Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

BỆNH LÝ VÙNG CỔ Y KHOA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.88 KB, 43 trang )

MỘT SỐ BỆNH LÝ VÙNG CỔ
Đặng Ngọc Hùng
Ngơ Văn Hồng Linh

1. Nang và rò bẩm sinh ở vùng cổ.
1.1. Nang và rò bẩm sinh vùng cổ giữa:
1.1.1. Đại cương:

Nang vùng cổ giữa cịn gọi là nang giáp - lưỡi vì nó phát triển từ ống giáp - lưỡi
(ductus thyreo - glossus) hay nang giáp - móng vì nang thường liên quan chặt chẽ
với thân xương móng. Bình thường ống giáp - lưỡi có trong thời kỳ bào thai và một
phần phát triển thành vùng eo và tháp của tuyến giáp. Trong quá trình phát triển
của cơ thể, ống này bị teo rồi mất đi. Trong các trường hợp ống đó khơng mất đi
hồn tồn thì sẽ là ngun nhân tạo nên các nang vùng cổ giữa. Nếu các nang này
bị bội nhiễm và rị ra da thì gây nên rị bẩm sinh vùng cổ giữa.
1.1.2. Triệu chứng lâm sàng:

+ Thường xuất hiện ở tuổi trẻ và trung niên, phát triển chậm.
+ Thường nằm ở chính giữa cổ, liên quan chặt chẽ với thân xương móng
(thường nằm sát ngay phía dưới thân xương móng).
+ Khám lâm sàng:
- Nang vùng cổ giữa: lớp da trên bề mặt nang vẫn bình thường. Nang thường có
mật độ căng, đàn hồi, ấn khơng đau, di động theo nhịp nuốt, chọc hút nang thấy có
chất dịch nhầy trong.
- Rò vùng cổ giữa: lỗ rò thường ở chính giữa cổ sát với bờ dưới thân xương
móng, lỗ rị thường nhỏ, khơng có hiện tượng viêm nề và thường xun có dịch
nhầy chảy ra.
1.1.3. Chẩn đốn:

+ Nang vùng cổ giữa:
- Chẩn đoán xác định: dựa vào:


. Các triệu chứng lâm sàng đã nêu trên.
. Chọc hút nang ra chất dịch nhầy trong.
. Mổ sinh thiết.
- Chẩn đoán phân biệt:
. Với các u và hạch to ở vùng cổ: không di động theo nhịp nuốt, chọc hút sinh
thiết tế bào giúp xác định được tế bào học của khối u hoặc hạch.

303


. Với các bướu tuyến giáp: dựa vào chọc hút sinh thiết tế bào, chụp xạ hình
tuyến giáp...
+ Rị vùng cổ giữa:
- Chẩn đoán xác định: dựa vào
. Các triệu chứng lâm sàng đã nói ở trên...
. Chụp đường rị bằng bơm thuốc cản quang.
- Chẩn đoán phân biệt:
. Với các rò hạch lao ở vùng cổ: dựa vào vị trí rị hạch lao thường ở phía một
bên cổ, miệng lỗ rò thường viêm nề, dịch rò là chất bã đậu, kèm theo thường có
nhiều hạch to nhỏ ở vùng cổ…
. Với rò bẩm sinh vùng cổ bên: dựa vào vị trí rị vùng cổ bên thường ở dọc theo
bờ trong cơ ức - đòn - chũm.
1.1.4. Điều trị:

+ Nang hoặc rị vùng cổ trước đều có chỉ định mổ cắt bỏ triệt để. Bệnh rất dễ tái
phát nếu không cắt bỏ triệt để được tổ chức nang hoặc đường rò.
+ Đối với nang vùng cổ trước: do nang là di tích của ống giáp - lưỡi nên thường
phải cắt bỏ một đoạn thân xương móng để có thể cắt bỏ triệt để được nó, vì đường
đi của ống này qua sát dưới chỗ giữa thân xương móng để lên gốc lưỡi.
+ Đối với rò vùng cổ trước: dùng xanh methylen bơm vào đường rị để xác

định chính xác được đường rị khi mổ cắt bỏ. Thơng thường cũng phải cắt bỏ một
đoạn thân xương móng để có thể cắt bỏ triệt để được đường rò.
1.2. Nang và rò bẩm sinh vùng cổ bên:
1.2.1. Đại cương:

Nang bẩm sinh vùng cổ bên cịn gọi là nang mang vì nó được tạo nên do cịn lại
một phần khe mang thứ hai (đơi khi là khe mang thứ nhất hoặc thứ ba) ở thời kỳ
bào thai. Nếu các nang này bị bội nhiễm và rị ra da thì tạo nên các rị vùng cổ bên
hay rò nang mang.
1.2.2. Triệu chứng lâm sàng:

+ Thường xuất hiện ở bệnh nhân tuổi trẻ hoặc trung niên, tiến triển chậm.
+ Khám lâm sàng:
- Nang vùng cổ bên: thường nằm ở phía bên của cổ, dọc theo bờ trong của cơ
ức - đòn - chũm. Da trên bề mặt nang vẫn bình thường, mật độ căng và đàn hồi, ấn
không đau, không di động theo nhịp nuốt. Chọc hút nang thấy có chất dịch nhầy
trong hoặc trắng đục.
- Rò vùng cổ bên: lỗ rò cũng thường nằm dọc theo bờ trong của cơ ức - đòn
-chũm, miệng lỗ rị thường nhỏ, ít có hiện tượng viêm nề, thường có chất dịch nhầy
trong chảy ra qua lỗ rị.
1.2.3. Chẩn đoán:

+ Nang vùng cổ bên:
- Chẩn đoán xác định:
304


. Các triệu chứng khám lâm sàng nói trên.
. Chọc hút nang thấy ra chất dịch nhầy trong hoặc trắng đục.
. Mổ sinh thiết khối nang.

- Chẩn đoán phân biệt:
. Với các hạch to và u khác ở vùng cổ: dựa vào xét nghiệm chọc hút sinh thiết tế
bào.
. Với các bướu tuyến giáp: dựa vào chọc hút sinh thiết tế bào khối u, xạ hình đồ...
+ Rị vùng cổ bên:
- Chẩn đoán xác định:
. Các triệu chứng khám lâm sàng đã nói trên.
. Chụp đường rị bằng bơm thuốc cản quang.
- Chẩn đốn phân biệt:
. Với các rị hạch lao ở vùng cổ: dựa vào các triệu chứng đã nói ở phần trên (1.1.3).
. Với rị bẩm sinh vùng cổ giữa: dựa vào vị trí lỗ rị.
1.2.4. Điều trị:

+ Nang hoặc rị vùng cổ bên đều có chỉ định điều trị bằng phẫu thuât. Bệnh rất
hay bị tái phát nếu không mổ lấy được triệt để nang và đường rị.
+ Vì nang và rị vùng cổ bên có liên quan chặt chẽ với sừng lớn xương móng,
thành bên của họng và các thành phần mạch máu, thần kinh quan trọng của vùng
cổ nên phẫu thuật cắt bỏ triệt để các nang và rị vùng cổ bên thường khó khăn và
gặp nhiều biến chứng hơn so với các nang và rị vùng cổ giữa.
1.3. Nang dạng biểu bì vùng cổ:
1.3.1. Đại cương:

Nang dạng biểu bì vùng cổ được tạo ra bởi một phần ngoại bì bị tách ra và nằm
chìm xuống tổ chức dưới da trong thời kỳ bào thai. Tổ chức ngoại bì này sau đó tự
động phát triển tạo ra một nang chứa các tổ chức biểu bì nằm giữa tổ chức dưới da
ở vùng cổ.
1.3.2. Triệu chứng chẩn đoán:

+ Thường xuất hiện ở tuổi thanh niên, phát triển chậm.
+ Thường nằm ở các vị trí khác nhau ở vùng cổ như: nền khoang miệng, gốc

lưỡi, cằm, dưới hàm, đôi khi ở vùng cổ bên hoặc ở giữa vùng một phần ba trên của
cổ.
+ Nang thường có hình tròn, mật độ hơi mềm và đàn hồi, ranh giới rõ, thường
khơng dính vào da. Chọc hút nang thấy có chứa tổ chức kiểu chất bã đậu.
1.3.3. Điều trị:

Có chỉ định mổ cắt bỏ triệt để nang.

305


2. Các u ở vùng cổ.
2.1. Các u lành tính vùng cổ:
2.1.1. U mỡ:

Thường nằm ở vùng sau cổ hay vùng dưới địn. U phát triển chậm, khơng
dính với da, giới hạn thường không rõ rệt, mật độ mềm, mặt nhẵn và có thể có
nhiều thùy.
Chẩn đốn xác định bằng chọc sinh thiết hút tế bào khối u.
Điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ khối u.
2.1.2. U xơ:

U thường có mật độ rắn chắc, phát triển chậm. Điển hình là loại u xơ thần kinh
trong bệnh Recklinghausen.
Chẩn đoán xác định bằng chọc sinh thiêt hút tế bào khối u và kết quả chẩn đốn
mơ bệnh học sau mổ sinh thiết.
Điều trị: có thể chỉ định mổ cắt bỏ khối u.
2.1.3. U bạch mạch:

+ U bạch mạch thể giản đơn:

Thường phát triển trên da vùng mặt và cổ, thường có kích thước 1 - 2cm, da
trên bề mặt khối u bình thường, ranh giới khối u thường không rõ, nắn không đau.
+ U bạch mạch thể hang:
Có thể phát triển ở trong da, trong niêm mạc và trong cơ. Vị trí của u khơng
những hay gặp ở cổ mà cịn có thể ở má, mơi, lưỡi... Kích thước khối u có thể rất
lớn.
Khi khám và ép lên khối u thì có thể thấy khối u nhỏ lại. Nếu không ép nữa thì
khối u trở lại kích thước ban đầu.
+ U bạch mạch thể kén:
Thường phát triển trong mô tổ chức dưới da vùng cổ, ở thành bên c ủa ngực
và bụng.
U có thể lan rộng và có kích thước lớn, nắn thấy đàn hồi, ấn không đau, da trên
bề mặt khối u bình thường.
Trường hợp u lớn có thể chèn ép vào khí quản gây khó thở. U có thể dính và
chèn ép vào các mạch máu, thần kinh của vùng cổ.
Chẩn đoán xác định dựa vào chọc sinh thiết hút tế bào khối u và kết quả mổ
sinh thiết để chẩn đốn mơ bệnh học.
Điều trị: có chỉ định mổ cắt bỏ khối u khi u có kích thước lớn, gây chèn ép u các
cơ quan xung quanh và ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tâm lý của bệnh nhân.
2.1.4. U máu:

U máu là một nhóm các mạch máu tân tạo hợp lại với nhau thành một khối,
không những không có hoạt động chức năng có ích nào mà cịn gây phá hủy các
306


mơ của cơ quan xung quanh và cản trở dịng máu của hệ tuần hồn. Rất khó phân
biệt những huyết quản tân tạo với các huyết quản bị giãn và dài ra.
+ Phân lo ại u máu: thường phân ra 2 lo ại là: u máu thể mao mạch và u máu
thể hang.

- U máu thể mao mạch:
. Các mao mạch tân tạo chứa đầy máu. Nhiều mao mạch bị lấp đầy bởi huyết
khối. Trong lng mao mạch có những mầm nội mạc. Lượng máu qua u không
nhiều lắm nên ít khi gây ra xuất huyết.
. Trong trường hợp các mao mạch có lịng hẹp, tế bào nội mạc lại sinh sản rất
nhiều thì u có tính chất đặc và được gọi là u máu nội mạc.
. Thường gặp loại u này ở dưới da vùng cổ dưới dạng các đám màu đỏ tía, ấn
khơng đau, phát triển chậm.
- U máu thể hang: ít gặp hơn loại trên.
. Có cấu trúc như tổ chức cương, nghĩa là có nhiều hồ huyết khơng đều nhau và
thơng với nhau, trong lịng cá hồ huyết đó có một lớp nội mạc của mạch máu bình
thường.
. U thường khơng có vỏ bọc và xâm lấn vào các tổ chức xung quanh.
. Hay gặp ở vùng dưới da và trong cơ c ủa cổ. Ngoài ra cịn gặp ở các vị trí khác
của cơ thể như ở gan, mơi…
+ Chẩn đốn u máu: dựa vào các triệu chứng chính như sau:
- Thường phát triển chậm và khơng có biểu hiện bệnh lý gì đặc biệt trong một
thời gian dài.
- Chọc hút sinh thiết khối u thấy có máu.
- Chụp cản quang khối u: bơm thuốc cản quang vào khối u và chụp X quang.
+ Điều trị các u máu:
- Chiếu xạ: có tác dụng làm các mạch máu trong khối u bị viêm, nội mạc bị dày
lên dẫn tới tắc và xơ hoá các mạch máu của khối u.
- Đốt u máu bằng tia laser: dùng tia laser để đốt cháy từng lớp tổ chức u máu
(thường chỉ dùng được cho các u máu nhỏ, nơng)
- Tiêm thuốc gây xơ hố vào u máu: để gây viêm, tắc và xơ hoá các mạch máu
trong u.
- Phẫu thuật cắt bỏ khối u máu.
2.1.5. U tiểu thể cảnh:


Là một loại u khá hiếm gặp. U phát triển từ tiểu thể cảnh, chỗ phân chia của
động mạch cảnh gốc ra động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong.
U thường nằm ở vùng trước cơ ức - đòn - chũm, gần góc hàm, ranh giới rõ, mật
độ chắc, hình gần trịn hoặc bầu dục, có thể thấy u đập nảy theo nhịp đập của động
mạch cảnh. U có thể chèn ép vào xoang cảnh gây phản xạ giảm huyết áp.
Điều trị: có chỉ định mổ cắt bỏ khối u vì thường gây hiện tượng chèn ép xoang
cảnh và các cơ quan khác ở vùng cổ.

307


2.2. Các u ác tính vùng cổ:
2.2.1. Lymphosacoma:

+ Các hạch lymphosacoma có thể xuất hiện từ chuỗi hạch ở cổ. Hạch to lên dần
rồi họp với nhau thành một đám lớn, dính vào nhau. Các u này đẩy da lồi lên và có
thể chèn ép vào khí quản gây khó thở.
+ Bệnh thường phát triển nhanh, di căn theo đường bạch huyết vào vùng hầu,
họng, ruột, gan, phổi và các cơ quan khác trong cơ thể.
+ Chẩn đoán xác định bằng chọc hút sinh thiết tế bào và mổ sinh thiết hạch.
2.2.2. Hodgkin:

+ Đây là một bệnh của hệ thống hạch bạch huyết, tiến triển như một u ác tính.
Trong 50% các trường hợp thấy vị trí tiên phát của bệnh là ở các hạch vùng cổ, còn
lại là ở hạch của các vùng khác như: nách, mạc treo ruột…
+ Triệu chứng:
- Bệnh thường xuất hiện ở nam giới, tuổi trẻ (15 - 35 tuổi). Hạch bạch huyết lúc
đầu còn nhỏ, di động. Về sau các hạch to lên và dính vào nhau thành một khối lớn.
Hơn 70% số bệnh nhân thấy có lách to.
- Tồn thân bệnh nhân thường có sốt kéo dài, dao động kiểu làn sóng. Kèm

theo thường có hiện tượng ngứa da.
- Xét nghiệm máu thấy tăng bạch cầu đa nhân trung tính và ái toan.
- Chụp X quang có thể thấy: hạch to ở trung thất và rốn phổi, có hiện tượng
thưa xương ở cột sống, xương chậu, xương đùi, xương cánh tay, xương ức…
Bệnh thường kéo dài hàng năm với những đợt bột phát. Bệnh nhân thường tử
vong do suy mịn.
+ Chẩn đốn xác định dựa vào chọc hút sinh thiết tế bào và mổ sinh thiết hạch.
2.2.3. Các hạch ác tính do di căn:

+ Vùng cổ là một vùng thường bị di căn bởi các u ác tính từ những nơi khác
trong cơ thể đến.
- Ung thư vú, phổi, trung thất, dạ dày... thường di căn đến các hạch vùng
thượng đòn.
- Ung thư vùng đầu lưỡi, môi... thường di căn đến các hạch cổ nói chung.
+ Triệu chứng chẩn đốn:
- Các hạch di căn thường có mật độ cứng chắc, khơng đau.
- Chẩn đoán xác định dựa vào chọc sinh thiết hút tế bào và mổ sinh thiết hạch.

3. Tật vẹo cổ (torticolis, caput obstimum).
3.1. Bệnh căn:

Có thể do bẩm sinh hay mắc phải:
+ Bẩm sinh: do cơ ức - đòn - chũm bị viêm hay bị chấn thương từ trong thời kỳ
bào thai, làm cho cơ bị xơ hóa và co cứng lại.
308


+ Mắc phải: có thể gặp do một trong các nguyên nhân sau:
- Sẹo da co kéo sau khi bị bỏng.
- Thói quen nghiêng đ ầu ở những người bị cận thị sớm và nặng, lâu dần làm

cho cơ ức - đòn - chũm bị co rút lại.
3.2. Triệu chứng chẩn đốn:

+ Đầu vẹo về phía cơ ức - địn - chũm bị tổn thương, trong khi đó mặt quay
nghiêng về phía vai lành.
+ Cơ ức - địn - chũm .bên tổn .thương bị co ngắn lại, .căng và cứng như một sợi dây.
+ Mặt người bệnh không cân đối: bên cổ tổn thương thấy mặt như bị ngắn lại,
bên lành thì mặt lại như bị dài ra.
+ Cột sống cổ và ngực bị cong vẹo về bên có tổn thương, càng để lớn tuổi thì
mức độ cong vẹo đó càng lớn.
.

3.3. Điều trị:

+ Chỉ định mổ cắt cơ ức - địn - chũm bị tổn thương theo hình bậc thang để kéo
dài độ dài của nó, những trường hợp nặng có thể cắt ngang tồn bộ cơ ức -địn chũm đó. Nếu là do sẹo bỏng thì phải cắt bỏ sẹo và vá da.
+ Sau mổ phải tiến hành bó bột cổ ở tư thế thẳng cổ.

4. Xương sườn phụ mọc ở cổ.
4.1. Đại cương:

Xương sườn phụ mọc ở cổ là một dị dạng bẩm sinh. Thường chỉ chẩn đốn
được khi có các hiện tượng chèn ép bó mạch thần kinh hoặc khi tình cờ chụp X
quang vùng cổ - ngực mà phát hiện được.
Xương sườn phụ thường mọc ở đốt sống cổ thứ VII. Một số trường hợp có thể
mọc từ đốt sống cổ thứ V hoặc VI. Có thể mọc ở một bên hoặc cả hai bên đốt sống
cổ.
4.2. Triệu chứng chẩn đốn:

Khi xương sườn phụ cịn ngắn thì thường khơng thấy biểu hiện các dấu hiệu

lâm sàng gì đặc biệt. Khi đã mọc dài thì có thể sờ thấy đầu trước của nó ở hõm trên
địn, kèm theo có các triệu chứng chèn ép đám rối thần kinh cánh tay và động mạch
dưới đòn.
Khi động mạch dưới địn bị chèn ép thì có thể thấy da tay trắng bệch, đầu các
ngón tay lạnh. Đơi khi có thể nghe thấy tiếng thổi tâm thu ở trên động mạch dưới
đòn do bị đầu xương sườn phụ chèn vào làm cho động mạch bị hẹp lại.
Khi đám rối thần kinh cánh tay bị chèn ép thì có thể thấy các dấu hiệu: đau, tê,
teo cơ, yếu cơ và mỏi cơ của tay bị bệnh. Những dấu hiệu trên thể hiện rõ nhất ở
các cơ dạng và cơ đối chiếu.
Khi để duỗi cánh tay và đưa ra phía sau thì các dấu hiệu chèn ép nói trên càng
thể hiện rõ ràng hơn do xương sườn phụ càng chèn ép mạnh vào động mạch dưới

309


đòn và đám rối thần kinh cánh tay nhiều hơn. Đây là một dấu hiệu rất đặc trưng của
bệnh xương sườn phụ ở cổ.
Chẩn đoán xác định phải dựa vào chụp phim X quang vùng cổ - ngực.
4.3. Điều trị:

+ Điều trị bảo tồn:
Trong các trường hợp chèn ép mạch máu và thần kinh khơng q nặng nề thì
có thể điều trị bảo tồn: dùng các thuốc giảm đau, giãn cơ, lý liệu pháp... mục đích là
làm giãn các cơ vùng cổ, trên đòn... để giảm được mức độ chèn ép trực tiếp của đầu
trước xương sườn phụ lên các cấu trúc mạch máu và thần kinh ở vùng cổ. Tuy
nhiên kết quả lâu dài của phương pháp điều trị này không đảm bảo.
+ Phẫu thuật cắt bỏ xương sườn phụ ở cổ:
Có thể mổ bằng đường trên địn ho ặc đường qua vùng hố nách. Tiến hành
phẫu tích cẩn thận (tránh làm tổn thương đám rối thần kinh cánh tay và bó mạch
dưới địn) để cắt bỏ xương sườn phụ, lấy bỏ cả màng xương c ủa nó để tránh tái

phát.

5. Các viêm nhiễm vùng cổ.
5.1. Cụm nhọt vùng cổ:
5.1.1. Triệu chứng:

Lúc đầu biểu hiện dưới dạng một đám thâm nhiễm rắn dưới mép tóc ở sau cổ,
có màu đỏ sẫm, sau đó biến thành màu tím nhạt. Dần dần đám thâm nhiễm to ra và
có thể lan rộng khắp vùng sau cổ rồi phát triển vào tận các lớp sâu của cổ.
Đám thâm nhiễm dầy lên, cao hơn mặt da bình thường. Trên bề mặt của nó có
nhiều nốt mủ to nhỏ nổi lên, xen lẫn với những đám da hoại tử. Mủ có thể lan vào
các mơ ở dưới cổ dẫn đến viêm tấy dưới cân cổ.
Do thâm nhiễm lan rộng, bệnh nhân rất đau đớn, không quay được cổ, đầu ở tư
thế bất động.
Tình trạng tồn thân của bệnh nhân rất nặng, thân nhiệt tăng cao, mạch nhanh,
mệt mỏi, nhức đầu. Bạch cầu máu tăng cao, tốc độ lắng máu tăng. Có trường hợp bị
nhiễm trùng huyết với các biểu hiện khởi đầu là sốt tăng cao và rét run.
5.1.2. Điều trị:

+ Tăng cường sức đề kháng của cơ thể: bằng các biện pháp như:
- Truyền máu tươi.
- Bảo đảm chế độ dinh dưỡng tốt.
- Sử dụng các loại vitamin phù hợp.
- Điều trị tốt các bệnh phối hợp.
+ Điều trị kháng sinh:
- Dùng kháng sinh sớm, liều cao, phối hợp kháng sinh.
- Dùng kháng sinh theo kháng sinh đồ.
+ Xử trí tại chỗ cụm nhọt:

310



- Phong bế vùng thâm nhiễm: có thể dùng kháng sinh pha với novocain 0,25%
để phong bế.
- Có thể dùng bột axit salixylic rắt lên vùng cụm nhọt để giúp làm bong nhanh
tổ chức hoại tử.
- Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tổ chức hoại tử: khi bệnh nhân đến muộn và có các
dấu hiệu bị nhiễm trùng huyết.
5.2. Viêm mô liên kết vùng cổ:
5.2.1. Đại cương:

Viêm mô liên kết ở vùng cổ thường do biến chứng của các quá trình viêm ở cổ
như: đinh nhọt, viêm quầng, sâu răng...
Có khi viêm mơ liên kết xảy ra cùng với tình trạng các hạch bạch huyết tại chỗ
cũng sưng to, mưng mủ và vỡ qua da. Chính vì vậy mà người ta có thể dựa theo các
vùng phân bố bạch huyết để phân chia ra: viêm vùng dưới cằm, viêm vùng dưới
hàm, viêm vùng trên xương ức, viêm vùng trước các tạng và viêm vùng sau các
tạng.
Vùng cổ có 5 lá cân, những lá cân này nối với nhau thành những khoang cân
trong đó chứa các cơ quan ở cổ. Do đó viêm mơ liên kết ở khoang cân nào thì có
những tính chất đặc biệt của khoang cân đó.
5.2.2. Phân loại:

+ Viêm mô liên kết vùng dưới cằm và dưới hàm:
- Phát triển ở trong khoang cân thứ nhất. Trong khoang này có các hạch bạch
huyết, tuyến nước bọt dưới hàm...
- Viêm mô liên kết ở đây thường do viêm mơi, lưỡi, má, chân răng... lan đến.
Tình trạng viêm khơng chỉ khư trú ở cổ mà còn lan cả vào sàn miệng và cuống
lưỡi. Lúc này bệnh nhân đau dữ dội, khó nuốt, có thể có khó thở vì bị phù nề ở
thanh quản.

+ Viêm mô liên kết vùng trên xương ức:
Thường ở nông và khư trú ở giữa khoang cân cổ thứ hai và thứ ba.
+ Viêm mô liên kết vùng trước các tạng:
- Phát triển trong các khe vùng trước các tạng do các lá cân cổ thứ tư tạo thành.
Trong khoang này có các mạch máu lớn ở cổ như các động mạch và tĩnh mạch
cảnh, các hạch bạch huyết...
- Tình trạng viêm có thể lan dọc theo các khe liên cân, theo các mạch máu
xuống trung thất trước và gây nên viêm trung thất.
+ Viêm mô liên kết vùng sau các tạng:
- Khe sau các tạng nằm ở giữa lớp cân thứ tư và thứ năm. Khe này thông với
trung thất sau. Khi apxe ở vùng sau họng, ở cạnh thực quản... thì mủ có thể lan vào
trung thất sau.
- Trong viêm mô liên kết vùng cổ, trạng thái toàn thân bệnh nhân thường rất
nặng: sốt cao, rét run, khơng ăn nuốt được, có khi ngạt thở do khí quản bị chèn ép
311


hay bị phù nề. Tình trạng viêm có thể lan rộng, làm tổn thương đường hô hấp và
trung thất, gây phù nề thanh quản, viêm phổi và nhiễm trùng huyết.
5.2.3. Điều trị:

+ Khi bệnh mới bắt đầu thì phải điều trị tích cực bằng kháng sinh, nếu khơng có
hiệu quả thì phải kết hợp với biện pháp dẫn lưu các khoang viêm.
+ Trong các trường hợp có ngạt thở do tình trạng phù nề thanh quản thì phải
tiến hành mở khí quản cấp cứu.
5.3. Viêm các hạch bạch huyết vùng cổ:
5.3.1. Viêm hạch bạch huyết cấp:

+ Thường xuất hiện sau các viêm họng, sâu răng, viêm mô liên kết vùng cổ.
Các hạch có thể sưng to, đau, hố mủ và vỡ ra ngồi da.

+ Nếu hạch viêm chưa hố mủ thì phải dùng kháng sinh. Khi đã làm mủ thì
phải tiến hành rạch tháo mủ.
5.3.2. Viêm hạch bạch huyết mãn:

+ Thường là các hạch viêm do lo. Chẩn đoán dựa vào: hạch thường nổi thành
chuỗi dọc theo bờ trước hay sau của cơ ức - đòn - chũm, hạch thường khơng đau,
có thể vỡ gây rị chất bã đậu qua da.
+ Điều trị: dùng thuốc chống lao. Nếu rò hạch lao thì phải mổ cắt bỏ hạch.

6. Vết thương vùng cổ.
Vết thương vùng cổ có thể do bạch khí (vật nhọn đâm, vật sắc cắt hay chém)
hoặc do hoả khí gây ra. Vì vùng cổ có nhiều cơ quan rất quan trọng của cơ thể nên
các vết thương này có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng nếu khơng được xử trí kịp
thời và đúng đắn.
6.1. Vết thương các mạch máu lớn:

+ Đây là một thương tích r ất nặng và nguy hiểm. Ngoài việc chảy máu ồ ạt
gây mất máu nhiều và nhanh, cịn có thể xảy ra tình trạng tắc mạch khí vì tĩnh
mạch bị rách rộng (áp lực thấp của các tĩnh mạch lớn ở cổ có thể làm cho khơng
khí dễ dàng lọt vào tĩnh mạch). Lúc này bệnh nhân có thể nhanh chóng bị tử
vong.
+ Máu từ vết thương có thể chảy vào các tổ chức phần mềm ở cổ gây chèn ép
khí quản dẫn đến ngạt thở nhanh chóng. Bọc máu tụ cịn có thể phát triển để tạo
thành các phồng động mạch hoặc thơng động - tĩnh mạch sau này.
+ Xử trí:
Xử trí vết thương mạch máu vùng cổ phải được coi là một cấp cứu tối khẩn cấp.
- Tìm mọi cách cầm ngay máu đang chảy: băng ép, băng nút...
- Đặt bệnh nhân nằm ngang, đầu thấp.
- Truyền máu, truyền dịch... để hồi phục lượng máu mất.
- Xử trí cơ bản: mở rộng vết thương dọc theo bó mạch, tiến hành thắt hoặc khâu

nối mạch máu bị tổn thương.
312


6.2. Vết thương thanh quản, khí quản:

+ Có thể gặp vết thương thủng hoặc rách nát thanh quản. Lúc này có nguy cơ
là máu từ vết thương có thể qua lỗ rách thanh - khí quản tràn vào đường hơ hấp
gây ngạt thở cấp. Khơng khí có thể đi qua lỗ vết thương khí quản ra gây tràn khí
dưới da.
+ Xử trí: mở khí quản cấp cứu, đồng thời tiến hành cầm máu vết thương vùng cổ.
6.3. Vết thương thực quản vùng cổ:

(Xem phần bệnh thực quản).
6.4. Vết thương tuyến giáp:

+ Đây là một loại vết thương hiếm gặp nhưng rất nguy hiểm vì gây chảy máu
nhiều và lan rộng ở vùng cổ.
+ Xử trí: tiến hành cầm máu nhu mô tuyến giáp bị thương bằng cách mổ bộc lộ
tuyến giáp, khâu cầm máu bằng các mối khẫu chữ X hoặc chữ U. Có thể tiến hành
thắt các động mạch tuyến giáp để cầm máu có hiệu quả hơn.
6.5. Vết thương ống ngực:

+ Vết thương ống ngực tuy hiếm gặp nhưng là một loại vết thương nguy hiểm
vì làm mất một lượng dưỡng chấp lớn của cơ thể, nạn nhân nhanh chóng suy kiệt
và dẫn đến tử vong.
+ Xử trí: phải mổ để thắt hoặc khâu lại vết thương ống ngực.

BỆNH BƯỚU GIÁP ĐƠN THUẦN
Đặng Ngọc Hùng

Ngơ Văn Hồng Linh

1. Đại cương.
Bệnh bướu giáp đơn thuần là bệnh trong đó nhu mô tuyến giáp to ra lan toả
hoặc cục bộ mà nguyên nhân không phải do viêm, u lành hay ung thư. Chức năng
tuyến giáp bình thường.
Bệnh cịn có nhiều tên gọi khác như: bướu giáp địa phương, bướu giáp lành
tính, bướu giáp khơng nhiễm độc, bệnh loạn dưỡng tuyến giáp dịch tễ...

2. Bệnh căn và bệnh sinh.
Tuy vẫn còn một số điểm chưa rõ ràng nhưng những cơ chế bệnh sinh được
công nhận rộng rãi hiện nay là:
2.1. Thiếu iot cho nhu cầu chuyển hóa của cơ thể:
2.1.1. Cơ chế gây bướu giáp do thiếu iot:

+ Khi thiếu iot thì tuyến giáp sẽ khơng thể sản xuất đủ các hocmon giáp
(thyroxin...) đáp ứng cho nhu cầu của cơ thể. Tình trạng thiếu thyroxin trong máu
313


sẽ kích thích vùng trước tuyến yên tăng tiết TSH, chất này sẽ kích thích làm tuyến
giáp to ra gây nên bướu giáp.
+ Với cơ chế này, tuyến giáp có thể to ra lan toả hoặc cục bộ (các bướu giáp thể
nhân), cơ chế tạo ra các bướu giáp thể nhân là:
- Khả năng nhậy cảm với TSH của các tế bào khác nhau trong tuyến giáp
không giống nhau, do đó những tế bào nào có khả năng nhậy cảm cao hơn sẽ chịu
tác động của TSH nhiều hơn, do đó sẽ phân bào mạnh hơn.
- Cơ chế thứ hai có thể cũng đóng vai trị nhất định trong việc hình thành các
bướu giáp thể nhân là hiện tượng hoại tử của các nang tuyến riêng lẻ hoặc cả một
vùng các nang tân tạo do mất cân đối sự cấp máu của vùng tân tạo đó, kết quả là tổ

chức xơ sẹo sẽ phát triển trong nhu mô tuyến giáp và tạo nên một mạng lưới cố
định bao lấy các vùng phát triển cục bộ kiểu nhân.
2.1.2. Các nguyên nhân gây thiếu iot:

+ Thiếu iot do cung cấp không đủ:
- Thiếu iot trong thức ăn, nước uống, khơng khí thở... hàng ngày.
- Nguyên nhân này thường gặp ở các vùng núi cao và là nguyên nhân gây nên
bướu giáp địa phương.
+ Thiếu iot do giảm khả năng hấp thu iot của cơ thể: có thể gặp khi
- Rối loạn hoạt động của hệ men chuyển hóa iot của cơ thể do:
. Bị thiếu hụt bẩm sinh các men chuyển hoá iot: có thể xảy ra đối với từng cá
thể trong cộng đồng hoặc mang tính chất chủng tộc, cơ địa, giới tính...
. Bị ức chế hoạt động cảu các men chuyển hóa iot: do tác dụng của một số chất
trong thực phẩm (ăn quá nhiều lạc, củ cải, đậu nành...), nước uống (chứa nhiều chất
nitrit...), thuốc chữa bệnh (uống kéo dài một số thuốc như PAS, sulfathiazon...)...
- Rối loạn khả năng hấp thu iot của đường ruột: do các nguyên nhân như điều
kiện sống và dinh dưỡng kém, nhiễm trùng, nhiễm độc, bệnh đường tiêu hố mãn
tính…
Các ngun nhân nói trên thường gặp ở loại bướu giáp đơn phát.
2.2. Rối loạn tự miễn dịch:

Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện thấy ở bệnh nhân bướu giáp đơn thuần có
các tự kháng thể kháng tổ chức tuyến giáp, các tự kháng thể này có tác dụng kích
thích làm cho tuyến giáp to ra, gây nên bướu giáp.
Tuy nhiên thuyết này khơng giải thích được nhiều hiện tượng bệnh lý trong
bệnh bướu giáp đơn thuần nên đang tiếp tục được nghiên cứu thêm.

314



3. Giải phẫu bệnh lý.
3.1. Bướu giáp:
3.1.1. Vị trí: bướu giáp có thể nằm ở các vị trí sau:

+ Bình thường nằm ở vùng cổ, tương ứng với hai bên sụn giáp và các vịng sụn
khí quản từ thứ nhất đến thứ ba.
+ Bướu giáp nằm sau xương ức: một phần hay gần như toàn bộ tuyến giáp nằm
lấp sau xương ức nhưng một phần bướu vẫn nhìn và sờ thấy được ở hõm trên ức,
nhất là khi cho bệnh nhân nuốt, rặn hay ho. Các động mạch của loại bướu giáp này
vẫn xuất phát từ các động mạch giáp bình thường.
+ Bướu giáp trong lồng ngực: tồn bộ bướu giáp nằm ở trong trung thất như
một khối u trung thất. Có khi bướu giáp nằm hẳn ở trung thất giữa hoặc trung thất
sau. Khơng nhìn và sờ thấy khi bệnh nhân ho hay rặn. Các mạch máu của loại
bướu giáp này có thể xuất phát từ động mạch vú trong, quai động mạch chủ hoặc
động mạch dưới đòn (rất ít khi còn giữ liên quan với các động mạch giáp bình
thường).
+ Bướu giáp lạc chỗ: có trường hợp bướu giáp nằm lạc chỗ hồn tồn ở vị trí
khác trong cơ thể như: dưới gốc lưỡi, sau cơ ức - đòn - chũm (bướu giáp trong lồng
ngực cũng là một dạng của bướu giáp lạc chỗ).
3.1.2. Hình thái đại thể:

+ Bướu giáp lan tỏa:
- Toàn bộ tuyến giáp to ra về kích thước nhưng vẫn giữ được hình dáng chung
của tuyến giáp.
- Mặt bướu giáp thường nhẵn. Trên mặt cắt ngang bướu thấy tổ chức nhu mô
bướu tương đối thuần nhất, khơng có vỏ bọc và khơng có ranh giới giữa vùng bệnh
lý và vùng lành.
+ Bướu giáp thể nhân:
- Trên nền tổ chức tuyến giáp bình thường, có một hay nhiều chỗ to lên cục bộ,
tạo thành bướu giáp một hay nhiều nhân.

- Tùy theo quá trình loạn sản và thối hóa trong q trình phát triển của các
bướu giáp nhân mà qua mặt cắt ngang bướu có thể thấy các loại: bướu giáp dạng u
tuyến, bướu giáp đơn thuần hố nang, bướu giáp đơn thuần có nhân tăng sản...
+ Bướu giáp thể hỗn hợp: trên nền một bướu giáp lan to ả có một hoặc nhiều
bướu giáp nhân.
3.1.3. Vi thể:

+ Trong giai đoạn đầu của bệnh, các biến đổi ở nhu mơ tuyến cịn tương đối
thuần nhất, các nang tuyến tăng về số lượng và thể tích. Lúc đầu các tế bào biểu mơ
của nang có hình trụ, lịng nang khơng có ho ặc chỉ có ít chất keo, về sau có nhiều
nang giãn rộng ra do chứa nhiều chất keo đặc, tế bào biểu mô ở thành nang bị dẹt
315


lại. Tùy mức độ chiếm ưu thế của các loại nang đó mà ta có bướu giáp thể nhu mơ
(các nang nhỏ chiếm ưu thế) hay bướu gíap thể keo (các nang lớn chiếm ưu thế).
+ Sau vài năm, các biến đổi trong nhu mô bướu giáp trở nên không thuần nhất,
bên cạnh những khối tổ chức gồm nhiều nang nhỏ có biểu mơ q sản, phì đại, xuất
hiện nhiều nang lớn giãn rộng, chứa đầy chất keo đặc, nhiều khi thối hố, hồ
nhập vào nhau để thành các u nang keo cỡ khác nhau. Tổ chức đệm trong tuyến
cũng bị biến đổi, thoái hoá, thiếu máu, hoại tử hoặc chảy máu cục bộ, phát triển tổ
chức xơ... Lúc này điều trị bằng nội khoa ít có kết quả.
3.2. Tổ chức xung quanh bướu giáp:

Tổ chức xung quanh bướu giáp thường bị biến đổi do bị chèn ép, nhất là các
bướu giáp thể nhân và bướu giáp thể hỗn hợp độ lớn.
+ Da và cơ vùng trước cổ: bị bướu giáp đẩy ra, căng mỏng, đôi khi các cơ này
bị viêm dính vào bề mặt bướu giáp. Có trường hợp bị bội nhiễm gây viêm rị ra da
vùng cổ.
+ Khí quản: có thể bị bướu giáp chèn đẩy, lệch khỏi vị trí bình thường và hẹp

lại theo chiều trước - sau hay chiều bên. Các vịng sụn khí quản bị chèn ép lâu ngày
có thể bị thiểu dưỡng, mỏng và mềm đi.
+ Thực quản: có thể bị bướu giáp chèn đẩy làm hẹp lại và bị lệch khỏi vị trí giải
phẫu bình thường, nhất là khi bướu giáp thể nhân hay hỗn hợp độ lớn.
+ Các mạch máu:
- Các tĩnh mạch nơng ở cổ: có thể bị bướu giáp chèn ép nên ứ máu, căng to ra.
- Có trường hợp bướu lớn chèn vào động mạch cảnh làm ảnh hưởng đến dịng
máu lên não.
+ Các dây thần kinh: có thể gặp các tình trạng chèn ép dây X, dây hồnh, dây
quặt ngược, đám rối thần kinh giao cảm cổ.. Tùy mức độ chèn ép mà gây các rối
loạn ở các mức độ khác nhau hoạt động của các dây thần kinh đó.

4. Triệu chứng lâm sàng.
4.1. Bướu giáp: chú ý xác định các tính chất sau:

+ Vị trí:
- Thơng thường bướu nằm ở vùng cổ trước và hai bên cổ, tương ứng với sụn
giáp và các vòng sụn đầu tiên của khí quản.
- Bướu giáp chìm: bướu nằm khuất sau xương ức nhưng một phần bướu vẫn
xác định được ở trên hõm ức.
- Bướu giáp trong lồng ngực: bướu nằm hồn tồn trong trung thất, khơng sờ
thấy được cả khi cho bệnh nhân ho hay gắng sức, rặn.
+ Da trên mặt bướu: khi bướu to thì có thể thấy hình dáng của cổ bị biến dạng,
các tĩnh mạch cổ nông bị giãn rộng, ngoằn ngoèo.
+ Bề mặt bướu: có thể nhẵn hoặc lổn nhổn nhiều nhân to nhỏ không đều (bướu
thể hỗn hợp).
316


+ Mật độ bướu: có thể mềm hay căng, chắc và đàn hồi.

+ Ranh giới: có thể rõ hoặc đơi khi khó xác định nếu bướu có mật độ mềm.
+ Hình thái:
- Bướu lan toả thì vẫn giữ được hình dáng của tuyến giáp.
- Bướu nhân hay hỗn hợp thì thường có hình méo mó khơng đều, làm biến dạng
vùng cổ.
+ Di động: bướu giáp luôn di động theo nhịp nuốt.
+ Độ lớn của bướu:
- Bảng phân loại của Tổ chức Y tế Thế Giới (1979):
. Độ 0: không sờ thấy tuyến giáp
. Độ IA: khơng nhìn thấy nhưng sờ thấy được tuyến giáp to ra ít nhất là bằng
đốt hai ngón cái của bệnh nhân.
. Độ IB: sờ được dễ dàng. Nhìn thấy được ở tư thế ngửa đầu. Các trường hợp
bướu giáp thể một nhân cũng được xếp vào mức độ này.
. Độ II: nhìn thấy rõ ngay khi đầu ở tư thế bình thường.
. Độ III: đứng xa đã nhìn thấy bướu giáp.
. Độ IV: bướu giáp rất to.
- Bảng phân loại của Khoa ngoại Bệnh viện 103:
. Độ I: sờ thấy bướu khi bệnh nhân nuốt.
. Độ II: nhìn và sờ đều thấy rõ nhưng vịng cổ chưa thay đổi.
. Độ III: bướu lồi hẳn ra khỏi vịng cổ, chiếm một diện tích rộng trước cổ, xác
định được kích thước.
Độ IV: bướu to lấn quá xương ức, làm thay đổi đáng kể hình dáng vùng cổ.
. Độ V: bướu rất to, biến dạng hoàn toàn vùng cổ.
4.2. Các triệu chứng do bướu chèn ép tổ chức xung quanh:

+ Chèn ép khí quản:
- Có các triệu chứng: khó thở theo tư thế nằm, tiếng thở khị khè, ho khan kéo
dài do bướu gây kích thích khí quản.
- Có thể có những cơn khó thở cấp tính về đêm gọi là “cơn hen giáp trạng”:
bệnh nhân đang ngủ đột nhiên xuất hiện cơn khó thở cấp tính, ho rũ rượi, tím tái,

hoảng hốt, các tĩnh mạch nơng vùng cổ căng to. Cơn ngạt thở có thể rất nặng và
dẫn tới tử vong.
+ Chèn ép thần kinh:
- Chèn ép dây thần kinh quặt ngược: nói khàn, giọng đơi. Soi thanh quản có thể
thấy bị liệt dây thanh âm (thường ở một bên).
- Chèn ép dây X: có thể làm thay đổi nhịp tim, nhịp thở, huyết áp (tuỳ mức độ
chèn ép mà gây hiện tượng kích thích hay ức chế dây X).
- Chèn ép dây hoành: gây nấc hoặc liệt cơ hoành.
+ Các dấu hiệu chèn ép khác:
317


- Chèn ép thực quản: khó nuốt, nuốt nghẹn…
- Chèn ép động mạch cảnh: ù tai, đau đầu (thường ở một bên).
- Chèn ép hệ tĩnh mạch vùng cổ: phù nề, căng to các tĩnh mạch nông vùng cổ.

5. Các xét nghiệm cận lâm sàng.
5.1. Các xét nghiệm chức năng tuyến giáp:

Kết quả các xét nghiệm chức năng tuyến giáp như: đo độ tập trung 131 I tại tuyến
giáp, định lượng T3, FT3 , T4 , FT4, TSH máu, điện tim, chuyển hóa cơ sở, định lượng
glucoza máu, cholesterol huyết tương... đều thấy trong giới hạn bình thường.
5.2. Các xét nghiệm về hình thái tuyến giáp:
5.2.1. Chụp X quang:

+ Chụp thường có uống thuốc cản quang thực quản cho phép đánh giá sơ bộ độ
lớn bướu giáp và tình trạng chèn đẩy khí quản và thực quản.
+ Chụp tuyến giáp có kết hợp bơm khí vào vùng quanh tuyến giáp: có thể dùng
khí oxy hay cacbonic bơm vào vùng tuyến giáp rồi chụp X quang vùng cổ thẳng và
nghiêng. Phương pháp này có thể cho phép xác định được ranh giới và kích thước

của bướu giáp.
+ Chụp bạch mạch tuyến giáp gián tiếp: tiến hành tiêm 3 - 4 ml dung dịch cản
quang dầu vào nhu mô bướu giáp, sau 10 - 15 phút chất cản quang dầu này sẽ được
hệ bạch mạch trong tuyến giáp (vốn rất phong phú và nối với nhau chằng chịt) hấp
thu. Tiếp đó tiến hành chụp X quang tuyến giáp thẳng và nghiêng (khoảng cách
chụp 2 mét, điện thế 120 Kv, cường độ 10 - 20 mA cho tư thế thẳng và 8 - 10 mA
cho tư thế nghiêng). Phương pháp này cho phép đánh giá được hình thể, kích thước,
liên quan giải phẫu của bướu giáp với các cơ quan và tổ chức ở vùng cổ.
+ Chụp động mạch tuyến giáp chọn lọc: luồn ống thơng động mạch tới động
mạch dưới địn, vào tới thân động mạch giáp - cổ - vai thì bơm thuốc cản quang để
chụp. Do hệ động mạch trong tuyến giáp nối với nhau rất phong phú nên hình ảnh
chụp động mạch tuyến giáp chọn lọc cho phép xác định được hình dáng, kích
thước, liên quan giải phẫu... của bướu giáp.
5.2.2. Chụp xạ hình tuyến giáp:

+ Thường dùng chất đồng vị phóng xạ 131I hoặc 99mTc.
+ Xét nghiệm này xác định được vị trí, hình thái, kích thước, một số đặc điểm
tổn thương trong tổ chức bướu giáp, trọng lượng của bướu giáp. Đặc biệt trong
những trường hợp bướu giáp lạc chỗ thì đây là xét nghiệm rất có giá trị giúp cho
chẩn đốn xác định vị trí của bướu giáp.
5.2.3. Chụp siêu âm tuyến giáp:

Hiện nay, đây là một phương pháp chẩn đốn rất thuận tiện và có giá trị chính
xác khá cao trong việc xác định vị trí, kích thước, cấu trúc (tổn thương dạng đặc

318


hay lỏng), trọng lượng... của bướu giáp cũng như tương quan giải phẫu của bướu
giáp với các cơ quan khác ở vùng cổ.

5.2.4. Chụp cắt lớp điện toán (CT), chụp cộng hưởng từ hạt nhân (MRI):

+ Xác định vị trí, hình thái, kích thước, trọng lượng... của bướu giáp.
+ Xác định được tương quan giải phẫu của bướu giáp với các cơ quan xung quanh.
5.3. Xét nghiệm tế bào học và tổ chức học:
5.3.1. Các phương pháp sinh thiết tuyến giáp bằng kim:

Có thể áp dụng các phương pháp sinh thiết bướu giáp bằng kim như:
+ Sinh thiết hút tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ: sử dụng kim nhỏ chọc hút tế
bào bướu giáp để đưa đi làm xét nghiệm tế bào học. Hiện nay, đây là một biện pháp
chẩn đốn rất thơng dụng và có giá trị chẩn đốn tế bào học khá chính xác các bệnh
lý tuyến giáp nói chung và bệnh bướu giáp đơn thuần nói riêng.
+ Sinh thiết tổ chức bướu giáp bằng các kim được thiết kế đặc biệt (kim sinh
thiết khoan hoặc sinh thiết cắt): bệnh phẩm lấy được sẽ đưa đi để chẩn đốn mơ
bệnh học của bướu giáp.
Bệnh phẩm lấy được từ các phương pháp sinh thiết bằng kim nói trên c ũng có
thể được đưa đi để làm các xét nghiệm xác định các thành phần sinh hoá c ủa tổ
chức bướu giáp.
5.3.2. Xét nghiệm mô bệnh học bướu giáp sau mổ:

Có giá trị chẩn đốn xác định bệnh.
5.4. Nội soi:

+ Soi thanh quản: để đánh giá tình trạng các dây thanh âm, xác định các dây
thần kinh quặt ngược có bị tổn thương do bướu chèn ép hay khơng.
+ Soi khí quản: để đánh giá tình trạng bướu chèn ép khí quản.

6. Chẩn đốn.
6.1. Chẩn đốn xác định:


Chẩn đốn xác định có thể dựa vào các yếu tố sau:
+ Hội chứng thay đổi hình thái tuyến giáp:
- Các triệu chứng lâm sàng: bướu nằm ở vùng trước và hai bên cổ tương ứng
với sụn giáp và các vòng sụn đầu tiên của khí quản, di động theo nhịp nuốt, hình
thái có thể là thể nhân, hỗn hợp hay lan toả.
- Các xét nghiệm hình thái tuyến giáp: ghi xạ hình tuyến giáp, chụp siêu âm
tuyến giáp... cho phép chẩn đốn xác định vị trí, hình thái, kích thước, trọng
lượng... của bướu giáp.
+ Các xét nghiệm đánh giá chức năng tuyến giáp: đo độ tập trung 131I tại tuyến
giáp, định lượng T3 , FT3 , T4, FT4 , TSH máu, điện tim, chuyển hóa cơ sở... đều ở
giới hạn bình thường.
+ Xét nghiệm tế bào học và mô bệnh học tuyến giáp: thông qua các biện pháp
sinh thiết tuyến giáp bằng kim (sinh thiết hút tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ, sinh
319


thiết tổ chức tuyến giáp bằng kim khoan hay kim cắt) hoặc qua bệnh phẩm tuyến
giáp sau mổ sinh thiết.
6.2. Chẩn đoán phân biệt:
6.2.1. Với các bệnh khác của tuyến giáp:

+ Bệnh bướu giáp lan toả nhiễm độc: ngoài hội chứng thay đổi hình thái tuyến
giáp (bướu giáp lan toả), bệnh nhân cịn có hội chứng cường chức năng tuyến giáp
và các rối loạn thần kinh nội tiết khác.
+ Bệnh u độc tuyến giáp (bệnh Plummer): bệnh nhân cũng có bướu giáp thể
nhân, nhưng kèm theo có thêm hội chứng cường chức năng tuyến giáp, nhất là các
rối loạn về tim mạch.
+ Bệnh bướu giáp đần độn (cretinism): thường ở trẻ em, bướu giáp to đồng thời
có hội chứng nhược năng tuyến giáp.
+ Ung thư tuyến giáp: Thường ở bệnh nhân trên 40 tuổi. Khối u thường đơn

độc, mặt sần sùi, mật độ chắc, thường xâm nhiễm vào tổ chức xung quanh gây khó
thở, khó nuốt, nói khàn từ khi u cịn chưa lớn lắm. Trên xạ hình đồ khối ung thư
tuyến giáp có hình một “nhân lạnh” (do các tế bào ung thư khơng hấp thu iot) cịn
trên siêu âm bướu có hình một nhân đặc.
+ Các bệnh viêm tuyến giáp:
- Bệnh Viêm tuyến giáp tự miễn dịch (bệnh Hashimoto): bướu giáp thường có
mật độ chắc, hay gây chèn ép làm bệnh nhân khó thở, khó nuốt. Có những đợt
bướu to ra và đau, kèm theo bệnh nhân có sốt nhẹ. Trong máu phát hiện thấy các tự
kháng thể kháng tuyến giáp tăng cao.
- Bệnh viêm xơ tuyến giáp mãn tính (bệnh Riedel): bướu giáp có mật độ chắc
và “cứng như đá” do tổ chức liên kết trong tuyến giáp phát triển rất mạnh, cũng do
vậy các hiện tượng chèn ép thường xuất hiện sớm làm bệnh nhân khó thở, khó
nuốt. Nguyên nhân của bệnh cũng được cho là do cơ chế tự miễn dịch.
- Bệnh viêm tuyến giáp bán cấp tính De Quervain: bướu giáp có những đợt to
ra, cứng và rất đau. Bệnh nhân thường có sốt, người mệt mỏi, đau lan từ tuyến giáp
lên hàm và hai tai nhiều khi rất nhức nhối, khó chịu. Nếu được điều trị đúng (dùng
cocticoit) thì các triệu chứng hết đi nhanh.
- Viêm tuyến giáp cấp tính và apxe tuyến giáp: tuyến giáp sưng to, da trên bề
mặt tuyến nóng, đỏ và đau. Toàn trạng thường sốt, mệt mỏi. Xét nghiệm thấy tăng
bạch cầu đa nhân, công thức bạch cầu chuyển trái...
6.2.2. Với một số bệnh khác ở vùng cổ:

+ U nang vùng cổ giữa (u nang giáp - móng): u thường nằm ở chính giữa cổ,
dính vào xương móng, di động theo nhịp nuốt, thường có hình gần trịn hoặc bầu
dục, mặt nhẵn, không đau, đôi khi bị bội nhiễm và gây rò qua da vùng cổ (rò vùng
cổ bên). U được tạo nên là do còn lại một phần ống giáp - lưỡi (ductus thyreo glossus) ở thời kỳ bào thai. Thường gặp ở bệnh nhân ít tuổi. Chọc hút khối u thấy
có chất dịch nhầy trong hoặc trắng đục.
320



+ U nang vùng cổ bên (u nang mang): u thường nằm ở một bên cổ, sát bờ trước
cơ - ức - địn chũm, thường có hình gần trịn hoặc bầu dục, mặt nhẵn, không đau,
không di động theo nhịp nuốt, đơi khi bị bội nhiễm gây nên rị vùng cổ bên. U được
tạo nên là do còn lại một phần di tích của khe mang thứ hai (đơi khi là khe mang
thứ nhất hoặc thứ ba) ở thời kỳ bào thai. Thường gặp ở bệnh nhân cịn ít tuổi. Chọc
hút khối u nang thường thấy có chất dịch nhầy trong.
+ Một số bệnh lý khác ở vùng cổ như: các hạch bạch huyết to (lymphosacoma,
Hodgkin, lao...), các u phần mềm (u mạch máu, u nang tuyến bã, u tiểu thể cảnh, u
cơ, u mỡ...), u tuyến nước bọt, phồng động mạch cảnh hoặc thông động - tĩnh mạch
cảnh... Các khối tổn thương này đều có triệu chứng chung là không di động theo
nhịp nuốt như bướu giáp, chọc hút sinh thiết tế bào khối u giúp xác định chẩn đốn.

7. Phân loại.
Cho đến nay vẫn chưa có một bảng phân loại nào phản ánh được hoàn toàn đầy
đủ các thể bệnh của bệnh bướu giáp đơn thuần. Sau đây là tổng hợp lại các phân
loại đã có:
7.1. Theo hồn cảnh phát sinh:

+ Bướu giáp địa phương: xuất hiện ở một vùng địa phương, khi có trên 10% số
dân cư bị bệnh bướu giáp.
+ Bướu giáp dịch tễ: xuất hiện ở một tập thể người với tính chất nhanh và cấp
tính giống như một kiểu “dịch bướu cổ”, khi thay đổi chỗ ở thì bướu sẽ khỏi.
+ Bướu giáp đơn phát: chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở một số ít người sống trong một quần
thể không bị bệnh bướu giáp.
7.2. Theo vị trí khư trú:

+ Bướu giáp ở vị trí bình thường tại vùng cổ.
+ Bướu giáp nằm sau xương ức: một phần của bướu vẫn có thể xác định được ở
vùng cổ tuy phần lớn nằm lấp sau xương ức.
+ Bướu giáp trong lồng ngực: toàn bộ bướu giáp nằm trong lồng ngực.

+ Bướu giáp lạc chỗ ở những nơi khác: góc hàm, gốc lưỡi...
7.3. Theo hình thái đại thể của bướu giáp trên lâm sàng:

+ Bướu giáp thể nhân.
+ Bướu giáp thể lan tỏa.
+ Bướu giáp thể hỗn hợp.
7.4. Theo độ lớn của bướu:

(Xem phần 4. 1).
7.5. Theo lứa tuổi:

+ Bướu giáp trẻ em: thường có kèm theo tình trạng chậm phát triển về trí tuệ,
do đó cần hết sức chú ý thăm khám và chỉ định biện pháp điều trị thích hợp.
+ Bướu giáp tuổi dậy thì: thường tự khỏi sau khi đã có con.
321


+ Bướu giáp ở tuổi già: thường có q trình biến đổi loạn dưỡng nặng trong
bướu giáp do đó điều trị nội khoa ít có kết quả.

8. Tiến triển và biến chứng.
8.1. Tiến triển:

Bướu giáp đơn thuần thường phát triển chậm, kéo dài nhiều năm với những đợt
to ra nhanh hơn sau những đợt “yên tĩnh” kéo dài. Có những trường hợp không
điều trị và bướu tồn tại hàng chục năm với bệnh nhân cho đến chết mà không ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống. Tuy nhiên nếu không được điều trị thì trong
đại đa số trường hợp, bướu giáp thường phát triển to dần và gây ra nhiều biến
chứng.
8.2. Biến chứng:

8.2.1. Những biến chứng ở bản thân bướu giáp:

+ Chảy máu trong bướu giáp:
- Thường xảy ra ở các bướu giáp thể nhân nang.
- Thường xuất hiện đột ngột sau một chấn thương hay gắng sức trong giai đoạn
bướu giáp đang ở trạng thái bị ứ máu trước kỳ kinh nguyệt. Máu chảy ra có thể lách
vào vùng kẽ các nang tuyến giáp, tụ lại thành một bọc máu tụ hoặc chảy vào trong
lòng bướu giáp thể nang.
- Nếu máu chảy với số lượng ít và từ từ thì vùng có khối máu tụ sau đó có thể tự
xơ hoá, nếu máu chảy vào trong bướu giáp thể nang thì về sau chất dịch nang sẽ có
màu xanh đen do máu bị thối giáng dần trong đó.
- Nếu máu chảy nhiều và nhanh thì có thể làm bướu giáp căng to lên một cách
đột ngột, gây chèn ép cấp tính các cơ quan vùng cổ, nhất là khí quản dấn đến ngạt
thở cấp, nhiều trường hợp phải chỉ định mổ cấp cứu cắt bỏ bướu giáp chảy máu để
giải phóng chèn ép.
+ Viêm bướu giáp:
- Bướu giáp có thể bị nhiễm khuẩn và viêm cấp tính làm cho bướu giáp sưng to
nhanh chóng, gây chèn ép c ấp tính các cơ quan vùng cổ. Quá trình viêm nhiễm tiến
triển có thể dẫn tới tình trạng hố mủ và apxe của bướu giáp. Có trường hợp mủ từ
vùng apxe bướu giáp chảy ra đi dọc theo khí quản và lan vào trung thất làm cho
tình trạng của bệnh nhân càng nặng nề hơn.
- Trên lâm sàng có thể thấy bướu giáp to lên nhanh chóng, da trên bề mặt bướu
nóng, đỏ và đau. Toàn trạng bệnh nhân sốt cao, mệt mỏi, khó nuốt, nhiều trường
hợp khó thở cấp tính và nặng địi hỏi phải xử trí cấp cứu.
+ Basedow hóa:
Bướu giáp đơn thuần sau một thời gian tiến triển kéo dài có thể chuyển thành
cường chức năng (Basedow hóa). Lúc này trên bệnh nhân xuất hiện thêm các triệu
chứng của hội chứng nhiễm độc thyroxin nhưng thường khơng có lồi mắt như
trong bệnh Basedow.
322



+ Bướu giáp kèm thiểu năng giáp:
Sau một thời gian tiến triển, bướu giáp đơn thuần có thể bị các biến đổi viêm và
loạn dưỡng trong nhu mô tuyến giáp, nhất là ở các bướu giáp hỗn hợp có nhiều
nhân lớn. Kết quả là tuyến giáp khơng cịn đủ khả năng hoạt động bù lại tình trạng
thiếu hocmon giáp của cơ thể nữa và cơ thể ở tình trạng nhược giáp.
+ Ung thư hoá:
Một số trường hợp bướu giáp thể nhân sau một thời gian dài tiến triển thì
chuyển thành ung thư tuyến giáp. Hiện tượng này thường xảy ra ở các bệnh nhân
trên 40 tuổi. Tuy nhiên, một số tác giả cho rằng: các trường hợp trên thực ra là các
trường hợp ung thư tuyến giáp nguyên phát dạng tiến triển chậm.
8.2.2. Những biến chứng do bướu giáp to ra gây chèn ép:

+ Nếu khơng được điều trị thì bướu giáp có xu hướng phát triển ngày càng to ra
và gây chèn ép vào các cơ quan xung quanh ở vùng cổ, đồng thời ảnh hưởng đến
tâm lý và thẩm mỹ của bệnh nhân.
+ Các cơ quan ở vùng cổ thường bị chèn ép do bướu giáp to ra là:
- Khí quản: gây khó thở theo tư thế, ho, cơn “hen giáp trạng”...
- Thực quản: gây khó nuốt.
- Dây thần kinh quặt ngược: gây nói khàn, giọng đơi...
- Dây X, hạch giao cảm cổ: gây rối loạn nhịp tim, thay đổi huyết áp...
- Các mạch máu vùng cổ: gây phù nề vùng cổ - mặt, ù tai, đau đầu...

9. Điều trị.
9.1. Điều trị nội khoa:
9.1.1. Mục đích:

+ Đưa vào một lượng iot vượt quá nhu cầu của cơ thể nhằm ức chế hoạt động
của vùng dưới đồi - tuyến yên trong việc tiết ra TSH, nhờ đó làm giảm được TSH

máu, dẫn đến giảm tình trạng phát triển của bướu giáp.
+ Muốn có được tác dụng như vậy thì phải tiến hành điều trị sớm (khi bướu
giáp mới xuất hiện và cịn nhỏ). Nếu để muộn, q trình biến đổi loạn dưỡng trong
nhu mô tuyến giáp đã nặng rồi, thì điều trị sẽ khơng có kết qủa (vì nhu mơ tuyến
giáp khơng cịn khả năng phục hồi được nữa).
9.1.2. Chỉ định:

Có thể dùng cho mọi bệnh nhân bị bướu giáp đơn thuần. Càng dùng sớm (khi
bướu mới hình thành và cịn nhỏ) thì càng tốt.
9.1.3. Phác đồ điều trị:

+ Thyreoidin: thường dùng bắt đầu với liều nhỏ (0,02 - 0,05g/ngày). Sau 10
- 15 ngày thì tăng dần lên tới 0,2g/ngày. Dùng liên t ục mỗi đợt 20 ngày sau đó nghỉ
10 ngày. Thời gian điều trị có thể là 6 - 12 tháng.
323


+ Triiod thyronin: thường dùng với liều 50 - 100 microgam/ngày. Phác đồ điều
trị có thể sử dụng giống như của thyreoidin.
9.1.4. Kết quả chung của phương pháp điều trị nội khoa:

+ Với những bệnh nhân trẻ tuổi, mới bị bệnh và bướu giáp nhỏ thì kết quả điều
trị sau 1 - 3 năm có thể đạt được trên 60%.
+ Điều trị nội khoa ít có kết quả khi:
- Các bướu giáp to và thời gian bị bệnh đã lâu.
- Các bướu giáp thể nhân và thể hỗn hợp.
+ Trong điều trị nội khoa bằng các thuốc iot cần chú ý: khi dùng liều cao và kéo
dài thì có thể gặp các biến chứng như Basedow hoá, viêm tuyến giáp do iot, dị ứng
thuốc...
9.2. Điều trị ngoại khoa:

9.2.1. Chỉ định điều trị ngoại khoa:

Phải căn cứ vào nhiều yếu tố:
+ Theo hình thái bướu giáp:
- Bướu thể nhân và thể hỗn hợp: có chỉ định mổ sớm vì điều trị nội khoa ít có
kết quả, bướu khơng ngừng phát triển to dần lên và gây nên các biến chứng.
- Bướu thể lan toả: chỉ mổ khi bướu quá to gây chèn ép hoặc ảnh hưởng đến
thẩm mỹ và tâm lý của bệnh nhân.
+ Theo các biến chứng của bướu giáp:
- Bướu giáp đã gây các hiện tượng chèn ép ở vùng cổ: chỉ định mổ sớm.
- Bướu giáp có chảy máu trong bướu: nếu chảy máu nhiều và nhanh dẫn đến
chèn ép cấp tính đường thở thì phải chỉ định mổ cấp cứu, cắt bỏ bướu giáp để giải
phóng chèn ép.
- Bướu giáp bị viêm và apxe hố thì phải điều trị kháng sinh tích cực. Nếu có
tình trạng chèn ép gây khó thở cấp tính thì phải chỉ định mổ cắt bỏ bướu giáp bị
viêm hoặc trích tháo mủ ổ apxe.
- Bướu giáp Basedow hoá: điều trị nội khoa bằng thuốc kháng giáp tích cực và
chỉ định mổ sớm khi bệnh nhân đạt được bình giáp.
- Bướu giáp kèm nhược giáp: nói chung khơng có chỉ định mổ nếu khơng có
kèm theo các biến chứng khác nữa (chèn ép vùng cổ, chảy máu...). Chú ý điều trị
hocmon giáp thay thế để chống tình trạng nhược giáp.
- Bướu giáp có hiện tượng ung thư hố: có chỉ định mổ sớm.
+ Theo tuổi:
- Bướu giáp ở trẻ em: chỉ định điều trị ngoại khoa cần thận trọng vì có thể ảnh
hưởng đến hoạt động nội tiết của bệnh nhân sau này.
- Bướu giáp tuổi dậy thì: khơng có chỉ định mổ .
- Bướu giáp tuổi già: điều trị nội khoa ít kết quả và hay có biểu hiện chèn ép
nên thường có chỉ định mổ.
324



+ Theo vị trí:
- Bướu giáp nằm trong trung thất: có chỉ định mổ sớm vì gây các rối loạn bệnh
lý giống như một u trung thất.
- Bướu giáp cổ - trung thất: có chỉ định mổ sớm vì thường gây các hiện tượng
chèn ép ở vùng cổ.
9.2.2. Phương pháp vơ cảm:

Có thể áp dụng một trong các phương pháp vơ cảm sau:
+ Gây tê tại chỗ:
- Có thể gây tê tại chỗ từng lớp đơn thuần hoặc phối hợp với các thuốc trấn tĩnh
- giảm đau.
- Thường dùng cho các bướu giáp thể nhân hoặc các bướu giáp không lớn lắm,
chưa có các hiện tượng chèn ép vùng cổ.
+ Gây mê nội khí quản:
Thường dùng cho các bướu giáp độ lớn, đã có hiện tượng chèn ép nhiều ở vùng
cổ, nhất là đã chèn ép vào khí quản.
+ Châm tê:
- Thường áp dụng châm tê có kết hợp thuốc trấn tĩnh - giảm đau.
- Có thể áp dụng để mổ cho tất cả trường hợp bướu giáp đơn thuần có chỉ định mổ.
- Phương pháp này có ưu điểm nổi bật là:
. Giúp kiểm tra được giọng nói của bệnh nhân khi mổ (nhờ đó khơng gây tổn
thương dây thần kinh quặt ngược khi mổ).
. Sau mổ bệnh nhân hồi phục nhanh hơn.
. Giảm được biến chứng suy hô hấp sau mổ so với phương pháp gây mê nội khí
quản.
+ Gây tê đám rối cổ nơng:
- Thường áp dụng kết hợp với các thuốc trấn tĩnh - giảm đau.
- Có thể dùng cho tất cả các trường hợp bướu giáp đơn thuần có chỉ định mổ.
- Cũng có những ưu điểm nổi bật tương tự như phương pháp châm tê.

9.2.3. Các phương pháp mổ:

+ Cắt bỏ bướu giáp thể nhân cùng một phần tổ chức lành tuyến giáp quanh
bướu: dùng khi bướu giáp thể nhân đơn độc, kích thước nhỏ và chỉ chiếm một phần
tổ chức nhu mô tuyến giáp.
+ Cắt bỏ một thùy tuyến giáp: dùng khi bướu giáp thể nhân có kích thước to,
chiếm hết cả một thùy tuyến.
+ Cắt gần hoàn toàn tuyến giáp (để lại ít nhất là 25 - 30 gam tổ chức nhu mô
tuyến giáp lành): dùng khi bướu giáp thể hỗn hợp, bướu giáp thể nhiều nhân hoặc
bướu giáp thể lan tỏa ở cả hai thùy tuyến.
9.2.4. Các tai biến trong mổ:

+ Tắc mạch khí: do khơng khí lọt vào tĩnh mạch bị rách trong khi mổ.
325


+ Thương tổn khí quản: có thể gặp khi bướu quá to hoặc viêm dính nhiều gây
chèn đẩy và co kéo làm thay đổi vị trí giải phẫu của khí quản.
+ Co thắt thanh - khí quản gây ngạt thở cấp: có thể gặp trong các trường hợp
mổ khó, các động tác mổ quá mạnh gây kích thích quá mức lên vùng thanh - khí
quản.
9.2.5. Các biến chứng sau mổ (xem thêm bài bệnh Basedow):

+ Chảy máu sau mổ:
- Vị trí chảy máu thường từ các mạch máu ở dưới da hoặc cơ, ít khi gặp ở mỏm
cắt bướu giáp.
- Nguyên nhân chủ yếu là do cầm máu không tốt khi mổ hoặc do bệnh nhân có
các cử động quá mạnh ở vùng cổ sau mổ.
- Xử trí: nếu chảy máu gây nề căng vết mổ và làm bệnh nhân khó thở thì có chỉ
định mở lại vết mổ cầm máu.

+ Nói khàn hoặc mất tiếng sau mổ:
- Nguyên nhân có thể là do dây thần kinh quặt ngược bị tổn thương trong khi
mổ hoặc bị chèn ép phù nề sau mổ.
- Xử trí: dùng thuốc chống phù nề, thở khí dung có kháng sinh và cocticoit.
Nếu là do phù nề vết mổ thì tiếng nói thường sẽ hồi phục dần sau 3 - 7 ngày. Nếu là
do tổn thương dây thần kinh quặt ngược trong khi mổ thì tiếng nói thường được cải
thiện sau 6 - 7 tháng, sau thời gian này nếu vẫn khàn và mất tiếng thì mới nghĩ tới
phẫu thuật tạo hình dây thanh âm.
+ Tetani sau mổ:
- Nguyên nhân có thể do các tuyến cận giáp bị tổn thương khi mổ hoặc thiếu
máu nuôi dưỡng vì bị chèn ép và phù nề sau mổ.
- Xử trí: dùng canxi clorua pha thanh huyết ngọt tiêm tĩnh mạch để cắt cơn
Tetani, tăng cường truyền dịch bù đủ lượng điện giải, dùng thuốc chống phù nề
tích cực, cho ăn và uống thêm các chất giàu canxi. Thông thường bệnh nhân hồi
phục sau 3 - 5 ngày.
+ Suy hô hấp sau mổ:
- Thường do phù nề thanh - khí quản và phù nề vết mổ gây chèn ép khí quản
sau mổ.
- Trong một số trường hợp bướu giáp đơn thuần độ lớn với thời gian bị bệnh đã
lâu (nhất là các bướu giáp thể nhân hay hỗn hợp), tình trạng chèn ép lâu dài vào khí
quản có thể làm cho các vịng sụn khí quản bị thiểu dưỡng, mỏng và mềm đi. Sau
mổ cắt bướu giáp, khí quản khơng cịn đủ độ cứng nữa nên có thể bị xẹp xuống gây
ngạt thở cấp tính. Lúc này phải nhanh chóng mở khí quản cấp cứu.
+ Nhiễm trùng vết mổ.
326


+ Các biến chứng xa sau mổ:
- Nhược giáp: do cắt mất quá nhiều tuyến giáp hoặc do quá trình viêm xơ phát
triển mạnh trong phần nhu mơ tuyến cịn lại. Đây là một biến chứng cho đến nay

còn chưa được theo dõi và đánh giá chặt chẽ. Vấn đề này đang cần được sự chú ý
nghiên cứu của các nhà nội khoa và ngoại khoa.
- Bướu giáp tái phát: thường gặp sau mổ bướu giáp thể hỗn hợp và nhiều nhân
vì khi mổ có thể cịn rất nhiều nhân nhỏ nằm trong phần nhu mô tuyến giáp để lại
mà phẫu thuật viên khơng thể nhìn thấy được. Đây cũng là một vấn đề cần được sự
quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa.

BỆNH BASEDOW
Đặng Ngọc Hùng
Ngơ Văn Hồng Linh

1. Đại cương.
Bệnh Basedow là một bệnh nội tiết nặng, trong đó tình tr ạng bệnh lý nổi bật là:
tổ chức tuyến giáp tăng sinh và phì đại lan toả, đồng thời tiết quá nhiều hocmon
giáp trạng so với nhu cầu của cơ thể, dẫn tới nhiễm độc nội sinh hocmon giáp cho
các cơ quan trong cơ thể.
Bệnh đã được Morgani mô tả từ năm 1761. Nhưng đến năm 1884, K.Basedow
- một bác sĩ người Đức - mới mô tả kỹ lưỡng và xác định là một bệnh độc lập, do
đó bệnh này được mang tên của ông. Tại các nước khác nhau, bệnh còn được gọi
dưới nhiều tên khác dựa vào các triệu chứng lâm sàng đặc biệt hoặc theo tên các
tác giả đã có nhiều cơng nghiên cứu về bệnh này:
+ Theo tên tác giả:
- Tại Anh và Mỹ thường gọi là bệnh Graves.
- Tại Italia thường gọi là bệnh Flajani.
- Tại Đức, Pháp, Việt Nam và một số nước khác thường gọi là bệnh Basedow.
+ Theo các triệu chứng đặc biệt của bệnh:
- Bệnh bướu giáp lan toả nhiễm độc.
- Bệnh bướu giáp lồi mắt.
- Bệnh gầy sút lồi mắt.
327



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×