Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.47 KB, 77 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>LỜI NÓI ĐẦU </b>
Việt Nam xác lập quan hệ quốc tế trong đầu tư là một tất yếu khách quan, là đòi hỏi bức xúc của đất nước. Sau bao nhiêu năm đấu tranh chống Pháp rồi chống Mĩ , cho đến khi giải phóng hồn tồn Miền Nam, thống nhất đất nước về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh mún, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thu nhập bình qn đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Việt Nam đang rất cần nhiều thứ cho việc khôi phục và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người lao động. Để thoát khỏi tình trạng khó khăn, tận dụng thế mạnh của hợp tác quốc tế đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nwuwocs là hết sức cần thiết. Nhà nước Việt Nam cũng đã nhận thức được sự cần thiết phải mở cửa nền kinh tế và từ sau đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI (1986) chính sách mở cửa của Việt Nam được thực hiện. Năm 1987, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra đời.
Trong thời gian gần đây, hoạt động FDI vào Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể. Trong đề án này, em không đi sâu vào nghiên cứu những thành công đạt được hay những tồn tại của hoạt động FDI tại Việt Nam trong những năm qua nói chung mà chỉ nghiên cứu một khía cạnh của hoạt động FDI . Đó là vấn đề Quản lí nhà nước đối với FDI. Đây là một yếu tố rất quan trọng quyết định đến hiệu quả của FDI. Trong thời gian qua, việc thực hiện vai trị quản lí nhà nước với FDI đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số tồn tại
Đề án này có thể có những thiếu xót, em rất mong các thầy cô giáo và các bạn sinh viên cho ý kiến để em có thể sửa chữa, bổ sung nhằm hoàn thiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Đinh Đào Ánh Thuỷ đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài!
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">
<b>Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI </b>
<i><b>I. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1. Khái niệm và tính tất khách quan của FDI </b></i>
1.1. Khái niệm
Đầu tư trực tiếp nước ngồi là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và người sử dụng vốn là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài (các chủ đầu tư) trực tiếp tham gia vào q trình quản lí, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi đủ vốn bỏ ra.
1.2 Tính tất yếu khách quan của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Trong lịch sử thế giới, đầu tư nước ngoài đã từng xuất hiện ngay từ thời tiền tư bản. Các công ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha là những công ty đi đầu trong lĩnh vực này dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu Á để khai thác đồn điền và cùng với ngành khai thác đồn điền là những ngành khai thác khoáng sản nhằm cung cấp nguyên liệu cho các ngành cơngn ghiệp ở chính quốc.
Trong thế kỷ XIX, do q trình tích tụ và tập trung tư bản tăng lên mạnh mẽ, các nước công nghiệp phát triển lúc bấy giờ đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ, đó là tiền đề quan trọng đầu tiên cho việc xuất khẩu tư bản. Theo nhận định của Lênin trong tác phẩm “chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản” thì việc xuất khẩu nói chung đã trở thành đặc trưng cơ bản của sự phát triển mới nhất về kinh tế thời kỳ “đế quốc chủ nghiã”. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề đó là mnột hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà q trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngồi. Đó chính là q trình phát triển của sức sản xuất xã hội đến đọ đac vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">quốc gia, hình thành lên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Thông thường, nền kinh tế ở các nước công nghiệp đã phát triển, việc đầu tư ở trong nước khơng cịn nữa. Để tăng thêm lợi nhuận, các nhà tư bản ở các nước tiên tiến đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài, thương là vào các nước lạc hậu hơn vì ở đó các yếu tố đầu vào của sản xuất còn rẻ hơn nên lợi nhuận thu được thường cao hơn. Chẳng hạn như vào thời điểm đầu thế kỷ XX, lợi nhuận thu được từ các hoạt động đầu tư ở nước ngồi ước tính khoảng 5% trong một năm, cao hơn đầu tư ở trong các nước tiên tiến. Sở dĩ như vậy là vì trong các nước còn lạc hậu, tư bản vẫn còn ít, giá đất đai tương đối thấp, tiên công hạ và nguyên liệu rẻ. Mặt khác, các công ty tư bản lớn đang cần nguồn nguyên liệu và các tài nguyên thiên nhiên khác, đảm bảo cung cấp ổn định và đáng tin cậy cho viẹc sản xuất của họ. Điều này vừa tạo điều kiện cho các công ty lớn thu được lợi nhuận cao, vừa giúp họ giữ vững vị trí độc quyền.
Theo Lênin thì “xuất khẩu tư bản” là một trong năm đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản, thông qua xuất khẩu tư bản, các nước tư bản thực hiện viêc bóc lột đối với các nước lạc hậu và thường là thuộc địa của nó. Nhưng cũng chính Lênin khi đưa ra “chính sách kinh tế mới” đã nói rằng: những người Cộng sản phải biêt lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật của Chủ nhĩa Tư bản thơng qua hình thức “ tư bản nhà nước”. Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận” phần nào sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản để phát triển kinh tế, như thế có thể cịn nhanh hơn là tự thân vận động hay đi vay vốn đẻ mua lại những kỹ thuật của các nước công nghiệp phát triển. Mặt khác, mức độ “bóc lột” của các nước tư bản cịn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của nước tiếp nhận đầu tư tư bản. Nếu như trước đây, hoạt động xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc chỉ phải tuân theo pháp luật của chính họ thì ngày nay các nước tiếp nhận đầu tư đã là các quốc gia độc lập có chủ quyền, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tuân theo pháp luật, sự quản lý của chính phủ sở tại và thông lệ quốc tế. Nếu các chính phủ của nước sở tại không phạm những sai lầm trong quản lý vĩ môt thì có thể hạn chế được những thiệt hại của hoạt dộng thu hút đàu tư trực tiếp nước ngoài.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Muốn thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngồi vào một nước nào đó, nước nhận đầu tư phải có các điều kiện tối thiểu như: cơ sở hạ tầng đủ đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt động sản xuất và hình thành một số ngành dịch vụ phụ trợ phục vụ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Chính vì vây, các nước phát triển thường chọn nước nào có điều kiện kinh tế tương đối phát triển hơn để đầu tư trước. Còn khi phải đầu tư vào các nước lạc hậu, chưa có những điều kiện tối thiểu cho việc tiếp nhận đầu tư nước ngồi thì các nước đi đầu tư cũng phải dành một phần vốn cho việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng và một số lĩnh vực dịch vụ khác ở mức tối thiểu đủ đáp ứng yêu cầu của sản xuất và một phần nào đó cho cuộc sống sinh hoạt của bản thân những người nước ngoài đang sống và làm việc ở đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh tế, nền kinh tế của các nước côngnhiệp phát triển lại rơi vào một cuộc suy thối kinh tế. Chính lúc này, để vượt qua giai đoạn khủng hoản và tạo những điều kiện phát triển, đòi hỏi phải đổi mới tư bản cố định. Thơng qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngồi, các nước cơng nghiệp có thể chuyển các máy móc, thiết bị cần thay thế, sang các nước kém phát triển hơn và sẽ thu hồi một phần giá trị để bù đắp những khoản chi phí khổng lồ cho việc mua các thiết bị máy móc mới. Những thành tựu khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng đi vào áp dụng trong sản xuất và đời sống, các chu kỳ kinh tế ngày càng rút ngắn lại. Vì vậy, yêu cầu đổi mới máy móc, thiết bị ngày càng cấp bách hơn. Ngày nay, bất kì trung tâm kỹ thuật tiên tiến nào cũng cần phải có thị trường tiêu thụ cơng nghệ loại hai, có như vậy mới đảm bảo thường xuyên đổi mới kỹ thuật- công nghệ mới.
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho phép hoạt động đầu tư nước ngoài lợi dụng được những ưu thế tương đối của mỗi nước, đem lại lợi ích cho cả hai bên: bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư. Những thuận lợi về kỹ thuật của các cơng ty cho phép nó so sánh với các cơng ty con của nó ơ những vị trí khác nhau do việc tận dụng tư bản chuyển dịch cũng như chuyển giao cơng nghệ sản xuất của nước ngồi tới những nơi mà giá thành thấp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế xã hội, kết quả của q trình phân cơng lao động xã hội mở rộng trên phạm vi tồn thế giới đã lơi kéo tất cả các nước và các vùng lãnh thổ từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, chính sách biệt lập đóng cửa là khơng thể tồn tại vì chính sách này kìm hãm q trình phát triển của xã hội. Một quốc gia hay vùng lãnh thổ khó tách biệt khỏi thế giới vì những thành tựu khoa học kỹ thuật đã lôi kéo con người ở khắp nơi trên thế giới xích lại gần nhau hơn và dưới tác động của quốc tế hoá khác buộc các nước phải mở của với bên ngồi. Vì vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những hình thức kinh doanh quốc tế hữu hiệu nhất hiện nay, đã và đang trở thành phổ cập như một phương thức tiến tạo.
Ngày nay, việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ đã và đang trở thành phương thức hữu hiệu nhất, một yếu tố quan trọng bậc nhất trong cơ cấu ngân sách phát triển của một quốc gia, một hình thức quan trọng và phổ biến trong mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bù đắp sự thiếu hụt về vốn, công nghệ và lao động giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển. Một nước đang phát triển sẽ khai thác tiềm năng vốn có của mình một cách có hiệu qủa hơn khi nhận dược nguồn vốn và công nghệ từ các nước phát triển thông qua việc liên doanh, hợp doanh và các dạng đầu tư BOT,BT,BTO… Mặt khác, các nước phát triển sẽ thu được lợi nhuận cao hơn khi bỏ vốn đầu tư ra nước ngồi- nơi có chi phí đầu vào thấp hơn trong nước. Đầu tư trực tiếp nước ngồi cịn góp phần cải thiện mối quan hệ chính trị giữa các quốc gia, các quan hệ về hợp tác thương mại, vấn đề môi trường, các quan hệ văn hoá xã hội khác, tạo lên tiếng nói chung giữa các cộng đồng và khu vực. Như vây, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một yếu tố khách quan.
<i><b>2. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển </b></i>
2.1 Các tác động: - Tăng trưởng kinh tế:
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Mục tiêu cơ bản trong thu hút FDI của nước chủ nhà là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu này được thực hiện thông qua tác động tích cực của FDI đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: Bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh tốn quốc tế; tiếp nhận chuyển giao cơng nghệ hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp.
- Vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế.
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tê của các nước nhận đầu tư đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Hầu hết cac nước đang phát triển đều rơi vào cái “vịng luẩn quẩn” đó là: Thu nhập thấp dẫn đên tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp rồi hậu quả lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là “điểm nút” khó khăn nhất mà các nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ khơng lựa chọn và tạo ra được điểm đột phá chính xác một mắt xích của “vịng luẩn quẩn” này. Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước đang phát triển đó là vốn đầu tư kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động… Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trơng chờ vào tích lũy nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi sẽ là tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước ngồi sẽ là một “cú hích” để góp phần đột pá cái vịng luẩn quẩn đó. Đặc biệt FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà khơng gây nợ cho nước nhận đầu tư. Hơn nữa luông vốn này có lợi thé hơn đối với vốn vay ở chỗ: Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và dôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, cịn thời hạn của FDI thì thường linh hoạt hơn.
Theo mơ hình lý thuyết “ hai lỗ hổng” của Cherery và Strout, có hai cản trở chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: (1) Tiết kiệm khơng đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư được gọi là: “ lỗ hổng tiết kiệm”. (2) Thu nhập của hoạt
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">động xuất khẩu không đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là: “ lỗ hổng thương mại”. Hầu hết ở các nước đang phát triển hai lỗ hổng trên rất lớn, vì vậy FDI cịn là một nguồn quan trọng khơng chỉ để bổ sung nguồn vốn nói chung mà cả sự thiếu hụt về ngoại tệ nói riêng bởi vì FDI góp phần nhằm tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các cơng ty nước ngồi, thu ngoại tệ từ các hoạt dộng dịch vụ phục vụ cho FDI.
- Chuyển giao và phát triển công nghệ:
FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao cơng nghệ sẵn có từ bên ngồi vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước chủ nhà mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngồi.
Chuyển giao cơng nghệ thông qua FDI thường được thực hiện chủ yếu bởi các TNCs, dưới các hình thức: Chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh của một TNCs và chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNCs. Những năm gần đây, các hình thức này thường đan xen nhau với các đặc điểm rất đa dạng.
Phần lớn công nghệ được chuyển giao giữa các chi nhánh của TNCs sang nước đang phát triển ở hình thức 100% vốn nước ngồi và doanh nghiệp liên doanh có phần lớn vốn nuớc ngoài, dưới các hạng mục chủ yếu như những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketting.
Nhìn chung, các TNCs rât hạn chế chuyển giao những cơng nghệ mới có tính cạch tranh cao cho các chi nhánh của chúng ở nước ngồi vì sợ lộ bí mật hoặc mất bản quyền công nghệ do việc bắt trước, cải biến hoặc nhái lại công nghệ của các công ty nước chủ nhà. Mặt khác, do nước chủ nhà còn chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng công nghệ của các TNCs.
Bên cạnh chuyển giao công nghệ sẵn có, thơng qua FDI các TNCs cịn góp phần tích cực đối với tăng cường năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ của nước chủ nhà. Các kết quả cho thấy phần lớn các hoạt động R&D của
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">các chi nhánh TNCs ở nước ngồi là cải biến cơng nghệ cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương. Dù vây, các hoạt động cải tiến công nghệ của các doanh nghiệp ĐTNN đã tạo ra nhiều mối quan hệ liên kết cung cấp dịch vụ công nghệ từ các cơ sỏ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ trong nước. Nhờ đó đã gián tiếp tăng cường năng lực phát triển cơng nghệ địa phương. Mặt khác, trong qúa trình sử dụng công nghệ nước ngoài, các nhà đầu tư và phát triển công nghệ nước ngồi, các nhà đầu tư và phát triển cơng nghệ trong nước học được cách thiết kế, chế tạo…công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng của địa phương và biến chúng thành công nghệ của minh. Nhờ có những tác động tích cực trên, khả năng cơng nghệ của nước chủ nhà được tăng cường, vì thế nâng cao năng suất các thành tố, nhờ đó thúc đẩy được tăng trưởng.
- Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm
Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuát, các vấn đè xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sông thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao được năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng.
Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng rât lớn dến tốc độ tăng trưởng.
FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công việc làm thông qua việc cung cấp việc làm trong các hãng có vốn đầu tư nước ngoài. FDI còn tạo ra những cơ hội việc làm trong những tổ chức khác khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hang háo dịch vụe từ các nhà sản xuất trong nước, hoạc thuê họ thông qua các hợp đông gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước cho thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra viẹc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao đọng như ngành may mặc, điện tử, chế biến.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp đào tạo dạy nghề, FDI cịn góp phần quan trọng đối vơí phát triển giáo dục của nước chủ nhà trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. Nhiều nhà ĐTNN đã đóng góp vào quỹ phát triển giáo dục phổ thông, cung cấp một số thiết biết giảng dạy cho các cơ sở giáo dục của nước chủ nhà, tổ chức các chương trình phổ cập kiém thức có bản cho người lao động bản địa làm việc trong dự án (trong đó có nhiều lao động được đi đào tạo ở nước ngoài).
FDI nâng cao năng lực quản lý của nước chủ nhà theo nhiều hình thức như các khố học chính quy, khơng chính quy, và hoc thơng qua làm.
Tóm lai, FDI đem lại lợi ích về tạo công ăn việc làm. Đât là mọt tác dộng kép: tạo thêm việc làm cũng có nghĩa là tăng thêm thu nhập cho người lao đơng, từ đó tạo điều kiện tăng tích luỹ trong nước. Tuy nhiên, sự đóng góp của FDI đỗi với việc làm trong các nước nhận đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó.
- Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới
Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưỏng kinh té. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh” xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mơ, thực hiện chun mơn hố sản xuất; nhập khẩu bổ sugn các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng; xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin dịch vụ, tăng cường kiến thức marketting cho các doanh nghiệp nội địa và lơi kéo họ vào mạng lưới phân phối tồn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng.
Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi vi, hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các cơng ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng sản phẩm và giao hàng đúng hẹn.
- Liên kết các ngành công nghiệp
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên vật liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công ty nước ngồi ở nước chủ nhà. Việc hình thành các liên kết này là cơ sở quan trọng để chuỷen giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước chủ nhà.
Cụ thể: Qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ cho các cơng ty nước ngồi sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa phát triển năng lực sản xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quy trình sản xuất và mẫu mã hàng hố…). Sau một thời gian nhât định các doanh nghiệp trong nước có thể tự xuất nhập khẩu được.
- Các tác động quan trọng khác
Ngoài những tác động kể trên, FDI còn tác động đáng kể đến các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế như: chất lượng môi trường, cạnh tranh và độc quyển, chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, hội nhập khu vực và quốc tế.
Mặc dù chất thải của các cơng ty nước ngồi, nhất là trong các ngành khai thác và chế tạo, là một trong những nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng ơ nhiễm mơi trường trầm trọng ở các nước đang phát triển tuy nhiên có nhiều nghiên cứu cho thấy các TNCs rất chú trọng và tích cực bảo vệ mơi trường hơn các cơng ty nội địa. Bởi vì, quy trình sản xuất của họ thường được tiêu chuẩn hoá cao nên dễ đáp ứng được các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường của nước chủ nhà. Hơn nữa, các TNCs thường có tiềm lực tài chính lớn do đó có điều kiện thuận lợi trong xử lý các chất thải và tham gia góp quỹ, hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ mơi trường.
FDI tác động mạnh đến cạnh tranh và độc quyền thông qua việc thêm vào các đối thủ cạnh tranh hoặc sử dụng sức mạnh của mình đẻ khống chế thị phần ở nước chủ nhà. Từ thúc đẩy cạnh tranh, FDI góp phần làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn, nhờ đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Nhờ có FDI, cơ cấu nền kinh tế của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo chiều hưóng tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp dịch vụ và giảm tỷ trọng các ngành nôngnghiệp, khai thác trong GDP.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">FDI là một trong những hình thức quan trọng của các hoạt động kinh tế đối ngoại và nó có liên quan chặt chẽ đến tất cả các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hố- xã hội của các quốc gia, do đó sự phát triển của lĩnh vực này thúc đẩy sự hoà nhập khu vuẹc và quốc tế của nước chủ nhà.
2.2 Các tác động đặc biệt
Bên cạnh tác động đến ác yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế, FDI cịn tác động đến các khía cạnh quan trọng khác của đời sống văn hoá, xã hội và chính trị của nứoc chủ nhà.
- Văn hoá - xã hội
Văn hoá- xã hội là lĩnh vực rất nhạy cảm và mang đậm bản sắc của mỗi quốc gia. Khi tiếp nhận FDI, có nghĩa là nước chủ nhà đã mở của giao lưu với nền văn hoá các dân tộc trên thế giới. ĐTNN tác động mạnh vào mối quan hệ giữa giữ gìn bản sắc của dân tộc và itếp nhận nền văn hố bên ngồi ở các mặt quan trọng như: đổi mới tư duy; thái độ và đạo đức nghề nghiệp; lối sống, tập quán; giao tiếp ứng xử; bình đẳng giới và các vấn đề xã hội.
Chất lượng của tư duy là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội. Đổi mới tư duy tức là đổi mới cách nghĩ, cách làm. FDI tác động rât tích cực vào q trình này thơng qua trực tiếp đào tạo các nhà quản lý bản địa có kiến thức kinh doanh hiện đại, những lao động làm việc trong các cơng ty nước ngồi, tiếp xúc với cơng nghệ hiện đại và gián tiếp tạo ra trong xã hội, nhất là thế hệ trẻ, một lối nghĩ mới có hiệu quả của nền kinh tế thị trường.
Thái độ và đạo đức nghề nghiệp có ảnh hưởng rất lứon đén hành vi và chất lượng lao động của mỗi cá nhân. Do hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, những người làm việc trong cac dự án ĐTNN phải có thái độ nghjiêm túc với cơng việc và đảm bảo uy tín cao đối với khách hàng. Nhờ đó, góp phần quan trọng hình thành nên phong cách kinh doanh có văn hố.
Đầu tư nước ngoài đã làm thay đổi đáng kể lối sống, tập quán của các tầng lớp dân cư theo kiểu hiện đại, tiêu dùng công nghiệp. Tác phong công nghiệp đã buộc người lao động phải tiết kiệm thời gian cho gia đình và sinh hoạt cá nhân
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Đầu tư nước ngồi tác động tích cực đến văn hoá giao tiếp, ứng xử ở nước chủ nhà. Những người làm việc trong khu vực ĐTNN hoặc có quan hệ với các cơng ty nước ngàoi thường có phong cách giao tiếp lịch sự và thái độ ứng xử hồ nhã, tơn trọng đồng nghiệp và khách hàng. Phong cách này dần đần lan toả ra các cá nhân trong toàn xã hội.
- Chủ quyền an ninh quốc gia
ĐTNN chủ yếu được thực hiện bởi TNCs có tiềm lực mạnh về tài chính, khoa học cơng nghệ và mạng lưới phân phối trên phạm vi toàn cầu. Do đó, khi tiếp nhận ĐTNN các nước đang phát triển rất lo ngại trước sức mạnh của các cơng ty này có thẻ can thiệp vào chủ quyền lãnh thổ, đe doạ đến an ninh chính trị và làm lũng đoạn nền kinh tế của mình.
Về mặt lý thuyết, ĐTNN có đe doạ đên an ninh kinh tế của nước chủ nhà thông qua thao túng một số ngành sản xuất quan trọng, những hàng hoá thiết yếu hoặc đẩy mạnh đầu cơ, buôn lậu, rút chuyển vốn đi nơi khác… Vì mục tiêu theo đuổi lợi nhuận cao, nên khơng loại trừ một số TNCs có thể can thiệp một cách gián tiếp vào các vấn đề chính trị của nước chủ nhà. Do đó, đảm bảo tôn trọng chủ quyền lãnh thổ là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong các chính sách, luật pháp thu hút ĐTNN của nước chủ nhà. Hơn nữa, mặc dù có tiềm lực mạnh nhưng các TNCs là những nhà kinh doanh và tài sản lịa bị phân tán ở nhiều nước, trong khi đó nước chủ nhà lại có quân đội và các sức mạnh cần thiết để đảm bảo chủ quyền quốc gia.
Tuy có những đóng góp tích cực khơng thể phủ nhận đối với những nước đang phát triển như đã kể trên nhưng ĐTNN vẫn còn những hạn chế: chuyển giao công nghệ cũ, công nghệ không phù hợp với điều kiện của các nước đang phát triển, giá cả đắt hơn thực tế; sản xuất và quảng cáo sản phẩm ảnh hưởng tiêu cực đối với sức khỏe con người như ( rượu, bia, nước giải khát có ga, thuốc lá, thực phẩm sử dụng nhiều hoá chât…); xúc phạm nhân phẩm người lao động, khai thác cạn kiệt sức lao động của người làm thuê; làm tăng khoảng cách giầu nghèo giữa các các nhân, giữa các vùng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>II. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài </b>
<i><b>1. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung </b></i>
1.1. Khái niệm.
Quản lí đầu tư là sự tác động liên tục, có tổ chức, định hướng mục tiêu vào quá trình đầu tư và các yếu tố đầu tư bằng một hệ thống đồng bộ các biện pháp kinh tế - xã hội , tổ chức kĩ thuật và các biện pháp khác nhằm đạt được kết quả, hiệu quả đầu tư, hiệu quả kinh tế – xã hội cao nhất trong điều kiện cụ thể xác định và trên cơ sở vận dụng sáng tạo những quy luật khách quan vf quy luật đặc thù của đầu tư.
1.2. Sự cần thiết phải có sự quản lí của nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung và các dự án nói riêng.
• Đối với các dự án dân lập :
- Đầu ra của các dự án là sản phẩm, dịch vụ và chất thải các loại .Với đầu ra là chất thải , rất có hại cho sức khoẻ của cộng đồng, nhà nước không thể bỏ qua. Ngay cả những sản phẩm hoặc dịch vụ được tạo ra từ dự án cũng khơng đương nhiên là có lợi cho cộng đồng mà vẫn có thể có hại. Vì vậy, nhà nước phải quản lí dự án dân lập để ngăn ngừa các ảnh hưởng tiêu cực của đầu ra do dự án gây nên.
- Đầu vào của dự án là các yếu tố mà sự hoạt động dự án sẽ sử dụng : tài nguyên, lao động, máy móc, thiết bị. Việc sử dụng các đầu vào đó của dự án sẽ ảnh hưởng đến cộng đồng về nhiều mặt. Vì vậy, nhà nước cần phải quản lí các dự án dân lập để cân đối các nguồn lực trong nền kinh tế, tránh rối loạn, thừa thiếu trong nền kinh tế.
- Các đặc tính của mỗi cơng trình do dự án tạo ra, chỉ tiêu kiến trúc, kết cấu, địa điểm phân bố… có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phịng, an ninh… rất sâu sắc. Vì vậy, nhà nước củng phải quản lí các dự án dân lập trên các mặt quy hoạch , xây dựng …
- Nhà nước quản lí dự án dân lập để ngăn ngừa các hiện tượng áp bức, bóc lột, bất cơng xảy ra trong lòng dự án tư nhân.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">• Đối với dự án quốc gia
Dự án nhà nước là những dự án sử dụng vốn nhà nước bỏ ra hoặc coi nhu nhà nước bỏ ra. Chính vì thế, mọi dự án quốc gia đều có một ban quản lý dự án kèm theo. Các ban này có thể là lâm thời tồn tại cùng dự án nếu là dự án lớn, quan trọng, kéo dài nhiều năm. Ban này cũng có thể thường nhiệm tồn tại ngay cả khi khơng có dự án nào hoặc cùng lúc quản lý nhiều dự án. Nhưng sự quản lý của các ban quản lý dự án chưa phải là tất cả sự quản lý của nhà nướcđối với dự án quốc gia mà các ban quản lý này vẫn phải chịu sự quản lý của nhà nước bởi hai lý do sau:
- Ban quản lý dự án chỉ chuyên quản với tư cách là chủ đầu tư. Họ là người đại diện cho nhà nước về mặt vốn đầu tư, có sứ mạng làm cho vốn đó sớm biến thành mục tiêu đầu tư. Cho nên các ảnh hưởng khác của dự án không được họ quan tâm hoặc khơng có trách nhiệm và khơng đủ khả năng quan tâm. Do đó, nếu khơng có sự quản lý của nhà nước với các ban quản lý này thì các dự án quốc gia trong khi đeo đuổi các mục đích chun ngành có thể làm tổn hại đén quốc gia ở các mặt họ không lường hết được hoặc không quan tâm.
- Bản thân các ban quản lý dự án cũng không thực hiện trọn vẹn trong trách nhiệm đại diện sở hữu vốn. Từ đó, sử dụng vốn sai mục đích, kém hiệu quả, thậm chí chiếm cơng vi tư.
<i><b>2. Quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài </b></i>
1.3. Vai trị của quản lý nhà nước với FDI
Mơi trường quốc tế là như nhau với mỗi quốc gia. Như vậy, cơ hội và khả năng huy động vốn nước ngoài để phát triển kinh tế là nhu nhau. Nhưng thực tế việc huy động vốn phụ thuộc có tính quyết định vào vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế nói chung, đặc biệt với hoạt động FDI. Vai trị đó trước hết thể hiện ở khả năng tạo dựng môi trường đầu tư hấp dẫn. Sự hấp dẫn của môi trường đối với các nhà đầu tư nước ngồi chính là sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý an tồn, các thủ tục hành chính đơn giản,
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển và có những định hướng đúng đắn khuyến khích các nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả và an tồn.
Nhà nước có vai trị hết sức quan trọng trong việc huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI. Chỉ có nhà nước với quyền lực và chức năng của mình mới có khả năng tạo lập được mơi trường đầu tư mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực và thế giới để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi. Vai trị quản lý nhà nước đối với FDI được thể hiện thơng qua vai trị của nhà nước trong việc hình thành phát triển và hồn thiện mơi trường đầu tư cho sự vận động có hiệu quả FDI.
Ổn định chính trị và môi trường kinh tế vĩ mô cho sự vận động vốn FDI:
Các nhà đầu tư chỉ có thể sẵn sàng bỏ vốn vào kinh doanh tại một quốc gia mà ở đó có sự ổn định chính trị và ổn định kinh tế vĩ mơ. Ổn định chính trị là điều kiện trước tiên đảm bảo an toàn cho sự vận động của các hành vi kinh tế. Vì vậy ổn định chính trị là u cầu đặt ra đầu tiên đối vớicác nhà đầu tư nước ngoài khi lựa chọn một nước là địa bàn đầu tư. FDI là hoạt động đầu tư tư nhân. Nhưng hoạt động đầu tư dù trong nước hay nước ngoài đều được nhà nước hỗ trợ dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoạt động này hơn nữa còn tạo đựoc sự đảm bảo, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cua các tổ chức kinh tế và tổ chức quốc tế. Nhà nước có vai trị quyết định trong việc lựa chọn , thực thi chính sách kinh tế và chương trình đối ngoại theo hướng mở rộng các quan hệ song phương và đa phương với các nước và các tổ chức quốc tế cũng như đảm bảo uy tín của các quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Quan hệ đối ngoại của nhà nước như chiếc chìa khố mở cửa cho nhà đầu tư nước ngồi tìm kiếm cơ hội để đầu tư cũng như để đảm bảo an toàn và hỗ trợ cho hoạt động đầu tư của họ.
Một quốc gia kém phát triển ở giai đoạn đầu cảu quá trình phát triển kinh tế thường phải đương đầu với những khó khăn và thử thách là cán cân thương mại và cán cân thanh tốn quốc tế ln trong tình trạng thâm hụt nặng nề, mâu thuẫn giữa khả năng thanh khoản thấp và nhu cầu đầu tư lớn , mất cân đối giữa thu chi ngân sách. Ở đây thể hiện vai trò của nhà nước trong việc giải quyết
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">những vấn đề lạm phát, chính sách tài khố, tiền tệ, tỉ giá hối đoái và xây dựng, củng cố hệ thống tài chính vững mạnh, tạo lập cân đối cung cầu trong ba lĩnh vực trên để ổn định kinh tế vĩ mô tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả của nhà đầu tư trong và ngồi nước, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng xuất khẩu cao, ổn định trên cơ sở đó đảm bảo sự ổn định các cân đối vĩ mô.
Tạo lập môi trường pháp lý đảm bảo và khuyến khích FDI định hướng theo chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng trong điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế:
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay ở nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và các công cụ quản lý khác. Nhà nước đóng một vai trị điều hành kinh tế vĩ mô ( định hướng, điều tiết, hỗ trợ) nhằm phát huy các mặt tích cực ngăn ngừa các mặt tiêu cực của hoạt động FDI. Các nhà đầu tư nước ngồi, các cơng ty nước ngồi hoạt động ở Việt Nam mang tư cách pháp nhân Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam. Do vậy, các định hướng kinh tế quan trọng đối với hoạt động FDI để phục vụ cho sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, phát triển kinh tế của đất nước cần được thể hiện thông qua các quyết định của luật pháp, chính sách của nhà nước. Khi luật pháp, chính sách được xây dựng đúng đắn, phù hợp, công tác chỉ đạo điều hành thực thi nghiêm túc thì sẽ đạt được các định hướng và mục tiêu quản lý của nhà nước đối với hoạt động FDI. Ngược lại, nếu những định hướng và mục tiêu quản lý không được thực hiện đầy đủ thì trước hết là do sự chưa hoàn chỉnh trong chế định pháp luật, chính sách và trong công tác điều hành thực hiện các chế định được ban hành.
Hệ thống pháp luật càng hồn chỉnh, phù hợp với các thơng lệ của khu vực và quốc tế, khơng có sự phân biệt giữa các doanh nghiệp trong hay ngoài nước, công tác quản lý của nhà nước ngày càng đơn giản tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thì mơi trường đầu tư càng có tính cạnh tranh cao và càng có khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và đảm bảo an toàn cho sự vận động của FDI:
Cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội là một trong những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư, là cơ sở hình thành các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật của các dự án đầu tư. Cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển tạo điều kiện cung cấp các dịch vụ thông tin để mở rộng quan hệ thương mại, giao lưu hàng hoá, giảm chi phí sản xuất đầu vào, hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận cho nhà đầu tư. Vì vậy, đây là yếu tố tác động mạnh mẽ vào sự quyết định của nhà đầu tư khi lựa chọn địa điểm đầu tư.
Đối với quốc gia đang phát triển, trình độ cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội u kém. Vì vậy vai trị của nhà nước là hết sức quan trọng trong việc huy động và phân bổ các nguồn vốn tập trung đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế – xã hội.
Hoạt động đầu tư là hoạt động mang tính rủi ro và ở chừng mực nhất định có tính mạo hiểm, càng rủi ro và mạo hiểm hơn, khi đầu tư ở nước ngoài. Vì vậy, một đất nước có sự đảm bảo cao về trật tự an toàn xã hội sẽ làm cho các nhà đầu tư yên tâm về sự an toàn tính mạng và tài sản của mình khi bỏ vốn kinh doanh ở một quốc gia khác.
Nhà nước với vai trò quan trọng trong việc xây dựng một triết lý kinh doanh hiện đại, tiến tiến mang bản sắc văn hoá Việt Nam, thấm nhuần tư tưởng của đảng:” Việt Nam muốn là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển.
1.4. Chức năng quản lý nhà nước với FDI Dự báo
Chức năng dự báo được thể hiện trên cơ sở các thơng tin chính xác và các kết luận khoa học. Dự báo là điều kiện không thể thiếu trong việc xây dựng và thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các dự án FDI và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Có thể nói nếu thiếu chức năng dự báo, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI sẽ không mang đầy đủ tính chất của một hoạt động quản lý khoa học cũng nhu khơng thể thực hiện có hiệu quả các mục tiêu
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">quản lý. Hoạt động dự báo bao gồm dự báo tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ, lao động, thị trường vốn trong và ngồi nước, xu hướng phát triển, tình hình cạnh tranh trong khu vực và thế giới, chính sách thương mại của các chính phủ … Để tiến hành tốt chức năng dự báo cần sử dụng các công cụ dự báo khác nhau và nên tiến hành dự báo từ những nguồn thông tin khác nhau.
Định hướng
Kinh tế thị trường không đồng nghĩa với việc loại trừ vai trò của kế hoạch hoá mà trái lại rất cần sự định hướng và điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ, chiến lược, mục tiêu, chương trình, kế hoạch, qui hoạch. Chức năng định hướng của nhà nước trước hết thể hiện ở việc xác định đúng đắn chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. Trên cơ sở chiến lược phát triển dài hạn và kế hoạch trong từng thời kỳ xây dựng các phương án, mục tiêu, chương trình hành động quốc gia, qui hoạch và kế hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế. Từ đó tiến hành qui hoạch thu hút các nguồn vốn cho việc thực hiện các phương án, mục tiêu, chương trình quốc gia. Cơng tác định hướng của nhà nước với FDI phải được cụ thể hoá bằng việc xây dựng danh mục các dự án kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, xác định các lĩnh vực ưu tiên, địa điểm ưu tiên FDI. Để đạt được mục tiêu định hướng thu hút FDI vào các lĩnh vực ưu tiên, địa bàn ưu tiên thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, nhà nước cần vận dụng các công cụ kinh tế để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngồi.
Bảo hộ và hỗ trợ
Nhà nước là chủ thể quản lý cao nhất là người đại diện cho quyền lợi của cả cộng đồng quốc gia. Vì vậy chỉ có nhà nước mới có đủ tư cách, sức mạnh, tiềm lực để bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và của các nhân người nước ngoài. Chức năng bảo hộ của nhà nước được thực hiện trước hết ở việc bảo hộ quyền sở hữu tài sản và lợi nhuận hợp pháp của nhà đầu tư nước ngồi. Bởi vì sở hữu là nguồn gốc là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động đầu tư.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Trong nền kinh tế thị trường bên cạnh chức năng bảo hộ nhà nước cịn có chức năng hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Mặc dù các nhà đầu tư nước ngoài đều là các nhà kinh doanh có kinh nghiệm nhưng khi họ kinh doanh ở một quốc gia khác vẫn cần có sự hỗ trợ của nước chủ nhà. Khi tiến hành sản xuất kinh doanh, thực hiện chuyển giao cơng nghệ nhà đầu tư nước ngồi cần có sự hỗ trợ của nhà nước về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường vốn, thị trường lao động.
Tổ chức và điều hành
Để thực hiện tốt chức năng này phải xây dựng thống nhất tổ chức bộ máy quản lý thích hợp trên cơ sở phối hợp nhịp nhàng, ăn khớp và tối ưu các chức năng quản lý của các bộ phận trong bộ máy quản lý hoạt động FDI. Đồng thời cần có sự phối hợp tốt nhất trong hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước trong việc ban hành các qui phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các dự án và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi nhằm bảo vệ lợi ích, bảo hộ sản xuất trong nước và khuyến khích hoạt động FDI.
Kiểm tra và giám sát
Căn cứ vào chế độ, chính sách, kế hoạch và các qui định của pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra phát hiện những sai sót, lệch lạc trong quá trình đàm phán triển khai và thực hiện dự án đầu tư để có biện pháp đưa các hoạt động này vận động theo qui định thống nhất. Hoạt động kiểm tra, giám sát còn là cơng cụ phản hồi thơng tin quan trọng để chính phủ đánh giá hiệu quả và mức độ hợp lý của những chính sách, qui định đã được ban hành. Ngoài ra hoạt động kiểm tra, thanh tra giám sát còn nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các nhà đầu tư nước ngồi tháo gỡ những khó khăn trong khi triển khai và đưa dự án vào hoạt động.
Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về đầu tư nước ngồi khơng tồn tại độc lập mà tác động qua lại lẫn nhau. Chỉ có thể quản lý tốt các hoạt động đầu tư nước ngoài khi các chức năng quản lý được thực hiện một cách đồng bộ và thuần nhất.
1.5. Nội dung của quản lý nhà nước với FDI
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Để đạt được mục tiêu, thực hiện vai trò, chức năng quản lý nhà nước trong việc định hướng, tạo dựng môi trường, điều tiết hỗ trợ và kiểm tra kiểm soát các hoạt động FDI, nội dung quản lý nhà nước đối với FDI bao gồm những điểm chủ yếu sau:
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật và các văn bản pháp luật liên quan đến FDI bao gồm sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam các văn bản hướng dẫn thực hiện cũng như các văn bản pháp qui các để điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam nhằm định hướng FDI theo mục tiêuu đề ra.
Xây dựng quy hoạch theo từng ngành, từng sản phẩm, từng địa phương trong đó có quy hoạch thu hút FDI đương nhiên phải dự trên qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế đất nước. Từ đó xác đinh danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài, ban hành các định mức kinh tế kĩ thuật, chuẩn mực đầu tư.
Vận động hướng dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong việc xây dựng dự án đầu tư, lập hồ sơ dự án, đàm phán, kí kết hợp đồng, thẩm định và cấp giấy phép.
Quản lí các dự án đầu tư sau khi cấp giấy phép
- Điều chỉnh, xử lý các vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình hoạt động, giải quyết những ách tắc của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
- Kiểm tra, kiểm sốt việc tn thủ theo pháp luật của các cấp các, các nghành có liên quan đến hoạt động đầu tư, kiểm tra kiểm soát và xử lý những vi phạm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện theo qui định của nhà nước về giấy phép đầu tư, các cam kết của các nhà đầu tư.
Đào tạo đội ngũ lao động Việt Nam đáp ứng nhu cầu của quá trình hợp tác đầu tư từ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý đầu tư ở các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư đến đội ngũ các nhà quản lý kinh tế tham gia trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cũng như đội ngũ lao động kỹ thuật đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của khu vực này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">Cán bộ quản lý là khâu trọng tâm của hoạt động quả lý, có vai trị cực kì quan trọng trong quản lý về đầu tư. Mục tiêu đặt ra đối với FDI, chủ trương, đường lối, chính sách của đảng và nhà nước, các quan hệ pháp luật có liên quan đên khu vực FDI có được thực hiện hay không phụ thuộc vào năng lực tổ chức, điều hành, trình độ hiểu biết về luật pháp, khả năng vận dụng sáng tạo và tâm huyết của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư. Vì vậy, đội ngũ cán bộ này cần được tuyển chọn phù hợp với yêu cầu và thường xuyên được đào tạo để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và phẩm chất đạo đức, tinh thần tự hào, tự cường dan tộc, dám hi sinh lợi ích cá nhân vì sự phát triển của đất nước.
1.6. Hệ thống tổ chức quản lý hoạt động FDI
• Quốc hội: là cơ quan quyền lực cao nhất, có trách nhiệm phê chuẩn và ban hành hệ thống luật pháp có liên quan đến đầu tư, quyết định đường lối, chiến lược và các chủ trương đầu tư.
• Chính phủ: có trách nhiệm quản lý toàn diện và thống nhất lĩnh vực đầu tư.
• Các bộ:
- Bộ kế hoạch đầu tư:
+ Trình Chính phủ các dự luật, pháp lệnh, văn bản qui phạm có liên quan đến đầu tư.
+ Xác định phương hướng và cơ cấu vốn đầu tư để đảm bảo sự cân đối giữa đầu tư trong nước và nước ngoài.
+ Cấp giấy phép đầu tư và hướng dẫn với các dự án có vốn đầu tư nước ngồi.
+ Quản lý nhà nước về việc lập, kiểm tra,xét duyệt các dự án quy hoạch, phát triển kinh tế-xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">+ Theo dõi, kiểm tra chất lượng các công trình - Bộ tài chính:
+ Nghiên cứu cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngân hàng trong đầu tư và xây dựng.
+ Giám sát các tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính thực hiện các nhiệm vụ, huy động vốn, cho vay vốn, bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp động, bảo lãnh dự thầu.
- Các bộ có liên quan:
+ Các bộ quản lý ngành về đất đai, tài nguyên, công nghệ, môi trường, thương mại, bảo tồn bảo tàng di tích di sản văn hố, quốc phịng, an ninh, phịng cháy chữa cháy… Có trách nhiệm xem xét và có ý kiến bằng văn bản về các vấn đề có liên quan đến dự án.
<i><b>3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước với FDI của một số nước trên thế giới </b></i>
1.7. Thái Lan
Thái Lan là một trong những nước có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam về điều kiện tự nhiên (đất đai, khí hậu, tài nguyên…), về xã hội (một số tập quán, nhan văn, dân số đông và phần lớn sống ở nông thôn, dung lượng thị trường tiềm năng lớn…) và về trình độ phát triển kinh tế (có ưu thế phát triển một nên nơng nghiệp nhiệt đới, cơng nghiệp cịn ở trình độ phát triển thấp…).
Những thập niên gần đây, nền kinh tế Thái Lan đã đạt nđược sự phát triển thuộc loại nhanh trong khu vực. Trong sự phát triển đó có sự đóng góp đáng kể của đầu trực tiếp nước ngồi đối với sự phát triển kinh tế của Thái Lan có học giả đã cho rằng:” nếu khơng có nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 20 năm qua, Thái Lan không thể xây dựng được một nền tảng kinh tế vững mạnh như hiện nay”[17,381].
Chúng ta cũng thừa nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những yếu tố góp phần thúc đẩy nền kinh tế Thái Lan trở thành những “ngôi sao” mới của khu vực Đông Á. Chính phủ Thái Lan đã rất khéo léo trong việc kết hợp đầu tư trực tiếp nước ngoài với chiến lược công nghiệp hoá của từng
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">thời kì. Để có thể triển khai các dự án đầu tư nhanh, thuận lợi và có hiệu quả, Chính phủ Thái Lan đã có chính sách khuyến khích mạnh các nguồn vốn tron nước cùng tham gia đâu tư với các dự án có vốn đầu tư nước ngồi. Tỷ lệ vốn trong nước trong các dự án này lên tới 71,7% (thời kì 1960-1985) và 71,6% (thời kì 1986-1995)[47,134]. Về chính sách tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài của Thái Lan được đánh giá là một trong những chính sách khá thơng thống và có sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
1.8. Trung Quốc
Sau 20 năm (1979-1999) thực hiện chính sách cải cách mở cửa, kinh tế Trung Quốc đã dạt đựoc nhiều thành tựu to lớn, thu hút sự chú ý của nhiều ngwofi trên thế giới. Thời kỳ 1979-1994 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9,3%/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân 16,2%/năm; Sản lượng các sản phẩm chủ yếu cũng đều tăng với tốc độ nhanh. Cho dến nay, tưong ứng với các thời kỳ, nền kinh tế Trung Quốc vẫn dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng. Vị thế và ảnh hưởng của Trung Quốc đang ngày càng nâng lên rõ rệt. Nhiều nhà kinh tế nhận định rằng, từ nay đến hết thập niên đầu thế kỷ XXI vẫn là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của kinh tế Trung Quốc. Một trong những yếu tố chi phối mạnh mẽ sự phát triển kinh tế Trung Quốc 20 năm qua là sự thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Đối với Trung Quốc, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự trở thành động lực của sự phát triển và chính nó đã làm đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố.
Nếu đến năm 1991, Trung Quốc chỉ đứng thứ 13 trên thế giới và thứ 3 trong các nước đang phát triển về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngồi thì chỉ 2 năm sau (1993) Trung Quốc đã đứng thứ 2 trên thế giới ( sau Mỹ ) và đứng đầu các nước đang phát triển về lĩnh vực này. Năm 1993 vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi đăng kí vào Trung Quốc là 111,436 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện là 33, 767 tỷ USD. Đây là một kỷ lục chưa từng có trên thế giới. Nếu lượng vốn đầu tư trực tiếp thực hiện ở Trung Quốc tính đến năm 1992 đạt mức 50,9 tỷ USD thì đến năm 1998 đã lên tới 259,858 tỷ USD. Như vây, trong thời kỳ 20 năm (1979-1998) tính bình qn ở Trung Quốc mỗi năm có tới gần 13 tỷ USD vốn đầu tư
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">trực tiếp từ nước ngoài được thực hiện ( bằng 11,8 lần vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi thực hiện bình qn trong thời kì 1988-1999 tại Việt Nam).
Nói đến sự thành công của Trung Quốc trong những thập niên gần đây cũng có nghĩa là nói đến sự thành cơng trong việc quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài và việc thực hiện chính sách cải cách mở cửa của họ. Việc mở cửa với bên ngoài được Trung Quốc xác định “ là một quốc sách cơ bản lâu dài”, nên họ chủ trương “ ra sức nâng cao mức độ mở cửa với bên ngồi”, “ tích cực lợi dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách hiệu quả”… Thực tế cho thấy, nhờ có chính sách mở cửa hợp lý nên việc thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc rât hiệu quả.
Một số chủ trương, biện pháp lớn mà Trung Quốc đang sử dụng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay theo hướng sau:
- Tăng cường cải cách thể chế kinh tế trong nước phù hợp với tốc độ mở cửa đối ngoại, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
- Lập qui hoạch ngành nghề và vùng lãnh thổ đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Tăng cường quản lý nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi. Đa dạng hố các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngồi.
- Có chính sách thoả đáng để mở rộng việc thu hút các nhà đầu tư người Hoa ở nước ngoài chuyển vốn về đầu tư tại Trung Quốc. Mở rộng địa bàn hoạt động, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, sử dụng các chính sách ưu đãi phù hợp với yêu cầu phát triển của từng thời kỳ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>Chương II: THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI </b>
<b>I. Thực trạng về hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian qua 1. Thực trạng thu hút FDI </b>
Đến hết năm 2003 đã co 4986 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giây phép đầu tư vào Việt Nam, với tổng số vốn đăng ký là 44.533 triệu USD. Tính bình qn mỗi năm Việt Nam cấp phép cho 311 dự án với mức binh quân 1 dự án 2.783,3 triệu USD vốn đăng ký.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong 16 năm qua biểu hiện khá rõ nét của một động thái thiếu ổn định: Từ khi bắt đầu triển khai (1988) vận đông theo xu hướng tăng nhanh đến 1995, 1996 ( cả về số dự án cũng như vốn đăng ký). Nhưng bắt đầu từ năm 1997, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam lại vận động theo xu hướng giảm dần, cho đến năm 1999 là năm có lượng vốn FDI đăng ký ở mức thấp nhất kể từ năm 1992. Đến năm 2000, năm 2001 tình hình FDI vào Việt Nam tuy đã có sự chuyển biến theo chiều hướng tốt hơn, nhưng sang năm 2002 thì chiều hướng đó khơng những khơng được duy trì mà lại diễn biến xấu đi một cách khá rõ. Năm 2002 tuy là năm đạt đỉnh cao về số lượng dự án nhưng lại là đạt điểm “cực tiểu” về lượng vốn đầu tư. Vì vậy đây cũng là năm có qui mơ bình qn của dự án ở mức cực tiểu kể từ trước tới nay.
Vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam năm 2002 bằng 49,55% mức bình quân của cả thời ký 16 năm (1998-2003) và chỉ bằng 16,2% của năm có mức vốn đăng ký cao nhất ( 1996). Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì qui mơ dự án bình quân của thời kỳ 1998-2003 là hơn 8,93 triệu USD /1 dự án. Mặc dù đây cũng chỉ thuộc loại qui mơ trung bình nhưng lại có vấn đề rất đáng quan tâm là qui mơ bình quan dự án theo vốn đăng ký của nhiều năm vẫn ở mức thấp hơn, đặc biệt qui mơ bình qn của các dự án được phê duyệt năm 2002 lại nhỏ đi một cách đột ngột (1,99 triệu USD/ 1dự án). Về qui mô của các dự án FDI năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">2002, bằng 22,35% qui mơ bình qn của thời kỳ 1988-2003 và chỉ bằng 7,6% mức bình quân của năm cao nhất (1996).
Năm 2003 tình hình đã có chuyển biến khả quan hơn năm 2002 (tuy số dự án có giảm đi, nhưng số vốn đầu tư đã tăng lên), nhưng cũng chưa đạt được mức như năm 2001 (năm 2003 so với năm 2001 tuy có số dự án đầu tư bằng 123,51%; nhưng do tổng số vốn đăng ký chỉ bằng 61,93% nên quy mơ bình qn của một dự án cũng chỉ bằng 50,14%).
Quan sát bức tranh tổng thể về mức độ hấp dẫn của các ngành đối với FDI của cả thời kì 1988-2003 ta thấy: Cơng nghiệp vẫn là lĩnh vực thu hút FDI nhiều nhất (chiếm 56,8% tổng lượng vốn đăng ký, 66,8% tổng số dự án), trong đó chủ yếu là cơng nghiệp nặng (chiếm 22,2% vốn đăng ký và 27,6% số dự án). Tiếp đến là dịch vụ (chiếm 36,2% tổng số vốn đăng ký và 19,4% số dự án) và thấp nhất là nông-lâm nghiệp, thuỷ sản (xem bảng 1)
Bảng 1: FDI tại Việt Nam 1988-2003 theo ngành kinh tế (Các dự án còn hiệu lực)
án
Vốn đầu tư (USD)
% tổng vốn
% tổng dự án
Vốn thực hiện (USD)
% vốn thực hiện 1.Công nghiệp 2.849 22.983.233.1
83
56,8 66,8 16.212.762.451
11
4
22,2 27,6 5.462.140.476
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">2 7 2. Nông lâm
nghiệp
586 2.860.016.748
7,1 13,7 1.528.314.192
6
nghiệp
492 2.600.812.095
6,4 11,5 1.403.801.769
26
chính
115 2.585.280.396
1
4 Kh/sạn-Du lịch 143 3.283.535.63
5
0
8 Tài chính-ngân
hàng
VH- Y tế – Giáo dục
XD khu đô thị mới
3 2.466.674.000
XD văn phòng căn hộ
99 3.460.501.161
6
7 XD hạ tầng
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Về qui mơ bình qn của dự án thì các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ thường có qui mơ lớn hơn, tiếp đến là các dự án thuộc lĩnh vực cơng nghiệp, cịn các dự án trong lĩnh vực nơng nghiệp thường có quy mơ nhỏ hơn cả.
Về tiến độ thực hiện dự án cho thấy: các dự án thuộc lĩnh vực cơng nghiệp có tiến độ thực hiện nhanh nhất, tiếp đến là các dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ và chậm nhất là các dự án thuộc lĩnh vực nông nghiệp .
Về địa bàn đầu tư: Đặc điểm tương đối nổi bật và có lẽ cũng giống một số nước đang phát triển khác là các dự án đầu tư nước ngoài vẫn gthường tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng vàmơi trưịng kinh tế – xã hội. Mức độ chênh lệch giữa các vùng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là tương đối lớn và đồng thuận với mức thuận lợi của các yếu tố kinh tế- xã hội và cơ sở hạ tầng.
Nếu tính theo số vốn đầu tư cịn hiệu lực của cả thời kì 1988-2003, thì chỉ sáu địa phương có điều kiện thuận lợi hơn đã chiếm tới 70,95% tổng số vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam [TP. Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 10.734 triệu USD (chiếm 24,1% tổng số vốn đăng ký của cả nước) sốliệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau: Hà Nội: 7.578,9 (17,02%); Đồng Nai: 6.422,7 (14,42%); Bình Dương 3.357,4 (7,54%); Bà Rịa – Vũng Tàu: 2.051,4 (4,61%); và Hải Phòng: 1.453,8(3,26%)
Về các hình thức đầu tư: Vào thời kì đầu Việt Nam thực thi chính sách kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngồi, liên doanh là hình thức được các nhà đầu tư sử dụng phỏ biến nhất. Hình thức này thường chiếm tới khoảng 40% số dự án và 59% vốn đăng ký. Sở dĩ như vậy là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai thực hiện dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc, và rất phức tạp, trong khi đó người nước ngồi cịn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế- xã họi và phát luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Tronghoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lụa chọn
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">hình thức liên doanh để đối tác bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn.
Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đâu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư châu á có điều kiện để hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Sự am hiểu của các nhà đầu tư được nâng lên trong điều kiện các thủ tục cấp phép của Việt Nam đang từng bước được cải tiến theo hướng ngày càng đơn giản hơn trước, và cùng với sự xuất hiện những tổ chức tư vấn giúp các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện cac thủ tục triển khai, tổ chức sản xuất kinh doanh của các dự án tương đối có hiệu quả. Vì vậy, nhu cầu có đối tác có đối tác Việt Nam để tiến hành thủ tục, đối với nhà đầu tư nước ngoài đã giảm đi một cách đáng kể. Không những thế, khi tham gia liên doanh do khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu tư nước ngồi khơng muốn chia sẻ quyền điều hành doanh nghiệp với bên VIệt Nam nên họ thấy khơng cần thiết phải có đối tác Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt Nam theo hình thức liên daonh đã giảm xuống (chỉ còn 26,99% số dự án và 44,97% vốn đầu tư), đồng thời hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi đang ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Nếu thời kỳ đầu chỉ có gần 10% số dự án và vốn đăng ký hoạt động theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi thì đến nay con số đó đã tăng lên tới 69,21% số dự án và 42,10% vốn đăng ký.
Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 3,66% số dự án và 9,54% số vốn đầu tư, chủ yếu trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí và dịch vụ viễn thơng, in ấn và phát hành báo chí.
Từ năm 1993, Việt Nam bắt đầu áp dụng hình thức “hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT), cho đến nay hình thức đầu tư này cũng chỉ chiếm 0,14% số dự án và 3,38 vốn đầu tư.
Về các đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam thời kỳ 1988 – 2003: Nếu tính theo các dự án FDI cịn hiệu lực thì đến nay hiện còn 64 nước và vùng lãnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">thổ có các dự án đầu tư đang hoạt động tại Việt Nam. Trong số đó, có bảy nước có tổng số vốn đầu tư đăng ký và đã được cấp phép đầu tư vào Việt Nam trên 2 tỷ USD là: Xinhgapo, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Pháp, British Virgin Islands. Tổng số vốn đầu tư của bảy đối tác này đã chiếm tới 71,43% tổng lượng vốn FDI đăng ký đầu tư vào Việt Nam (trong đó Xinhgapo chiếm 18,18%, Đài Loan chiếm 14,54%, Nhật Bản chiếm 11,04%, Hàn Quốc chiếm 9,97%, Hông Kông chiếm 7,43%, Pháp chiếm 5,22%, British Virgin Islands chiếm 5,05%). Nếu theo tổng mức đầu tư trên 1tỷ USD thì có thêm năm nước: Hà Lan, Thái Lan, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Malaixia (trong đó Hà Lan chiếm 4,35%, Thái Lan chiếm 3,47%, Vương quốc Anh chiếm 2,91%, Hoa Kỳ chiếm 2,81%, và Malaixia chiếm 2,73%). Như vậy nếu chỉ tính riêng 12 nước có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD trên đây đã chiếm tới 87,7% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Số liệu trên cho thấy đã có nhiều nhà đầu tư xuất phát từ các nước tương đối phát triển có dự án đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi ở Việt Nam hiện nay thì sự có mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn kinh tế lớn chưa nhiều. Đây chính là một trong những chỉ báo quan trọng khi chúng ta thực thi các chính sách có liên quan đến việc cải thiện mơi trường đầu tư của Việt Nam.
<b>2. Tình hình thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngồi tại Việt Nam </b>
Đến hết năm 2003, có 1.200 dự án sau một thời gian triển khai sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã đề nghị Chính phủ Việt Nam cấp phép tăng vốn, mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 8,825 triệu USD (bằng 19,82% tổng số vốn đăng ký và bằng 24,07% số dự án được cấp giấy phép)
Tổng số vốn của các dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng 628 triệu USD (bằng 1,46% tổng số vốn đăng ký); số vốn thuộc các dự án đã giải thể là 9.974 triệu USD (bằng 23,2% tổng số vốn đăng ký).
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Đến hết năm 2003 tổng số vốn đã thực hiện bằng 53,58% của tổng số vốn đăng ký. Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, ccác nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngồi cịn nhiều biến động, thị trường phát triển chưa đầy đủ……. thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Về tình hình hoạt động, các dự án trong lĩnh vực thăm dị, khai thác dầu khí theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm và dịch vụ viễn thơng theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là những dự án hoạt động đạt kết quả tốt nhất. Sở dĩ như vậy là nhờ các dự án loại này, các nhà đầu tư không phải mất nhiều thời gian giải quyết các thủ tục đất đai, xây dựng,… cịn về năng lực thì hầu hết các dự án loại này đều do các nhà đầu tư là các công ty xuyên quốc gia có thế mạnh về tài chính và cơng nghệ. Về loại hình doanh nghiệp, các dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh có tiến độ thực hiện nhanh hơn cả, tiếp đến là các doanh nghiệp liên doanh, cịn các doanh nghiệp thuộc các hình thức BOT và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi có tiến độ thực hiện chậm nhất .
<b>II. Thực trạng về việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước với FDI 1. Nhà nước tạo lập môi trường đầu tư </b>
1.1. Tạo lập mơi trường chính trị ổn định.
Đứng trước khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng và nhà nước ta đã luôn kiên định mục tiêu cách mạng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó xây dựng các chủ trương, chính sách đổi mới. Đảng và Nhà nước đã không ngừng củng cố quốc phòng giữ vững an ninh quốc gia trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của khối Đại đồn kết tồn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vây, theo đánh giá của các chuyên gia trong và ngoài nước, Việt Nam có đường lối chính trị, chính sách kinh tế nhất quán, nội bộ lãnh đạo , Đảng và nhà nước đồn kết nhất trí ( khác với một số nước trong khu vực có những thời đỉêm khác nhau trong tiến trình phát triển, các phe phái
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">lãnh đạo tiến hành lật đổ bắt bớ gây mất ổn định cho sự phát triển chung). Đây là yếu tố có tính chất quyết định cho sự thành cơng của q trình cải cách nền kinh tế, cải tiến cơ chế quản lý, cải tổ bộ máy hành chính, thực hiện nhất quán các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngồi.
1.2. Mơi trường pháp luật
Qúa trình hình thành hệ thống văn bản pháp luật về FDI.
Văn bản đầu tiên của chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghiã Việt Nam quy định các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ FDI tại Việt Nam là điều lệ đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam ( ban hành kèm nghị dịnh 115-CP ngày 18/4/1977).
Bước sang giai đoạn cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường mở quốc hội khoá 8 đã thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vào ngày 29/12/1987. Thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, việc thu hút FDI vào Việt Nam càng có ý nghĩa quan trọng. Hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài đứng trước những cơ hội và thách thức mới. Luật đầu tư nước ngoài tiếp tục được hoàn thiện và được quốc hội khóa IX nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thơng qua ngay 12/11/1996.
Cùng với q trình hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam đã ban hành các văn bản luật như: luật dầu khí, luật đất đai, luật dân sự, luật ngân sách, luật bảo vệ môi trường, luật thương mại..., pháp luật về quyền và nghĩa vụ tổ chức của cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam, đồng thời ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành pháp luật như các nghị định quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các thông tư hướng dẫn của bộ, ngành.
Đặc biệt trong những năm từ 1997-2000, trước tình hình FDI vào Việt Nam liên tục suy giảm, nhà nưỡ tiếp tục đổimới cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai FDI. chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định chi tiết thi hành luật đàu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, nghị định 10/CP/1998 ngày 23/11/1998 về một số biện pháp
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">khuyến khích và đảm bảo hoạt động FDI tại Việt Nam kèm theo danh mục các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đàu tư, nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 về đầu tư theo hợp đồng BOT –BTO –BT áp dụng đới với hoạt động FDI.
Để nâng cao hơn nữa hiệu lực quản lý của các chính sách đảm bảo và chính sách đầu tư, cải cách các thủ tục hành chính , tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngồi, xố bỏ sự can thiệp không cần thiết cảu các cơ quan nhà nước vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm tăng cường tính hấp dẫn và cạnh tranh của mơi trường đầu tư Việt Nam.
Cho đến nay, có trên 100 văn bản pháp quy cụ thể hoá hướng dẫn luật đầu tư nước ngoài. ngoài các văn bản luật và văn bản pháp quy trong nước quản lý về FDI, nhà nước đã ký kết những điều ước liên quan. Đáng chú ý là các hiệp định cấp chính phủ về tránh đánh thuế 2 lần, cơng ước thành lập tổ chức đảm bảo đầu tư đa biên ( MIGA), cơng ước Niuc năm 1958 về cơng nhận thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài, các hiệp định tín dụng, tài chính kí kết giữa chính phủ Việt Nam với các tổ chức tài chính ngân hàng quốc tế hoặc với chính phủ nước ngồi. Việt Nam gia nhập ASEAN, APEC , tham gia AFTA và ký kết hiệp định khung về đầu tư ASEAN, ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ và đệ đơn xin gia nhập WTO, tất cả những cố gắng đó của Việt Nam nhằm nâng cao tính pháp lý của mơi trường đầu tư ở Việt Nam hồ nhập với thơng lệ quốc tế.
Thời kỳ vừa qua, như nhận xét của ngân hàng thế giới, Việt Nam đã có những bước đi vững chắc trong cải cách pháp luật và tạo ra khung pháp lý phục vụ cho sụ nghiệp đổi mới kinh tế, trong đó có khung pháp luật đối với FDI.
Tình hình thực hiện.
Cùng với các hoạt động tạo lập mơi trường chính tri, kinh tế vĩ mô ổn định, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội, các hoạt động điều hành trực tiếp (như quy hoạch thu hút FDI, xúc tiến đầu tư, thẩm định cấp giấy phép đàu tư và tạo điều kiện để triển khai thực hiện dự án đầu tư), quá trình xây dựng và phát
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">triển hệ thống pháp luật Việt Nam đã tạo ra khung pháp lý đảm bảo và khuyến khích cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam theo mục tiêu và định hướng của nhà nước.
Các kết qủa đạt được về số dự án được cấp phép đầu tư, tổng số vốn đầu tư, địa bàn đầu tư, các đối tác nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là khá khách quan.
• Về quan hệ pháp luật hình thành với các dự án đầu tư:
Luật đầu tư nước ngoài quy đinh ba hình thức đầu tư chủ yếu. Đó là: hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi. Cả ba hình thức trên đều đước các nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn vận dụng.
Trong những năm gần đây có hiện tượng là nhiều doanh nghiệp liên doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc 100% vốn trong nước. Trong thời gian qua, FDI đầu tư dưới hình thức 100% vốn nước ngồi có xu hướng tăng lên cùng với sự chuyển đổi hình thức đầu tư nước ngồi liên doanh sang loại hình 100% vốn nước ngồi. Điều đó phần nào phản ánh môi trường kinh doanh ở nước ta là khá thuận lợi. Bởi vì thơng thường khi mơi trường kinh doanh khó khăn phức tạp về thủ tục hành chính, độ rủi ro cao, nhà đầu tư nước ngồi thường lựa chọn hình thức liên doanh để phía đối tác nước chủ nhà đứng ra giải quyêt các thủ tục hành chính và chia sẻ rủi ro. Cịn khi mơi trường kinh doanh thuận lợi hơn, đảm bảo kinh doanh có lãi, nhà đầu tư nước ngồi lựa chọn hình thức kinh doanh 100% vốn nước ngoài.
Theo bộ kế hoạch - đầu tư, hầu hết các doanh nghiệp liên doanh sau khi chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều tiếp tục triển khai thực hiện dự án. Ví dụ: cơng ty Cocacola Chương Dương chuyển đổi hình thức đầu tư từ tháng 10/1998, năm 1999 tăng trưởng 30%, nộp ngân sách trên 3 triệu USD. Công ty bia Poster Đà Nẵng ( trước đây là công ty bia BGI Đà Nẵng) sau khi chuyển đổi vẫn tiếp tục tăng trưởng 60%/năm đang chiếm lĩnh thị trường Đà Nẵng và Miền Trung. Việc chuyển đổi doanh nghiệp liên doanh sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đều xảy ra ở các doanh nghiệp liên doanh kém
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đền thua lỗ trong các doanh nghiệp liên doanh là do đối tác nưóc ngồi đeo đuổi những mục tiêu chiến lược dài hạn, do trình độ quản lý của cán bộ Việt Nam trong liên doanh chưa đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý dẫn đến tình trạng hoặc là khơng nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên khơng bảo vệ được lợi ích của phía Việt Nam hoặc là đấu tranh bất hợp tác với nước ngoài. Nhưng dù thua lỗ do nguyên nhân nào thì đồng vốn của đối tác Việt Nam mà chủ yếu là doanh nghiệp nhà nướcvẫn bị tiêu hao và ngan sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả của các liên doanh sau khi chuyển đổi trong khi doanh nghiệp 100% vốn nứoc ngoài sau chuyển đổi đều tiếp tục triển khai thực hiện dự án và mở rộng sản xuất.
• Về tình hình htực hiện pháp luật trong quảnlý tài chính, ngoại hối, chuyển giao cơng nghệ và bảo vệ mơi trưịng, quản lý sử dụng lao động… cũng đã đạt được những kết qủa nhất định nhưng vẫn tồn tại nhiều bất cập. Điều nay sẽ được nêu kỹ hơn trong thực trang về quản lý nhà nước trong q trình triển khai dự án.
1.3. Mơi trường kinh tế vĩ mô
Kiềm chế có hiệu quả nạn lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Chỉ số lạm phát là chỉ tiêu tổng quát đánh giá mức độ ổn định kinh tế vĩ mô. sau một thập niên lạm phát cao( 2 con số) liên tục trong 3 năm (1986 – 1989) lạm phát 3 con số với hiệu quả tiêu cực, nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng kéo dài những năm 1980. Từ năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới được đặc trưng bởi hai cơn sốt lạm phát. Cho đến nay lạm phát đã giảm xuống còn một con số. Điều đáng chú ý là nhà nước có thể kiểm sốt được lạm phát. So với năm 1996, mức tăng giá năm 1997 chỉ là 3,6%. Năm 1998 tuy gặp những khó khăn về thiên tai mức lạm phát chỉ dừng lại ở 9,2%. Trong đó yếu tố chủ yếu làm tăng giá năm 1998 là do tăng giá lương thực (+23,1%) tăng giá USD (+16,2%)
Như vậy cho đến năm 1998 chúng ta đã đạt được mục tiêu khống chế và kiểm soát lạm phát. Mức lạm phát giá cả hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ năm
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">1999 chỉ ở mức 2%, ở khía cạnh ổn định kinh tế vĩ mô, hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và thậm chí vượt kế hoạch dự kiến. Bội chi ngân sách giữ ở mức dưới 5% GDP, cán cân xuất khẩu gần như cân bằng. Trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt mức 11,2 tỷ USD, tăng hơn 20% so với năm 1998. có thể nói trên bề nổi của đời sống kinh tế – xã hội những chỉ tiêu phản ánh sự ổn định kinh tế vĩ mô dường như rất vững vàng.
Tuy nhiên, đằng sau sự ổn định đó lại ẩn chứa những nguy cơ xuất hiện triệu chứng thiểu phát, một căn bệnh chưa từng gặp ở Việt Nam. Thật ra, tình hình giảm giá cũng đã từng xuất hiện từ vài ba năm nay nhưng trong thời gian rất ngắn và tổng mức lạm phát cả năm cao, duy năm 1999 thời gian rớt giá liên tục kéo dài hơn 8 tháng , lại gắn liền với tình trạng giá cả hầu hết mọi loại hàng hoá ( trừ dầu mỏ) trên thị trường thế giới đều giảm cịn ở trong nước hàng hố tồn kho khá nhiều. Sự nguội lạnh của thị trường và giá cả gây ra những khó khăn về mặt cơng ăn việc làm, thu nhập và đời sống. Nhà nước đã thực hiện một số các biện pháp khuyến khích cầu như hạ lãi suât ngân hàng, thực hiện chính sách đại đầu tư thơng qua các chương trình được nhà nước tài trợ… nhưng vẫn chưa khắc phục được hiện tượng thiểu phát. Đây là vấn đề cần sớm có các biện pháp giải quyết để khởi động lại nhịp độ đầu tư, duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thực thi chính sách tỷ giá hối đối linh hoạt có sự kiểm sốt của nhà nước
Trong nhiều thập niên ( đặc biệt là những năm đầu thập niên 80) nhà nước Việt Nam đã thực thi một chính sách tỉ giá cố định và cố gắng ổn định theo tỉ giá danh nghĩa đã làm cho tỉ giá hối đoái phản ánh giá trị đồng tiền dân tộc quá cao so với giá trị thực tế dẫn đến việc hạn chế xuất khẩu, kìm hãm xuất khẩu phát triển. Đây là một bài học thực tiễn trong thập niên 80 của nước ta.
Từ năm 1989 Việt Nam đã thực thi một cơ chế tỉ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước, tức là không cứng nhắc theo một tỉ giá cố định và cũng không để tỉ giá biến động một cáchd đột ngột gây tác hại cho hoạt động kinh tế đối ngoại. việc thực thi một chính sách tỉ giá hối đối như vậy. đã thực sự giúp các
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">nhà xuất nhập khẩu có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển. Từ đó tạo triển vọng cho vấn đề huy động vốn nước ngoài.
Giải quyết thâm hụt ngân sách
Trong thời gian qua. đối với Việt Nam việc giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách đã được nhà nước đặt lên hàng đầu trong nỗ lực của chính phủ nhằm từng bước thực hiện có hiệu quả chính sách ổn định kinh tế vĩ mô.
Nhà nước đã thực hiện chủ trương kiểm soát chặt chẽ ngân sách. Biểu hiện sinh động là việc ban hành luật ngân sách – là cơ sở pháp luật cho hoạt động thu chi ngân sách, từng bước cố gắng giảm mức thâm hụt ngân sách. Đặc biêt trong năm 1997 và 1998 trước tình trạng hết sức khó khăn của hoạt động thu ngân sách trong bối cảnh đang xảy ra khủng hoảng kinh tế trong khu vực, nhà nước đã liên tục có các giải pháp để đảm bảo đủ vốn cho đầu tư phát triển, kinh tế tăng trưởng ở mức tối đa.
Tuy tình hình thâm hụt ngân sách có giảm đi nhưng vẫn ở mức cao. Để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, chính phủ đã phải tăng cường vay vốn trong và ngồi nước, trong đó vay vốn nước ngoài chiếm một tỉ trọng tương đối lớn. Tuy nhiên, về dài hạn, biện pháp vay vốn nước ngồi để đầu tư nếu khơng quan tâm đến hiệu quả toàn diện của đầu tư, khơng có biện pháp thu hồi vốn một cách kiên quyết thì sẽ làm cho nợ nước ngoài tăng dẫn đến mất uy tín trong thanh tốn quốc tế và cũng có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tiền tệ. Khi đó sẽ khơng thể vay tiếp để bù đắp bội chi ngân sách.
Phát triển hệ thống tài chính làm cơ sở ổn định kinh tế vĩ mơ
Hệ thống tài chính có một vài trị quan trọng trong việc huy động các khoản tiết kiệm từ các nguồn dư thừa và phân bổ các nguồn vốn cho các đối tượng sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, trong đó có các nhà đầu tư nước ngoài.
Trong thời gian qua ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, hệ thống tài chính chủ yếu là hệ thống ngân hàng được cải cách thành hai cấp
1.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho sự vận động FDI
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Tăng tỷ trọng ngân sách cho XD cơ sở hạ tầng
Trong những năm qua nhà nước đã đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng các mối quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước, tạo mối quan hệ thiện cảm với Việt Nam trong cộng đồng tổ chức quốc tế. Vì vậy, nguồn ODA mà các nước và các tổ chức quốc tế tài trọ cho nước ta ngày càng tăng. Do đó, nguồn vốn trực nước ngồi đầu tư vào nền kinh tế khơng ngừng tăng lên.
Nếu năm 1990, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước chỉ là 2418,6 tỉ VND thì năm 1999 tăng lên 48720,5 tỉ VND. Tốc độ tăng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước bình quân trong thời kì này là 118,4%/năm. Có những năm tốc độ tăng tới 170,9% so với năm trước.
Tuy nhiên phần lớn vốn đầu tư của nhà nước là dành cho khu vực đô thị và các khu cơng nghiệp, các cơng trình xây dựng cơ bản khác. Chính vì vậy các khu vực đơ thi của nước ta có nhiều điều kiện để phát triển và phồn vinh. Trong khi đó nguồn vốn ngân sách đầu tư cho nông thôn tuy tăng về mặt tuyệt đối nhưng tỷ trọng ngày càng giảm. Nếu tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho nông nghiệp năm 1998 là 15,2% trong tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước thì năm 1999 chỉ cịn 9,7%. Trong khi đó tốc độ tăng của tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của cả nước là hơn 20 lần. Sự sút giảm này là nguyên nhân của sự trì trệ, kém phát triển về cơ sở hạ tầng nông thôn trong những năm qua so với đô thị. Đồng thời đó cũng là nguyên nhân của sự kém hấp dẫn đối với các nguồn vốn đầu tư khác của xã hội trong đó có FDI.
Tăng cường huy động FDI cho ĐT XDCB dưới hình thức BOT Để tăng cường huy động vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà nước đã không ngừng hồn thiện chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật dưới hình thức BOT.
Đầu tư dưới hình thức BOT được nhà nước cho phép từ khi ban hành luật sửa đổi, luật đầu tư nước ngoài năm 1992 và được cụ thể hoá bằng nghị định số 27/CP ngày 23/11/1993 của chính phủ ban hành qui chế đầu tư theo hình thức hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao.
</div>