hơn thế. Sinh
viên khơng chỉ trang bị cho mình sự chăm chỉ mà cịn phải làm việc có hiệu quả và
đạt năng suất cao, chủ động và chân quý việc lao động, coi lao động là nghĩa vụ
thiêng liêng, là nguồn sống hạnh phúc. Điều này đặc biệt quan trọng khi Việt Nam được
xem là nước có năng suất lao động thấp tại khu vực Châu Á. Để đạt được những điều

trên, sinh viên cần phải coi trọng việc học đại học, coi trọng nghiên cứu và tri thức, tham
gia vào hoạt động sản xuất, tình nguyện giúp đỡ gia đình và xã hội để có thêm kinh
nghiệm.
Sinh viên Việt Nam rèn luyện, thể hiện “Kiệm” thông qua những công việc
hàng ngày. Nếu như trước đây, người ta chỉ hiểu “Kiệm” không chỉ là tiết kiệm về của
cải, vật chất nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Bác nhấn mạnh vào việc mà cịn là tiết
kiệm thời gian và sức lực. Điều đó thể hiện ở việc sắp xếp công việc hiệu quả, khoa học,
tối ưu hóa được việc sử dụng thời gian như lời Bác dạy “Tiết kiệm về vật chất phải đi đôi
với tiết kiệm về thời giờ, bởi của cải nếu hết, cịn có thể làm thêm. Khi thời giờ qua rồi,
khơng bao giờ kéo nó trở lại được”. Sinh viên cần nghiên cứu để có thể tăng năng suất
lao động, gia tăng giá trị của bản thân trên thị trường và góp phần vào q trình
phát triển kinh tế. Để nâng cao năng suất lao động, những người trẻ cần ứng dụng những
thành tự khoa học kỹ thuật của thế giới, nhất là thành tựu của cuộc cách mạng 4.0 để tối
ưu hóa q trình làm việc và cắt giảm các khâu thừa. Với việc các phương tiện thông tin
đại chúng, chương trình giải trí, mạng xã hội, nhãn hàng, quảng cáo ngày càng “bủa vây”
lấy tâm trí, những người trẻ khơng nên bị sao nhãng cơng việc chính, mất quá nhiều thời
gian để trực tuyến trong một ngày. Sinh viên cần Biết rõ nhu cầu và khả năng tài chính
của mình để khơng bị các nhãn hàng, những quảng cáo hấp dẫn và mua những sản
phẩm xa xỉ, không phù hợp với bản thân và trở thành gánh nặng cho gia đình.
Những bạn sinh viên nên khơng chỉ rèn luyện bản thân mình mà cịn cần phải lan
tỏa phẩm chất “Cần, kiệm” tới cộng đồng xung quanh mình, dù cộng đồng đó nhỏ hay
lớn. Ví dụ như: vận động mọi người cùng thực hiện việc bảo vệ môi trường, bảo vệ những
người yếu thế trong xã hội, trở thành tình nguyện viên, hiến máu nhân đạo,...
21


Sinh viên trong ngày nay cần phải đề cao chữ “Liêm”, thậm chí cịn phải coi nó
như đức tính khơng thể thiếu của bản thân và những bạn trẻ khác. Khi kinh tế ngày càng
phát triển, nền kinh tế thị trường tự do, người lao động làm việc năng suất cao hơn, tạo ra
nhiều của cải vật chất, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam, việc

khơng Sinh viên cần giữ mình trước cám dỗ mà nhiều cán bộ, công chức đã sa vào
tham nhũng và bị xử lý theo quy định của nhà nước. Như đã nói ở trên, sinh viên chính là
tương lai của đất nước vì vậy mà cần nhận thức đúng đắn được “cán bộ phải thực hành
chữ Liêm trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. Các bạn trẻ cần có ý thức đấu tranh với
những biểu hiện tham nhũng, lãng phí nhất là tình trạng “tham nhũng vặt” hiện nay
của Đảng. Ngồi ra sinh viên cần hiểu “Quan tham vì dân dại. Nếu dân hiểu biết, khơng
chịu đút lót, thì "quan" dù khơng liêm cũng phải hố ra Liêm. Vì vậy dân phải biết quyền
hạn của mình, phải biết kiểm sốt cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ Liêm” như Bác
từng nói, dù là nhân dân hay cán bộ, Đảng viên đều cần phải “Liêm” như vậy xã hội sẽ
ngày càng phát triển, văn minh. Trong công việc cần phải nêu cao tinh thần tự phê
bình và phê bình để xây dựng tập thể, đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong xã
hội,... Trong thời đại số, chúng ta ngày càng có thể thực hiện chữ “Liêm” do sức ép của
dư luận, do trình độ dân trí ngày càng nâng cao, do khả năng tiếp cận được thông tin đúng
sự thật ngày càng được cải thiện,... từ khắp mọi miền tổ quốc và trên thế giới. Tuy nhiên,
mọi thứ không thể tuyệt đối, đôi khi thông tin vẫn bị bóp méo nhưng về đa số sinh viên
nên tin vào những điều tốt đẹp và đương nhiên là vẫn tiếp tục lan tỏa điều đó tới càng
nhiều người xung quanh mình.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta nhận thấy rằng sinh viên ngày nay
đang nhìn nhận chưa đúng hoặc coi nhẹ sự thẳng thắn, đứng đắn, trung thực. Chữ thứ tư
“Chính” trong triết lý xây dựng đạo đức lối sống nhấn mạnh tính “Chính” đối với
bản thân, đối với người và đối với việc.
Dù ở nông thôn hay thành thị, sinh ra và lớn lên ở vùng miền nào, chịu ảnh hưởng
của những văn hóa đa dạng, thì người trẻ ngày nay cần ln đặt cho mình những yêu cầu:
“không được tự cao, tự đại, phải khiêm tốn học hỏi, phát triển cái hay, sửa chữa cái dở
của mình; khơng được nịnh người trên, khơng khinh người dưới, thật thà không dối trá”.
Điều này đặc biệt quan trọng vì, như chúng ta đã biết, trên khơng gian mạng xã hội, cá
nhân có thể tự do ngơn luận, đến nỗi họ có thể đã đưa ra những thơng tin giả mạo, những
lời lăng mạ tới cá nhân, tổ chức khác mà không nghĩ đến hậu quả của việc đó. Thiểu số
những bạn trẻ đã sử dụng cơng cụ của thời đại 4.0 này một cách khơng có trách nhiệm,
hay có mục đích xấu, như vậy đều được coi là khơng “Chính” khơng đứng đắn, thẳng

thắn. ( Trong thời đại 4.0 sinh viên cần sử dụng mạng xã hội một cách văn minh,
không đưa những thông tin giả mạo làm ảnh hưởng tới người khác). Ngồi ra trong
mơi trường học tập tự do như trên đại học, nơi mà tinh thần tự giác, tự học được đề
cao sinh viên cần phải học thực chất, không xem nặng điểm số trung thực với chính
bản thân mình, với những kiến thức của mình. Tuổi trẻ cần phải tham gia các hoạt
động thiện nguyện, chung tay vì cộng đồng như hiến máu tình nguyện, giúp đỡ
những hồn cảnh khó khăn, ln có tinh thần cống hiến, để việc công lên việc tư.
“Làm gì cũng phải nghĩ vì đất nước vì tổ quốc”
22


“Thời kỳ đổi mới, hội nhập, tồn cầu hóa, quốc tế hóa đã mang lại nhiều lợi ích to
lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho sự phát triển của đất nước. Bên cạnh đó, sự
tác động của nền kinh tế thị trường, sự du nhập của các loại hình văn hóa, lối sống thực
dụng… Mặt trái của những yếu tố đó đang từng ngày, từng giờ len lỏi vào đời sống xã
hội, tác động và làm băng hoại những chuẩn mực giá trị đạo đức trong xã hội nói chung,
làm suy thối tư cách, phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
nhất là bộ phận đảng viên trẻ. Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách
mạng, phẩm chất “chí cơng vơ tư” đóng vai trị quan trọng, là nền tảng phát huy những
phẩm chất đạo đức cách mạng trong tư tưởng của Người.”

(Nguồn: Hội sinh viên Việt Nam)
Đối với sinh viên, những bạn trẻ ta đề cập tới cụm từ được gọi là “chủ nghĩa cá
nhân”, là lối sống ích kỉ, chỉ biết có mình, thu vén cho riêng mình, chỉ thấy cơng lao của
mình mà quên đi công lao của người khác. Trong thời gian gần đây, thời điểm từ tháng
một tới tháng ba năm 2020 là lúc thế giới đang đối mặt với đại dịch Covid - 19, những
người trong xã hội đã thể hiện các hành vi mà mang đậm chủ nghĩa cá nhân như bán hàng
trục lợi, coi thường tập thể, chủ quan trước bệnh dịch,... Các hành vi đó thực sự đáng lên
án, nhìn nhận như những hành động nghiêm trọng gây hại cho xã hội. Sinh viên Việt Nam
đã được biết những hậu quả khôn lường của “chủ nghĩa cá nhân” lên tồn xã hội, và do đó

sẽ có nhận thức đầy đủ để có những hành vi đúng đắn góp phần xây dựng đất nước và xã
hội. ( Sinh viên cần đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỉ, chỉ biết có
bản thân mình, chung tay xây dựng xã hội tốt đẹp)
23


×