Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

GIÁO TRÌNH ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 79 trang )

PHẦN 4

ARTHROPODA - ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT

425


426


Chương 14

ĐẠI CƯƠNG ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT
Động vật chân đốt là ngành động vật khơng có xương sống, có số lượng lồi
rất lớn, có khoảng trên 1.000.000 lồi. Chúng sống ở đất, nước hoặc bay nhảy tự
do trong không gian ở khắp nơi trên trái đất, sống tự do hoặc kí sinh.
Mơn kí sinh trùng y học nghiên cứu về đặc điểm hình thể, sinh lí, sinh thái,
vai trị y học và cách phịng chống những lồi động vật chân đốt có liên quan đến
y học như: ruồi, muỗi, ve, mị, bọ chét, chấy, rận...

Bọ xít
Truyền bệnh: Chagas

Ve cứng
Truyền bệnh: Sốt Q. sốt
phát ban, viêm não ve,
Tularemia. lyme

Ruồi không hút máu
Truyền bệnh: Thương hàn
tả lị... Gây bệnh: dòi



Bọ chét
Truyền bệnh: Dịch hạch sán
dây chó, sán dây chuột

Chấy rận
Truyền bệnh: Sốt phát ban
sốt hồi quy, sốt chiến bào

Ve mềm
Truyền bệnh: Sốt hồi quy

Truyền bệnh: Sốt mò

Ruồi hút máu
Truyền bệnh: Tularemia,
onchocerciasis, ngủ
Châu Phi

Muỗi
Truyền bệnh: Sốt rét, SXH
Giun chỉ, viêm não NB-B

Hình 14.1: Một số động vật chân đốt truyền bệnh ở người.
427


1. Đặc điểm hình thể.
1.1. Cấu tạo bên ngồi:


Động vật chân đốt có cấu tạo chung:
+ Thân chia thành đầu, ngực, bụng rõ rệt hoặc đầu giả và thân.
+ Chân, râu (anten), pan (palpe) là những bộ phận có cấu tạo phân đốt, đối
xứng.
+ Thân có vỏ cứng bao bọc (exoskeleton), lớp vỏ này cấu tạo bằng lớp kitin
và một lớp hoà tan trong nước (arthropodin), được coi như là bộ xương của đ ộng
vật chân đốt. Lớp vỏ này không liên tục, gián đoạn theo từng phần của cơ thể, nối
liền hai mảnh cứng có một màng kitin mỏng, có thể co giãn được nhưng rất hạn
chế, vì vậy muốn lớn lên động vật chân đốt phải lột xác. Lớp vỏ cứng này có
chức năng giống như da bao bọc che chở các cơ quan bên trong, hạn chế sự mất
nước, ngồi ra nó cịn có chức năng giống như một bộ xương để các cơ bám vào
đó tạo hình dạng của động vật chân đốt (hình 14.1, 14.2).
+ Phân giới đực và cái riêng biệt.
Vịi
Pan
Ăng ten

Đầu
Ngực
Miệng
Đầu giả

Thân
Bụng

Hình thể bên ngồi
của muỗi

428


Hình thể bên ngồi của ve


1.2. Cấu tạo trong:

Hình 14.2: Hình thể bên ngồi muỗi và ve.

Hoàn thiện hơn ngành giun sán, các cơ quan tuần hồn, bài tiết, tiêu hố...
đã phát triển. Đặc biệt cơ quan sinh dục rất phát triển và tương đối hồn thiện
(hình 14.3, 14.4).
+ Hệ tiêu hố:
Miệng động vật chân đốt là vòi để châm hút hoặc để gặm nhấm. Tiếp theo là
họng, thực quản, dạ dày, ruột, hậu môn, có hai tuyến nước bọt giúp cho tiêu hố
được dễ dàng.
+ Hệ tuần hồn:
Gồm có những xoang máu ở mặt lưng, máu từ các xoang này đổ vào các
xoang rỗng ở tồn thân, máu khơng có nhiệm vụ vận chuyển oxy mà chỉ mang
chất dinh dưỡng. "Máu" thực chất chỉ là dịch tuần hoàn lưu chuyển được nhờ
một cơ quan bơm "máu" gọi là "tim".
Manpighi

Tim
Não

Hình 14.3: Hình thể bên trong của ve.

10

2
1


7

6
5

9

4
3

8

Hình 14.4: Cấu tạo bên trong của muỗi.

429


1. Họng; 2. Thực quản; 3. Ống tuyến nước bọt; 5. Hạch ngực;
Điều; 7. Dạ dày; 8. Ruột sau; 9. Trực tràng; 10. Ống Manpighi.

6.

+ Hệ thần kinh:
Là những hạch nối với nhau như dây xích ở bụng, cuối cùng được nối với
một hạch to hơn ở mặt lưng, gần thực quản, được coi như "não" của động vật
chân đốt.
+ Hệ hô hấp:
Động vật chân đốt thở bằng mang hoặc khí quản tùy loại sống trên cạn hoặc
dưới nước.

+ Hệ cơ: thuộc loại cơ vân, bám trực tiếp vào mặt trong lớp vỏ kitin, để vận
động bay, nhảy, bơi...
+ Hệ bài tiết: là những ống Malpighi có chức năng bài tiết giống những ống
thận đơn giản.
+ Hệ sinh dục: phát triển tương đối hoàn thiện.
- Cơ quan sinh dục đực gồm: tinh hoàn, túi tinh, các tuyến phụ và càng sinh
dục.
- Cơ quan sinh dục cái gồm: buồng trứng, ống dẫn trứng, âm đạo, túi chứa
tinh. Một số loài như chấy, rận... có tuyến tiết chất dính để gắn trứng vào với
nhau hoặc bám lên tóc, quần áo...
2. Đặc điểm sinh học.
2.1. Đặc điểm sinh thái:

+ Động vật chân đốt muốn tồn tại, phát triển cần những điều kiện thiên nhiên
thích hợp: nguồn thức ăn, nơi trú ẩn, nơi sinh đẻ... Những điều kiện này phụ
thuộc vào yếu tố lí, hố, sinh học của mơi trường như: nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng,
độ xốp của đất, các chất hữu cơ, pH, các muối hịa tan, tốc độ gió, động thực vật
và yếu tố địa hình khu vực.
+ Nghiên cứu sinh thái của động vật chân đốt là nghiên cứu mối quan hệ qua
lại giữa động vật chân đốt và những điều kiện của môi trường.
+ Nếu điều kiện thiên nhiên thích hợp, động vật chân đốt phát triển thuận lợi,
số lượng tăng lên nhiều, nếu điều kiện thiên nhiên không thích hợp, số lượng ít
đi. Hiện tượng tăng, giảm về số lượng cá thể gọi là mùa phát triển của động vật
chân đốt. Mỗi loài động vật chân đốt thường phân bố trên từng khu vực nhất định
gọi là vùng phân bố của động vật chân đốt.
430


+ Sự phát triển của động vật chân đốt chịu sự tác động của yếu tố mùa, vùng
rõ rệt. Do đó những bệnh do động vật chân đốt truyền thường là những bệnh diễn

biến theo mùa và vùng.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với khí hậu: nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng, gió, mưa đều có tác động đến sinh thái của động vật chân đốt. Khí hậu
có thể tạo điều kiện thuận lợi cho động vật chân đốt phát triển, hoạt động với
mức độ cao. Điều kiện tối thiểu chỉ giúp cho động vật chân đốt sinh tồn nhưng
khó phát triển và hoạt động. Trong những tháng rét lạnh, nhiều động vật chân đốt
có khả năng vượt đơng để duy trì cuộc sống nhưng khơng vận động hoặc khơng
phát triển đáng kể.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với quần thể sinh vật: động vật
chân đốt sống ở ngoại cảnh nhất thiết phải quần sinh với một số sinh vật khác, ở
đó động vật chân đốt tránh những yếu tố không thuận lợi và tìm đến những yếu
tố thuận lợi. Ví dụ: ruồi, nhặng sống gần người và dựa vào những chất thải như
phân, rác của người.
+ Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với các yếu tố bất lợi:
- Động vật chân đốt có khả năng thích nghi để đối phó lại những yếu tố
chống lại chúng bằng cách tìm môi trường khác sống thuận lợi hơn.
- Khi thiếu vật chủ thích hợp, động vật chân đốt có thể tạm thời kí sinh ở
những vật chủ khơng thích hợp.
- Những can thiệp của con người (dùng các biện pháp xua, diệt động vật chân
đốt) cũng có thể dần dần làm thay đổi sinh thái của động vật chân đốt, chúng
không những khơng chịu tiếp xúc với hóa chất mà cịn có thể chuyển hố những
hóa chất đó để tạo nên sự quen hoặc sức đề kháng với hóa chất.
- Khả năng thích nghi của động vật chân đốt với các yếu tố chống lại chúng
có thể tạo nên những biến động sinh thái của động vật chân đốt. Vì vậy, địi hỏi
phải có những biện pháp chống động vật chân đốt tận gốc như cải tạo môi trường
và ngoại cảnh, nhân giống những động vật có khả năng diệt động vật chân đốt.
2.2. Đặc điểm sinh lí:

+ Thức ăn của động vật chân đốt rất đa dạng: máu, mủ, dịch mô hay các tổ
chức bị giập nát của vật chủ. Có lồi động vật chân đốt chỉ kí sinh trên một vật

chủ được gọi là lồi “đơn thực”. Ví dụ: chấy, rận chỉ kí sinh ở trên người, thức ăn
chỉ là máu người, khơng ăn máu các lồi động vật khác. Có lồi động vật chân
431


đốt kí sinh trên nhiều lồi vật chủ, có thể là người hoặc các lồi động vật khác,
đó là lồi “đa thực”. Ví dụ: bọ chét Xenopsylla cheopis kí sinh cả trên người, cả
trên chuột, chó, mèo...
+ Lồi đơn thực chỉ truyền bệnh trong từng loài vật chủ, loài đa thực truyền
bệnh cho nhiều lồi vật chủ khác nhau. Ví dụ: chấy, rận chỉ truyền bệnh cho
người, bọ chét truyền bệnh cho cả người và chuột...
2.3. Vòng đời:

+ Vòng đời động vật chân đốt thường phát triển qua 4 giai đoạn: trứng (eggs) ấu trùng (larvae) - thanh trùng (nympha) - trưởng thành (imago). Đây là loại
vòng đời thường gặp trong thiên nhiên như vòng đời của muỗi, ve, mò...
+ Có một số lồi động vật chân đốt đẻ ra ấu trùng khơng có giai đoạn trứng,
như một số ruồi (Glossina), nhặng xám (Sarcophagidae)... những lồi này mỗi
lần đẻ khơng nhiều, từ 1 đến 15 ấu trùng.
+ Ở giai đoạn thanh trùng, một số lồi hình thành nhộng (pupa) khơng ăn,
không hoạt động, như ruồi (Muscidae), ruồi vàng (Simulidae)...
3. Vai trị y học.
Những động vật chân đốt có vai trị y học phần lớn là những ngoại kí sinh
trùng hút máu (trừ ruồi nhà, gián), chúng có thể truyền bệnh và gây bệnh. Vai trò
chủ yếu của chúng là truyền bệnh, vai trò gây bệnh chỉ là thứ yếu nhưng đơi khi
cũng gây nguy hiểm đến tính mạng con người.
3.1. Vai trò gây bệnh:

+ Gây bệnh tại vết đốt và dị ứng: động vật chân đốt khi hút máu truyền độc tố
gây đau, dị ứng, mẩn ngứa, lở loét, hoại tử (mị đốt), nặng hơn có thể viêm tấy
cục bộ, choáng, tê liệt (bọ cạp hoặc ve đốt).

+ Gây bệnh tại vị trí kí sinh: bọ chét Tunga kí sinh ở da, ấu trùng ruồi
Gasterophilidae kí sinh ở dạ dày, cái ghẻ Sarcoptes scabiei kí sinh ở da...
3.2. Vai trị truyền bệnh:

+ Bệnh do động vật chân đốt truyền gọi là bệnh có vật mơi giới (vector), có
đặc điểm:
- Thường là những bệnh nguy hiểm, có thể chết người: dịch hạch, sốt rét...
- Bệnh phát thành dịch, lây lan nhanh: sốt xuất huyết, viêm não B Nhật Bản...

432


- Bệnh thường xảy ra theo mùa, khu trú ở từng địa phương: viêm não, sốt
mò...
- Bệnh lây lan giữa người với người, giữa người với động vật.
+ Tiêu chuẩn xác định động vật chân đốt là vector truyền bệnh:
- Động vật chân đốt phải hút máu người hoặc sống gần người.
- Mầm bệnh phát triển trong động vật chân đốt đến giai đoạn lây nhiễm.
- Mùa phát triển của động vật chân đốt phù hợp với mùa của bệnh.
- Gây nhiễm thực nghiệm có kết quả.
+ Phương thức truyền bệnh của động vật chân đốt:
Động vật chân đốt truyền bệnh theo hai phương thức: đặc hiệu và không
đặc hiệu.
- Truyền bệnh đặc hiệu (truyền sinh học): trong thiên nhiên nhiều loại động
vật chân đốt chỉ truyền được một hoặc hai loại mầm bệnh nhất định, những mầm
bệnh này tăng sinh, phát triển ở động vật chân đốt. Các hình thức phát triển hoặc
tăng sinh của mầm bệnh ở động vật chân đốt:
- Mầm bệnh trong động vật chân đốt tăng sinh đơn thuần về số lượng từ một
mầm bệnh ban đầu sau một thời gian tăng lên hàng ngàn cá thể trong động vật
chân đốt như vi khuẩn dịch hạch trong bọ chét.

- Mầm bệnh không tăng sinh về số lượng chỉ phát triển từ giai đoạn chưa
lây nhiễm được đến giai đoạn có khả năng lây nhiễm. Ví dụ: ấu trùng giun chỉ
trong muỗi.
- Mầm bệnh vừa tăng sinh số lượng vừa phát triển giai đoạn như kí sinh trùng
sốt rét trong muỗi.
- Ngồi ra cịn có một vài loại mầm bệnh được động vật chân đốt truyền cho
đời sau qua trứng như mầm bệnh Rickettsia orientalis ở mị...
Do q trình biến đổi trong cơ thể động vật chân đốt, mầm bệnh muốn truyền
được sang người hoặc sang vật chủ khác cần phải có thời gian. Thời gian này phụ
thuộc vào từng loại mầm bệnh và nhiệt độ của mơi trường.
Ví dụ: Plasmodium falciparum muốn phát triển được trong muỗi, nhiệt độ
của môi trường phải lớn hơn 16 0C, Plasmodium vivax phải trên 14,5 0 C.

433


- Truyền bệnh không đặc hiệu (truyền cơ học): động vật chân đốt chỉ đơn
thuần mang mầm bệnh từ nơi này đến nơi khác.
- Mầm bệnh dính bám trên động vật chân đốt, truyền vào thức ăn, nước uống
của người, mầm bệnh không sinh sản, biến đổi trong động vật chân đốt nên
khơng cần có thời gian. Những động vật chân đốt truyền bệnh theo phương thức
khơng đặc hiệu có vai trị quan trọng (ruồi nhà, nhặng xanh, gián...) vì thường
xun tiếp xúc với người.
- Mầm bệnh cịn có thể ở trong ống tiêu hoá của động vật chân đốt, rồi theo
chất bài tiết mà lây sang người. Một số mầm bệnh như trứng giun, sán, kén đơn
bào có thể tồn tại trong cơ thể động vật chân đốt suốt trong q trình sống của
nó. Tác hại của phương thức này rất lớn.
+ Khả năng truyền bệnh của động vật chân đốt:
Động vật chân đốt có thể truyền hầu hết các loại mầm bệnh kí sinh trùng,
vi khuẩn, virut cho người và động vật:

- Muỗi Anopheles truyền kí sinh trùng sốt rét, giun chỉ. Ví dụ: An.minimus và
An.dirus là những vector chính truyền sốt rét ở Việt Nam, tập trung ở một số
vùng sốt rét trọng điểm như vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên...
- Muỗi Culex truyền giun chỉ, viêm não B Nhật Bản...
- Muỗi Aedes truyền bệnh sốt vàng, sốt xuất huyết Dengue, giun chỉ, và một
số virus khác.
- Muỗi Mansonia truyền giun chỉ. Ở Việt Nam một số vùng có ổ dịch giun
chỉ như các tỉnh đồng bằng châu thổ sơng Hồng: Thái Bình, Hà Nam, Hưng n,
Hải Dương..., một số tỉnh duyên hải miền Trung: Khánh Hoà, Quảng Bình…
- Muỗi cát Phlebotomus truyền Leishmania (ở Việt Nam đã phát hiện bệnh
nhân mắc Leishmania: Hải Dương, Quảng Ninh…).
- Ve truyền Rickettsia và virus viêm não châu Âu.
- Mò truyền Rickettsia orientalis gây bệnh sốt mị, Việt Nam có ổ bệnh sốt
mò ở Mộc Châu, Sơn La.
- Ruồi ngủ Tsetse (Glossina) truyền Trypanosoma gây bệnh ngủ châu Phi.
Ruồi vàng (Simulium) truyền bệnh mù đường sông. Ruồi trâu (Tabanidae) truyền
giun chỉ Loa loa. Những bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.
434


- Ruồi nhà, nhặng, gián truyền mầm bệnh vi khuẩn: tả, lị, thương hàn, lao,
trứng giun sán, kén đơn bào, virut bại liệt, viêm gan... trong các vụ dịch tả, ruồi
nhà có vai trị truyền bệnh rất quan trọng.
- Chấy rận truyền sốt phát ban chấy rận.
- Bọ chét truyền dịch hạch, ở Việt Nam có bọ chét Xenopsylla cheopis truyền
dịch hạch, đã phát hiện được một số ổ dịch nhỏ ở Tây Nguyên.
+ Vai trò của động vật chân đốt trong ổ bệnh thiên nhiên:
- Động vật chân đốt có vai trị quan trọng trong sự tồn tại và lưu hành của
những bệnh có ổ bệnh thiên nhiên. Động vật chân đốt là vật mơi giới (vector)
nhiều khi cịn là vật dự trữ mầm bệnh: mò Leptotrombidium deliense mang mầm

bệnh sốt mò Rickettsia orientalis suốt đời và truyền sang đời sau.
- Do mầm bệnh phát triển trong động vật chân đốt, nên mùa phát triển bệnh
phụ thuộc vào mùa phát triển của động vật chân đốt. Ví dụ: mầm bệnh virus viêm
não Nhật Bản B chỉ phát triển trong muỗi khi nhiệt độ trên 20 0C, mùa phát triển
là mùa xn - hè, ít gặp trong mùa đơng. Vật môi giới là những động vật chân
đốt hút máu đảm bảo sự truyền mầm bệnh từ động vật này sang động vật khác.
4. Phân loại động vật chân đốt.
Theo phân loại hiện nay, ngành động vật chân đốt được chia làm bốn ngành
phụ là: Trilobitomorpha, Chelicerata, Branchiata (Crustacea) và Tracheata
(Uniramia), trong đó có khoảng hơn mười lớp nhưng các có hai lớp có vai trị y
học chủ yếu là lớp nhện Arachnida thuộc ngành phụ Chelicerata và lớp côn
trùng (Insecta) thuộc ngành phụ Tracheata (Uniramia).
4.1. Lớp nhện (Arachnida):

+ Đặc điểm hình thể:
Là những động vật chân đốt mà cơ thể là một khối hình bầu dục gọi là
idiosoma, miệng có bộ phận hút là kìm, khơng có anten, khơng có cánh, có 4 đơi
chân, mỗi chân gồm 6 đốt.
Lớp nhện có một số lồi thở bằng khí quản (ve, mạt), có lồi thở qua da
(cái ghẻ). Bộ máy tiêu hố có cấu tạo đặc biệt: có nhiều ngăn, chứa được rất
nhiều máu, vì vậy khi ăn no thân lớn rất nhiều so với lúc đói.
+ Vịng đời và phân loại:

435


- Vòng đời: phát triển thường qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng và
trưởng thành. Hình thể ấu trùng gần giống trưởng thành nhưng chỉ có 3 đơi chân.
- Phân loại: lớp nhện có nhiều bộ, nhưng có hai bộ liên quan đến y học: bộ
Linguatula, và bộ ve (Acarina):

. Bộ Linguatula: đáng chú ý Linguatula serrata và Porocephalus armillatus.
. Bộ ve: ve - mò - mạt - cái ghẻ.
4.2. Lớp côn trùng (Insecta):

* Côn trùng trưởng thành: có 3 đơi chân, thân chia thành 3 phần rõ rệt:
(đầu, ngực, bụng), có vịi.
+ Đầu: thường có mắt. Có 2 loại mắt, mắt đơn và mắt kép (mắt kép gồm
nhiều mắt đơn ghép lại), mắt thường to chiếm gần hết đầu. Có 2 râu (anten) có từ
3 - 15 đốt. Có 2 pan, cịn gọi là súc biện, cũng chia đốt. Có 1 vịi để hút thức ăn,
vịi có cấu tạo phức tạp gồm những bộ phận: hàm trên, hàm dưới, môi… để giúp
cho việc hút máu hoặc nghiền, liếm thức ăn.
+ Ngực: có 3 đốt, dính thành một khối, chia 3 thành phần: ngực trước, ngực
giữa, ngực sau, mỗi phần ngực mang một đôi chân. Chân côn trùng chia nhiều
đốt: đốt hông, đốt háng, đốt đùi, đốt cẳng và đốt bàn chân. Trên ngực cịn có một
hoặc hai đơi cánh, cũng có lồi cơn trùng khơng có cánh. Trên cánh có gân dọc,
gân ngang, có lơng hoặc vảy phủ trên các gân.
+ Bụng: có từ 5 - 11 đốt, đốt cuối cùng thường là bộ phận sinh dục đực hoặc
cái.
* Vòng đời và phân loại:
Vòng đời phát triển của côn trùng thường qua bốn giai đoạn: trứng - ấu trùng thanh trùng và trưởng thành. Lớp cơn trùng chia thành hai nhóm: nhóm phát triển
biến thái hồn tồn và nhóm phát triển biến thái khơng hồn tồn.
+ Nhóm phát triển biến thái khơng hồn tồn: Các giai đoạn phát triển ấu
trùng có hình thái tương tự như con trưởng thành, chỉ khác về kích thước, cơ
quan sinh dục. Trong nhóm này có hai bộ liên quan đến y học:
- Không cánh: bộ Anoplura (bộ Chấy rận).
- Bốn cánh: bộ Hemiptera (bộ Rệp) gồm họ Rệp và họ Bọ xít.
+ Nhóm phát triển biến thái hồn tồn: Các giai đoạn ấu trùng và trưởng
thành rất khác nhau và trải qua giai đoạn chuyển tiếp là nhộng. Nhóm này gồm
những bộ liên quan đến y học là:
436



- Không cánh: bộ Siphonaptera (tên cũ là Aphaniptera, bộ Bọ chét).
- Hai cánh: bộ Diptera. Bộ hai cánh được phân loại theo số đốt của râu và
đường costa trên cánh:
. Râu dưới 3 đốt: bộ phụ Brachycera, trong đó có họ Tabanidae (có hai chi liên
quan đến y học là Chrysops và Tabanus), họ Muscidae, Sarcophagidae, Oestridae.
. Râu trên 3 đốt: bộ phụ Nematocera. Bộ này gồm các họ sau:
Costa chạy tới đầu cánh:
Râu ngắn: họ Simulidae (ruồi vàng).
Râu dài: họ Chiromomidae (dĩn, gián).
Costa chạy vòng quanh cánh:
Trên gân cánh có lơng: họ Psychodidae có chi Phlebotomus (muỗi cát) và
Lutzomyia liên quan đến y học.
Trên gân cánh có vẩy: họ Culicidae (muỗi).
Ngoài cách phân loại như trên, người ta còn phân loại động vật chân đốt theo
vai trò của chúng đối với y học.
5. Phòng chống động vật chân đốt.
5.1. Nguyên tắc:

+ Phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh trên quy mơ rộng lớn nhưng có
trọng tâm trọng điểm. Hầu hết các bệnh kí sinh trùng do động vật chân đốt truyền
là bệnh xã hội, phổ biến, nhiều người mắc, dễ lây lan. Bệnh do động vật chân đốt
truyền có nhiều, khơng thể đồng loạt phịng chống mà phải chọn những bệnh
nào đó có hại nhiều đến sức khoẻ, sức sản xuất của từng vùng, cân nhắc khả
năng khống chế được bệnh với điều kiện vật chất kĩ thuật có thể có được. Ví dụ:
muỗi truyền bệnh sốt rét ở Tây Nguyên, muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết ở thành
phố, nơi đơng người… Nhiều bệnh kí sinh trùng do động vật chân đốt truyền
khác có thể sẽ giảm dần trên cơ sở đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội ngày càng
được nâng cao.

+ Phải có kế hoạch phòng chống động vật chân đốt trong thời gian lâu dài,
liên tục, dựa vào kế hoạch hành chính của chính quyền từ Trung ương đến cơ sở,
vì các bệnh do động vật chân đốt truyền thường kéo dài, tái nhiễm liên tiếp.

437


+ Phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh phải là cơng tác của quần
chúng, xã hội hố cơng việc phịng chống, lơi cuốn cộng đồng tự giác tham gia.
Vì mức độ phổ biến của bệnh do động vật chân đốt truyền liên quan đến hàng
triệu người nên mọi người phải hiểu biết về bệnh để tự giác tham gia. Người làm
công tác chuyên môn phải biết tuyên truyền giáo dục, vận động, giúp cho mọi
người dân hiểu biết, tự nguyện phòng chống. Nhiệm vụ của ngành Y tế là phải
tham mưu cho chính quyền thấy rõ được tác hại của các loài động vật chân đốt
truyền bệnh bằng những số liệu thuyết phục, đề xuất được những kế hoạch cụ
thể, hiệu lực trong việc phòng chống.
+ Kết hợp nhiều biện pháp với nhau, từ thô sơ đến hiện đại, kết hợp các biện
pháp cơ - lí - hóa - sinh học để phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh.
+ Lồng ghép việc phòng chống động vật chân đốt truyền bệnh với các hoạt
động/các chương trình, các dịch vụ y tế, sức khoẻ khác. Kết hợp phòng chống
động vật chân đốt truyền bệnh với việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nhất là ở
tuyến cơ sở.
5.2. Biện pháp chung:

+ Biện pháp cơ học - lí học: phá bỏ những ổ động vật chân đốt, thay đổi môi
trường làm mất nơi trú ẩn hoặc nơi sinh đẻ của chúng. Đối với động vật chân đốt
trưởng thành có thể bắt, đập, bẫy, quạt, hun khói, xua đuổi cách li khơng cho tiếp
xúc với người... biện pháp này đơn giản dễ làm, nhưng muốn đạt hiệu quả cao
mọi người để phải tham gia, tốn nhiều cơng sức.
+ Biện pháp hố học: dùng các hố chất có hiệu lực để diệt động vật chân đốt

khi chúng tiếp xúc hoặc ăn phải các hoá chất đó. Cần lựa chọn hố chất, lựa chọn
cách thức sử dụng, không tạo điều kiện để động vật chân đốt kháng thuốc, không
gây ô nhiễm môi trường.
+ Biện pháp sinh học: sử dụng kẻ thù tự nhiên của động vật chân đốt để diệt
chúng, hoặc làm giảm mật độ động vật chân đốt gây hại. Ví dụ: dùng kiến để diệt
rệp, cá ăn bọ gậy... hoặc dùng phương pháp tiệt sinh: sử dụng những kĩ thuật làm
giảm sức sinh sản của động vật chân đốt hay làm biến đổi cấu trúc di truyền của
động vật chân đốt. Phương pháp này có thể diệt được động vật chân đốt mà
khơng gây độc cho người và môi trường.

438


5.3. Biện pháp cụ thể:

Do có nhiều loại động vật chân đốt truyền bệnh khác nhau nên không thể
cùng một lúc tiến hành phòng chống mọi loại động vật chân đốt. Phải căn cứ theo
yêu cầu, khả năng thực hiện để xây dựng kế hoạch phòng chống động vật chân
đốt có trọng tâm trọng điểm. Với từng loại động vật chân đốt, căn cứ theo sinh
thái mà áp dụng các biện pháp khác nhau để phịng chống một cách tồn diện. Có
ba phương pháp chính:
* Phương pháp cơ học - lí học:
Bắt và diệt các cơn trùng trung gian truyền bệnh, cải tạo môi trường làm phá
vỡ, hạn chế điều kiện phát triển, bất lợi cho loài động vật chân đốt truyền bệnh,
phương pháp này không gây ô nhiễm môi trường.
Phá bỏ những ổ động vật chân đốt, thay đổi môi trường làm mất nơi ẩn, nơi
sinh đẻ của chúng, khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, phá nơi sinh sản
cư trú của động vật chân đốt.
Đối với động vật chân đốt trưởng thành có thể bắt, đập, bẫy, hun khói, xua
đuổi cách li khơng cho tiếp xúc với người... biện pháp này đơn giản dễ làm,

nhưng muốn đạt hiệu quả cao mọi người đều phải tham gia, tốn nhiều cơng sức.
* Phương pháp hố học:
Ngun lí của biện pháp này là dùng các hoá chất độc để diệt động vật chân
đốt khi chúng tiếp xúc hoặc ăn phải hố chất, hoặc dùng những chất có mùi đặc
biệt làm cho côn trùng sợ không dám tấn công vào vật chủ.
Cần lựa chọn hoá chất, lựa chọn cách sử dụng, không tạo điều kiện để động
Vol 30; ĐS/2005
Vol 30; ĐS/2005
vật chân đốt kháng thuốc, không gây ô nhiễm môi trường. Phương pháp này có
tác dụng nhanh, trên phạm vi rộng. Thường sử dụng các nhóm thuốc sau:
+ Nhóm thuốc xua: dùng những hố chất có mùi đặc biệt để xoa lên những
chỗ da hở, hoặc tẩm vào màn, lưới, quần áo... làm cho cơn trùng sợ phải bỏ đi.
Có nhiều thuốc xua cơn trùng có tác dụng tốt như tinh dầu xả, DEP (diethyl
phtalat), DMP (dimethyl phtalat)...
+ Nhóm thuốc diệt: nhóm này bao gồm nhiều hố chất:
- Nhóm hố chất vơ cơ: xanh Paris, acetoarseniat đồng... Các hố chất này
thường được thả xuống nước để diệt ấu trùng động vật chân đốt trong nước.

439


- Nhóm hố chất clo hữu cơ: dichlorodiphenyltrichloroetan (DDT) hoặc
hexachlorocychlohexan (HCH, 666) methoxychlor... Các hoá chất này được sử
dụng từ lâu, diệt cơn trùng nhanh, tồn lưu lâu nhưng có nhược điểm gây độc cho
người và động vật, làm ô nhiễm mơi trường.
- Nhóm lân hữu cơ: malathion, fenthion, dichlorodivynilphosphat (DDVP)…
Các chất này có tác dụng diệt động vật chân đốt nhanh nên thường được sử dụng
khi cần dập tắt nhanh các ổ dịch. Thuốc tồn lưu ngắn (thường từ 15 ngày tới 3
tháng), rất độc đối với người và động vật nên khi sử dụng cần đề phòng nhiễm
độc.

- Nhóm carbamat: những chất kháng enzym cholinesterase thường dùng để
diệt bọ gậy tồn lưu lâu nhưng giá thành đắt nên ít được sử dụng.
- Nhóm pyrethroid: pyrethrin tự nhiên là những chất chiết xuất từ hoa cây
thuộc họ cúc, chi Chrysanthenum. Pyrethrinoid tổng hợp: permethrin, deltamethrin,
lamdacyhalothrin (ICON), trebon... Các hoá chất thuộc nhóm này có tác dụng
tốt diệt động vật chân đốt, ít độc với người, hệ số an tồn cao, ít gây ơ nhiễm
mơi trường.
Cách sử dụng hố chất: tùy theo đặc tính lí, hố và độ an tồn mà các hố
chất kể trên có thể được sử dụng dưới các dạng: phun tồn lưu, phun dưới dạng
sương mù, dạng khói, tẩm màn hoặc quần áo. Dùng hố chất dưới dạng nào cũng
phải đảm bảo yêu cầu diệt được động vật chân đốt nhưng không gây độc cho
người, động vật, không làm ô nhiễm môi trường. Để tránh hiện tượng động vật
chân đốt kháng hóa chất cần sử dụng chúng đúng mục đích, đúng kĩ thuật khơng
để dư thừa và có kiểm sốt, cần thường xun theo dõi mức độ kháng để kịp thời
thay đổi hoá chất hoặc phối hợp các biện pháp. Cách tăng liều hoá chất, rất ít sử
dụng vì gây độc cho người và động vật.
* Phương pháp sinh học:
+ Sử dụng kẻ thù tự nhiên của động vật chân đốt để diệt chúng, hoặc làm
giảm mật độ động vật chân đốt gây hại. Ví dụ: dùng kiến để diệt rệp, dùng cá để ăn
bọ gậy muỗi, ấu trùng muỗi Toxorhychites hoặc Culex ăn ấu trùng muỗi khác...,
hoặc dùng một số loại virut, vi khuẩn, nấm để diệt muỗi hoặc bọ gậy muỗi.
+ Phương pháp tiệt sinh: là phương pháp sử dụng những kĩ thuật làm giảm
sức sinh sản của côn trùng gây hại hay làm biến đổi cấu trúc di truyền của động
vật chân đốt. Có thể vơ sinh con đực (bằng hố chất hoặc tia X,  hay , vô sinh
440


bằng phương pháp lai ghép tạo con lai F1 vô sinh) rồi thả vào thiên nhiên, những
côn trùng đực vô sinh này có khả năng giao phối cạnh tranh với quần thể ngoài tự
nhiên để sinh ra thế hệ lai khơng có khả năng sinh sản hoặc mất khả năng truyền

bệnh. Phương pháp này có thể diệt được một lồi động vật chân đốt, không gây
độc cho người, không gây ô nhiễm môi trường, nhưng cần thời gian dài và thực
hiện ở một khu biệt lập để động vật chân đốt ở khu vực xung quanh không di
chuyển tới.
6. Động vật chân đốt và chiến tranh sinh học.
Ngành động vật chân đốt được chia thành 4 ngành phụ, trong đó có nhiều lớp
nhưng lớp cơn trùng (insecta) và lớp nhện (arachnida) có vai trị quan trọng trong
truyền những tác nhân sinh học.
+ Động vật chân đốt vừa có khả năng gây bệnh vừa có khả năng vận chuyển
và truyền mầm bệnh (tác nhân sinh học) cho người. Ví dụ về khả năng gây bệnh
của động vật chân đốt: một số loài động vật chân đốt khi hút máu truyền độc tố
gây đau, dị ứng, mẩn ngứa (vết loét do mò đốt) hoặc có thể gây chống, tê liệt
nhiễm độc và chết (bọ cạp, rết độc). Khả năng gây bệnh của động vật chân đốt
cho người rất hạn chế nhưng khả năng vận chuyển và truyền tác nhân sinh học
cho người thì vơ cùng to lớn và nguy hiểm .
Một số loài động vật chân đốt chỉ nhiễm mầm bệnh một lần mà có khả năng
truyền mầm bệnh qua nhiều thế hệ sau.
Người ta có thể tạo ra các lồi động vật chân đốt lạ có khả năng vận chuyển
và truyền các tác nhân sinh học đã được gây biến đổi gen, kháng thuốc và rất
nguy hiểm.
Người ta cũng có thể tạo ra các lồi động vật chân đốt có khả năng chịu
đựng, dung nạp và kháng các hoá chất diệt.
Trong chiến tranh sinh học, kẻ địch có thể dùng động vật chân đốt như là một
vật mang, vận chuyển hay truyền những tác nhân sinh học, gây ra những vụ dịch
lớn, nhằm tiêu diệt đối phương.
+ Động vật chân đốt có thể vận chuyển và truyền rất nhiều loại mầm bệnh
(tác nhân sinh học) cho người và động vật:
+ Mầm bệnh là kí sinh trùng: ruồi Glossina truyền Trypanosoma gây
bệnh Chagas (bệnh ngủ), muỗi cát (Phlebotomus) truyền Leishmania gây bệnh
Kala-aza (bệnh sốt đen).


441


- Mầm bệnh là vi khuẩn: ruồi nhà, nhặng, gián truyền bệnh tả, lị, thương hàn,
lao, bọ chét truyền bệnh dịch hạch (Yersinia pestis).
- Mầm bệnh là virut: muỗi truyền bệnh sốt xuất huyết (Dengue), viêm não B
Nhật Bản. Ve truyền bệnh viêm não ve, bệnh sốt Colorado.
- Mầm bệnh là Rickettsia: mò truyền bệnh sốt mò, ve truyền bệnh sốt Q, chấy
rận truyền bệnh sốt phát ban.
+ Chính vì động vật chân đốt có khả năng truyền được nhiều mầm bệnh
nguy hiểm như vậy nên nó có vai trị rất quan trọng trong khủng bố sinh học.
Thực tiễn cho thấy kẻ thù đã sử dụng nhiều loài động vật chân khớp mang những
mầm bệnh nguy hiểm tấn công vào đối phương.
Ví dụ: sử dụng vai trị truyền bệnh của bọ chét mang mầm bệnh Y.pestis như:
- Thời kỳ năm 1346 - 1347, quân đội Tác Ta đã phản công thủy quân Thiên
Chúa Giáo bằng cách sử dụng súng phóng đá, bắn xác những người Tác Ta chết
vì bệnh dịch hạch vào quân Genoe. Dịch hạch bùng phát và quân đội Genoe đã
phải rút quân về.
- Các hoạt động quân sự của Pháp ở Ai Cập vào năm 1798 đã gặp phải trở
ngại lớn vì bệnh dịch hạch và đã hủy bỏ cuộc tấn công vào Alexandria.
- Trong chiến tranh thế giới thứ II, quân đội Nhật Bản đã thành lập đơn vị
chuyên nghiên cứu vũ khí sinh học (đơn vị 731). Sau những nghiên cứu tạo ra
loài bọ chét (Pulex irritans) có sức đề kháng cao, có tính chọn lọc vật chủ là
người và lây truyền vi khuẩn dịch hạch vào quần thể chuột tại địa phương. Tháng
10/1941, Nhật Bản đã thả xuống Chanteh (Trung Quốc) nhiều hàng hoá hỗn tạp
như lúa mì, lúa, đồ bơng, len… Kết quả sau 2 tuần đã có nhiều người dân ở đây
bị chết vì dịch hạch.
- Những năm tiếp theo, Mĩ và Liên Xô (cũ) đã phát triển kĩ thuật phân tán vi
khuẩn dịch hạch trực tiếp vào khơng khí mà khơng phụ thuộc vào bọ chét.

- Năm 1970, Tổ chức Y tế thế giới thông báo, nếu tung 50 kg Yersinia pestis
vào khơng khí một thành phố 5 triệu dân, thì có khoảng 150.000 người mắc bệnh
dịch hạch thể phổi và sẽ có khoảng 36.000 trường hợp tử vong.
Chương 15

ARACHNIDA - LỚP NHỆN

442


Có nhiều bộ, họ, trong đó có bộ Linguatula, bộ Arcarina (bộ ve) có vai trị
đối với y học.

BỘ LINGUATULA
Là những động vật chân đốt nhỏ chân bị thoái hoá, hình thể giống như giun
sán, nhưng có thớ ngang, hình dẹt hoặc trịn, thở qua da.
Linguatula có hai lồi chính:
+ Linguatula serrata:
Hình dẹt, thân có thớ chia ngang. Con cái dài 8 - 10 mm, con đực nhỏ hơn,
chỉ dài 5 - 6 mm, kí sinh ở xương hốc mũi các lồi chó, chồn, cừu...
Ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành những nang ở cơ hoành hoặc
gan. Người bị nhiễm do ăn phải trứng có lẫn trong thực phẩm.
+ Porocephalus armillatus:
Hình ống dài, có các khúc giống như đốt trúc: có cái có 18 - 22 khúc, dài
9 - 10 cm; con đực có 10 - 17 khúc, dài 4 - 5 cm. Con trưởng thành kí sinh ở
phổi các lồi rắn lớn; ở người, kí sinh dưới dạng ấu trùng tạo thành nang ở gan.
Người nhiễm do ăn phải trứng.
Cả hai bệnh này chưa gặp ở Việt Nam.

BỘ ACARINA - BỘ VE

Ve - Acarina có đầu, ngực, bụng dính liền một khối, bộ phận miệng cịn gọi
là đầu giả (capitulum).
Acarina trưởng thành có 8 chân, ấu trùng có 6 chân, khơng có râu, khơng có
cánh.
Phân loại Acarina theo cách thở và lỗ thở:
+ Lỗ thở ở giữa cơ thể: Ixodidae và Gamasidae.
+ Lỗ thở ở trước thân: Trombidoiae.
+ Khơng có lỗ thở, thở qua da: Sarcoptoidae.

443


HỌ VE IXODIDAE
Thường gọi là ve có lỗ thở nằm ở giữa cơ thể. Đầu giả mang hai càng không di
động được, có 2 họ phụ: ve mềm (Argasinae) khơng có mai, đầu giả nằm ở dưới
bụng (ít gặp ở Việt Nam) và ve cứng (Ixodinae) có mai, đầu giả nằm ở phía
trước.
Ve có thành phần lồi rất phong phú, kí sinh trên nhiều lồi động vật. Trên thế
giới phát hiện được 750 loài Ixodinae và trên 100 loài Argasinae. Miền Bắc Việt
Nam đã phát hiện được 49 loài và phân lồi ve cứng, 1 lồi ve mềm kí sinh trên
các động vật máu nóng (trâu, bị, chó, chuột, gà, chim...) và bị sát (rắn, kì đà...).
1. Ve mềm (Argasinae).
+ Ve mềm (Argasinae) có các chi Argas và Ornithodoros.
+ Năm 1942 Toumanoff gặp ve mềm kí sinh trên dơi.
+ Khơng có mai lưng ở tất cả các giai đoạn phát triển, mặt bụng chỉ có những
đĩa bằng kitin, đầu giả nằm ở dưới bụng (hình 15.1).

Mặt lưng

Mặt bụng


Ve Omithocdoros moubata (truyền bệnh sốt hồi quy ở Châu Phi).

Trưởng
thành
Thanh trùng
Vòng đời của ve thân mềm
Omithodoros moubata

444

Trứng trong kén
Trứng

Hình 15.1: Hình thể và vòng đời của ve mềm.


+ Ve mềm hồn thành vịng đời từ 3 - 12 tháng. Ve đực và ve cái đều hút
máu, thường hút máu về đêm. Đực cái giao phối ngay trên vật chủ. Mỗi đời đẻ
100 - 200 trứng, cả đời đẻ khoảng 1200 trứng. Ve trú ẩn ở khe kẽ nền nhà, vách
tường, khe cột...
+ Ve nhịn đói lâu được tới hàng năm. Tuổi thọ của Argasidae cao, có khi tới
25 năm.
+ Ve mềm Ornithodoros moubata truyền được cho người một số loài soắn
khuẩn thuộc chi Spirochaeta và Borrelia. Ve hút máu của động vật gặm nhấm và
thú nhỏ bị nhiễm soắn khuẩn, soắn khuẩn phân tán khắp cơ thể ve và cả tuyến
nước bọt, sau đó truyền cho động vật xương sống khác.
+ Ve mềm Ornithodoros moubata gây bệnh sốt hồi quy.
2. Ve cứng (Ixodinae).
2.1. Hình thể ve cứng:


Ve trưởng thành hình bầu dục, dẹt theo chiều lưng bụng, dài khoảng 3 - 23 mm
tùy thuộc từng loài, màu từ nâu nhạt đến đậm. Thân là một khối không phân rõ
đầu, ngực, bụng.
Có bộ phận hút máu gọi là đầu giả (capitulum) nằm ở phía trước, gồm một đơi
pan, một đơi kìm và một vịi xếp thành hàng, mọc quay xuống phía thân. Mỗi pan
có 4 đốt, đốt thứ 4 nằm trong đốt thứ 3, có cơ quan khứu giác để tìm mồi. Mặt lưng
có mai (mảng kitin), con đực có mai to trùm tồn bộ lưng; con cái mai nhỏ chỉ
chiếm một phần phía trước. Đốt cuối của đơi chân trước có cơ quan cảm giác
(cơ quan Haller) để đánh hơi tìm mồi (hình 15.2). Ấu trùng ve chỉ có ba đơi chân.

Ve cứng Ixodes ricinus

Ve Amblyomma hebraeum
Ve cứng núi đá
Dermacento andersoni

445


Hình 15.2: Hình thể ve cứng.
2.2. Đặc điểm sinh học:

Vịng đời phát triển trải qua 4 giai đoạn: trứng - ấu trùng - thanh trùng trưởng thành. Ve đực thường chết sau khi giao phối.
Ve cái tìm mồi hút máu và đẻ trứng. Cả đời ve chỉ đẻ 1 lần, đẻ hết trứng và
teo xác lại rồi chết. Thời gian đẻ trứng kéo dài trong 14 - 20 ngày với số lượng từ
2000 - 8000 trứng. Sau 2 - 7 tuần, trứng nở ra ấu trùng. Mỗi giai đoạn phát triển
ấu trùng, thanh trùng và trưởng thành đều cần hút máu, có no mới lớn lên và lột
xác chuyển giai đoạn. Nhìn chung các lồi ve hút máu nhiều lồi vật chủ (đa vật
chủ), một số lồi chỉ có ít vật chủ thích hợp là người và động vật. Các hình thức

kí sinh của ve có thể là:
Kí sinh trên một loài vật chủ ở tất cả các giai đoạn: Boophylus caudatus...
Kí sinh trên 2 vật chủ, giai đoạn ấu trùng và thanh trùng trên 1 vật chủ, giai
đoạn trưởng thành trên 1 vật chủ khác: Rhipicephalus bursa.
Mỗi giai đoạn phát triển vịng đời kí sinh trên 1 vật chủ như: Dermacentor,
Haemaphysalis.
Thời gian hồn thành vịng đời phát triển của ve tùy thuộc vào thức ăn và
nhiệt độ môi trường, kéo dài 2 - 3 tháng hoặc hơn.
Khu vực phân bố của ve tùy thuộc vào vật chủ. Có lồi gặp nhiều ở rừng rậm,
đồng cỏ; có lồi ở xung quanh chuồng gia súc... Những động vật là vật chủ của
ve: chuột, sóc, trâu, bị, ngựa... và người. Trên vật chủ ve thường tìm nơi da ẩm
như: cổ, nách, bẹn, sau tai... để kí sinh hút máu.
Ve cái trưởng thành

Trưởng
thành

Đám trứng

Thanh trùng

Đám trứng

Ấu trùng

Ve đực
Thanh trùng

446


Ấu trùng


Hình 15.3: Vịng đời ve cứng.

Ve rình mồi bằng cách bám trên ngọn cỏ, lá cây... ở các đường đi của vật
chủ. Ve nằm im, đưa 2 chân trước lên đánh hơi tìm mồi, hướng về phía vật chủ
đang đi lại. Khi vật chủ đi qua, ve bám ngay vào lơng tóc, quần áo... sau đó tìm
nơi kí sinh. Sau khi bám vào vật chủ 50 - 60 phút ve mới hút máu. Ở nhiệt độ 19
- 20 0C, độ ẩm 80% ve hoạt động mạnh. Khi trời nắng ấm, khô ráo ve hoạt động
mạnh. Khi trời âm u, trời mưa ve hoạt động ít hơn, có khi ngừng hoạt động.
Mùa phát triển của ve ở Việt Nam khác nhau tùy từng loài: Haemaphysalis,
Amblioma, Dermacentor phát triển vào hè thu (tháng 4 - tháng 8); Boophylus
phát triển quanh năm nhưng nhiều vào đơng xn.
Ve có sức chịu đói cao: ấu trùng có thể nhịn đói khoảng 1 tháng, thanh trùng
và trưởng thành nhịn đói được hàng năm. Ve có thể sống khoảng 5 năm.
2.3. Vai trò y học:
2.3.1. Vai trò truyền bệnh:

Ve có thể truyền được nhiều loại mầm bệnh: vi khuẩn, vi rút, Rickettsia...
+ Mầm bệnh là Rickettsia:
- Sốt Q: mầm bệnh là R.burnetti (Coxiella burnetti). Bệnh phát hiện lần đầu
tiên ở vùng Queensland (Australia). Hiện bệnh phân bố rộng rãi trên toàn thế
giới. Bệnh do ve Rhipicephalus, Dermacentor truyền; bệnh cũng có thể lây qua
đường hơ hấp và tiêu hoá.
- Sốt phát ban vùng núi đá: mầm bệnh là R.rickettsi, do ve Dermacentor
truyền, hay gặp ở vùng Tây châu Mĩ (Braxin, Canada, Colombia, Panama và Mĩ).
- Sốt phát ban Siberie: mầm bệnh là R.sibirica do ve Dermacentor,
Haemaphysalis, Rhipicephalus truyền. Bệnh phân bố ở Nhật Bản, Liên Xô (cũ)
và vùng Thái Bình Dương. Bệnh do lồi ve rừng châu Á Dermacentor silvarum

truyền.
- Bệnh sốt phát ban do R.conorii: ở vùng Trung Cận Đông, châu Phi và Nam
Á do ve chó nâu Rhipicephalus sangiuneus truyền.
- Bệnh sốt phát ban do R.australis xảy ra ở vùng Queensland (Australia):
do loài ve yếm Ixodes holocychis truyền.
Điều trị: có thể dùng tetracyclin hoặc cloramphenicol.
Phịng bệnh: tránh khơng cho ve đốt, nhanh chóng thận trọng lấy ve ra khỏi
chỗ đốt. Rickettsia có thể nhiễm cho người vài giờ sau khi ve bám vào vật chủ.
+ Mầm bệnh là virút:
447


Một số bệnh viêm não do ve truyền là do virut gây viêm cấp ở não, màng
não, tủy sống. Triệu chứng thay đổi tùy theo bệnh. Nhiều người bị nhiễm nhưng
khơng có biểu hiện gì. Trường hợp nặng có đau đầu dữ dội, sốt cao, buồn nơn,
hơn mê, có thể tử vong.
- Viêm não ve hay viêm não vùng rừng Taiga (cịn gọi là viêm não vùng Viễn
Đơng): do ve Taiga Ixodes persulcatus truyền.
- Viêm não châu Âu (viêm não vùng Trung Âu từ Ural cho đến Pháp): do ve
đậu Ixodes ricinus truyền.
- Bệnh sốt Colorado: do ve rừng Mĩ Dermacentor andessoni, bệnh được
nghiên cứu nhiều ở châu Mĩ.
+ Mầm bệnh là vi khuẩn:
- Bệnh Tularemia: do ve Dermacentor truyền, gặp nhiều ở châu Mĩ, châu Âu.
Bệnh còn gọi là bệnh sốt thỏ, sốt ruồi hươu hay bệnh Ohara do Francisella
tularensis gây ra. Mầm bệnh do ve Dermacentor, ve thỏ Mĩ Haemaphysalis
leporis-palustris; cũng có thể do va chạm với động vật mắc bệnh như thỏ... Thợ
săn và thợ rừng có nguy cơ nhiễm bệnh cao.
Bệnh điều trị bằng kháng sinh streptomycin.
Dự phịng: tránh ve đốt; sử dụng găng tay khơng thấm nước để giết ve và tiếp

xúc với các động vật săn được. Nấu chín thịt động vật hoang dại và nước ở vùng
có bệnh.
- Bệnh Lime: mầm bệnh là xoắn khuẩn Borrelia burrefery, phát hiện từ năm
1975 tại làng Lime (Mĩ). Bệnh xảy ra chủ yếu ở vùng ôn đới phía Bắc Trái Đất
gồm: Trung Quốc, châu Âu, Mĩ và Liên Xô (cũ).
Bệnh đã được phát hiện ở Việt Nam trên một bệnh nhân điều trị tại Bệnh
viện 103 (Nguyễn Phú Kháng và CS, 1990).
Bệnh phát triển qua 3 giai đoạn:
. Giai đoạn cấp: giống cảm cúm, sau khi nhiễm bệnh 10 - 15 ngày. Tại chỗ ve
đốt có ban đỏ.
. Giai đoạn vào khớp: viêm khớp, viêm cơ tim, viêm màng trong tim, cuối sùng
suy tim nhất là suy tim phải và kèm theo loạn thần. Giai đoạn này tử vong 15%.
. Giai đoạn mạn tính: để lại di chứng không hồi phục.
Bệnh chủ yếu do ve Ixodes truyền, phổ biến nhất vào mùa hè, khi có nhiều
thanh trùng ve.

448


Các lồi gặm nhấm nhỏ, đặc biệt là chuột, đóng vai trị nguồn bệnh trong khi
đó các thú lớn chủ yếu đóng vai trị vật chủ ni giữ quần thể ve. Ấu trùng ve
nhiễm bệnh trong khi đốt chuột, thanh trùng và trưởng thành có thể truyền bệnh
trong những lần đốt tiếp theo.
Tại những vùng ơn đới phía bắc bệnh đã trở nên phổ biến hơn khi những đàn
hươu, nai tăng lên và đã thích nghi với cuộc sống gần người. Có thể giảm sự tiến
triển bệnh hoặc dự phịng bằng tetracyclin hoặc penicillin trong 2 - 4 tuần.
2.3.2. Vai trò gây bệnh của ve:

+ Gây ngứa tại chỗ: vết ve đốt rất đau, ngứa do phản ứng của vật chủ; hoặc
do đầu giả của ve bị đứt lại trong da làm nổi sẩn cục, sưng đau, ngứa, phù nề.

+ Thiếu máu: nếu bị ve đốt nhiều có thể gây thiếu máu, đặc biệt ở gia súc
bị ve kí sinh nhiều có thể giảm khả năng sinh truởng, giảm sản lượng sữa
(bị, dê, ngựa...).
+ Độc tố của ve có thể gây liệt (liệt tạm thời), hay gặp ở trẻ em, đơi khi liệt
cơ hơ hấp có thể gây tử vong; liệt xuất hiện sau khi bị ve đốt 5 - 7 ngày, gây tê
liệt ở chân và ảnh hưởng đến khả năng nói, nuốt và thở. Bệnh xảy ra phổ biến
trên thế giới, nguy hiểm ở trẻ em dưới 2 tuổi. Điều trị bằng cách lấy ve ra khỏi cơ
thể.
3. Phòng chống ve.
+ Khi lao động hoặc đi qua nơi có ve hoạt động, định kì khoảng 50 phút 1 lần
cần nghỉ để bắt ve trên thân thể, quần áo; tốt nhất là 2 người kiểm tra cho nhau.
Khi đã bị ve đốt, nhẹ nhàng lấy kim châm hoặc đốt vào thân ve để ve tự nhả ra,
tránh dứt mạnh làm đầu giả của ve bị đứt lại trong da gây viêm đau.
+ Dùng hố chất xua cơn trùng bơi lên chỗ da hở; không ngồi trực tiếp xuống
đất, cỏ...
+ Phá nơi sinh sản và trú ẩn của ve: lấp khe kẽ trên nền nhà, chuồng chăn
nuôi. Bộ đội trú quân ở rừng cần phát quang xung quanh lán trại, nhà và đốt sạch
mùn rác.
+ Diệt ve trên gia súc (trâu, bị, ngựa...), dùng hố chất diệt cơn trùng phun
vào nơi có nhiều ve trú ẩn.

TROMBICULIDAE - HỌ MỊ
449


×