Tải bản đầy đủ (.pdf) (313 trang)

GIÁO TRÌNH HỌC HUYẾT CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 313 trang )

Chương I

MỘT SỐ HỌC THUYẾT CƠ BẢN
LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG KẾT HỢP HAI NỀN Y HỌC
Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam; nền y học của 54 bộ tộc trong đại gia
đình các dân tộc Việt Nam, đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài hàng
nghìn năm lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên để dựng nước và giữ nước,
giao lưu với các dân tộc khác trong khu vực, nên Việt Nam có nền Y học truyền
thống rất phong phú và đa dạng. Thuốc cổ truyền Việt Nam có nguồn gốc: từ thực
vật, động vật và khoáng vật.
1. Lịch sử Y học cổ truyền Việt Nam.
1.1. Việt Nam có địa sinh học riêng.

- Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: mặt trời có khoảng 5 tỷ năm.
- Thời đại cổ sinh cách đây 600 triệu năm.
- Thời nguyên đại trung sinh cách đây 200 triệu năm, giải đất nước ta lúc
đầu như mầm xương sống hình chữ S đó là dãy núi Trường Sơn.
- Thời đại Tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp hợp
thành lục địa Á châu có kết cấu địa chất địa tầng có sơng, núi…
Cuối thời kỳ Đệ Tam đã có vượn cao cấp cách đây 10 - 20 triệu năm. Nhiều nhà
khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh con người Việt Nam xuất hiện từ thời kỳ Canh
Tân, cái nơi của lồi người và cũng là cái nôi của các thuốc thảo mộc.
Do thời kỳ băng hà kéo dài Thuỷ Canh Tân đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta
nói riêng và ở Đơng Nam á nói chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển trào
lên kết hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát
triển nguồn thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây
động vật để sống đồng thời cũng chọn lọc tự nhiên những động vật và cây cỏ để ăn
để chữa bệnh. Vì vậy thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác,
đời này sang đời khác và tồn tại đến nay. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, y học cổ
truyền Việt Nam đã đúc kết được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh


bằng thuốc và không dùng thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã
phát hiện nhiều vị thuốc q: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân,
đậu khấu, hương phụ… được lưu truyền đến ngày nay.

1


1.2. Việt Nam có lịch sử xã hội lâu đời.

Việt Nam có nhà nước Văn Lang từ đời Hồng Bàng năm 2879 trước Công
Nguyên; thời đại các Vua Hùng, tổ tiên ta sớm sử dụng thuốc có nguồn gốc thực
vật, động vật và khống vật để làm thuốc. Ngồi ra còn biết sử dụng cả thuốc độc
tẩm vào tên, giáo mác để chống giặc ngoại xâm… Hiện nay có tượng và miếu thờ
An Kỳ Sinh - Nhà châm cứu Việt Nam đầu tiên tại Trúc sơn, Yên Tử, Huyện
Đông Triều, Tỉnh Quảng Ninh. Tượng và miếu thờ Bảo Cô - Nhà nữ châm cứu
(thế kỷ thứ 3 trước công nguyên). Tài liệu do Giáo sư thầy thuốc nhân dân Nguyễn
Tài Thu Viện trưởng Viện châm cứu Việt Nam sưu tầm.
Hơn một thiên niên kỷ dân tộc Việt Nam dưới ách xâm lược nơ dịch và
đồng hố của phong kiến Trung Quốc. Các dược liệu q hiếm đều bị cướp bóc
mang về chính quốc. Thời kỳ độc lập dưới các triều đại phong kiến (938 - 1884)
sau chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền từ 938 nước ta bước vào kỷ nguyên
độc lập.
- Đời lý (1010 - 1224) có tổ chức thái y viện ở Kinh đô cũng như ở các địa
phương.
- Đời Trần (1225 - 1399) phát triển nghề nuôi trồng dược liệu khắp nơi,
nhiều danh y nổi tiếng trong thời kỳ này, đặc biệt là Nguyễn Bá Tĩnh hiệu là Tuệ
Tĩnh, quê Nghĩa Phú, Cẩm Vũ, Cẩm Giàng, Hải Hưng, đỗ là Tiến sĩ nhưng đi tu,
tác phẩm y học nổi tiếng của ông là “Nam dược thần hiệu” 11 quyển, chọn lọc 580
vị thuốc phân loại theo nguồn gốc (23 loại); cỏ hoang, dây leo, mọc ở nước, có
cánh chim, cầm thú… chọn lọc dược liệu có trong nước tổ chức thành 8 - 873 bài

thuốc điều trị 182 chứng bệnh của 10 khoa.
- Tác phẩm “Hồng nghĩa giác tư y thư” tóm tắt tác dụng 630 vị thuốc theo biện
chứng luận trị, Ơng được tơn là thánh thuốc nam. Năm 1335 Tuệ Tĩnh được mời sang
Trung Quốc chữa bệnh cho Vua nhà Minh và bị giữ lại cho đến khi chết.
- Đời Hồ (1400 - 1406) phát triển châm cứu có Nguyễn Đại Năng soạn
cuốn sách “Châm cứu tiệp hiệu diễn ca”…
- Thời kỳ đô hộ của giặc Minh Trung Quốc (1047 - 1472), trong 20 năm
dưới ách đô hộ của Triều Minh y học dân tộc bị tổn thất nghiêm trọng.
- Hậu Lê (1428 - 1788) có bộ luật Hồng Đức đời Lê Thánh Tơng (1460 1479) ban hành qui chế làm thuốc, 1665 Lê Huyền Tông 2 lần ra lệnh cấm hút
thuốc lào; ở Triều đình có Thái y viện, các tỉnh có tế sinh đường, ở qn đội có sở
lương y Hồng Đơn Hồ và Trịnh Đôn Phát là lương y phục vụ trong quân đội nhà
Lê. Tác phẩm nổi tiếng của Ông là sách “Hoạt nhân tốt yếu”; Ơng được Vua Lê
Thánh Tơng sắc phong sáu chữ vàng“Lương Y Quốc - Thọ Tư Dân”. Hiện nay

2


nhân dân lập đền thờ Hồng Đơn Hồ tại q ông: Đa sĩ, Kiến Hưng, Hà Đông, Hà
Tây.
Đặc biệt trong thời kỳ này có Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn Ông
(1720 – 1791) quê Văn Xá Yên Mỹ Hải Hưng ơng đã tóm được y lý y học cổ
truyền phương Đông, tổng kết những thành tựu y học cổ truyền Việt Nam từ trước
đến thế kỷ XVIII và đã vận dụng sáng tạo những tinh hoa y học cổ truyền vào điều
kiện thời tiết khí hậu liên quan đến đặc điểm phát bệnh ở nước ta. Tác phẩm “Hải
Thượng Lãn Ông y tâm lĩnh” là bộ sách đồ sộ gồm 28 tập, 66 quyển, đến nay vẫn
được coi là bộ sách bách khoa về y học cổ truyền. Ơng đã tổng kết sáng tác hồn
chỉnh hệ thống hố nền y học truyền thống Việt Nam trên các lĩnh vực; nội khoa,
ngoại khoa, sản phụ và nhi khoa, ngũ quan khoa trên phương diện chẩn trị dự
phòng từ lý pháp đến phương dược, từ y đức đến y sử, y thuật đến các lĩnh vực
thiên văn y học và thực trị học. Về dược học Lãn Ông đã sưu tầm thêm 300 vị

thuốc tổng hợp thành 2854 bài thuốc kinh nghiệm. Nét độc đáo trong biện chứng
luận trị y học cổ truyền của Lãn Ông đến nay và mãi mãi là kim chỉ nam cho mọi
hành động chẩn trị theo y lý cổ truyền của các thế hệ thầy thuốc y học dân tộc Việt
Nam.
1.3. Thời kỳ bị thực dân Pháp đô hộ (1884 - 1945)

Thực dân Pháp đưa y học phương Tây vào nước ta giải tán các tổ chức y tế
Triều Nguyễn (y học phương Đông và y học dân tộc). Thực hiện chính sách ngu
dân chia để trị, coi thường y học truyền thống dân tộc, hiện nay vẫn còn tản dư ở
một số tri thức coi thường y học dân tộc cần phải khắc phục để xây dựng nền y
học xã hội chủ nghĩa.
2. Phương hướng kết hợp YHHĐ với YHCT của Đảng và nhà nước ta.
Cách mạng tháng 8 - 1945 thành công nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra
đời. Mặc dù phải trải qua 2 cuộc kháng chiến gian khổ chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt nam do chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập chính phủ ta rất chú trọng phát triển y tế nói chung và phát triển y
học cổ truyền nói riêng. Phong trào sử dụng thuốc nam theo “toa căn bản” ở Nam
bộ đã đóng góp đáng kể trong cơng tác chăm sóc sức khoẻ cho các lực lượng vũ
trang và nhân dân. Ngày 27 - 2 - 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong thư gửi
cho ngành y tế: “… y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học, dân tộc và đại
chúng… ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh
bằng thuốc ta thuốc bắc, để mở rộng phạm vi y học, các cô các chú cũng nên chú
trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông y với Tây y…”

3


Nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ III năm 1960 đã ghi rõ phương hướng
kết hợp 2 nền y học “phối hợp chặt chẽ Đông y với Tây y trong cơng tác y tế trên
các mặt phịng bệnh, chữa bệnh, sản xuất thuốc nam, đào tạo cán bộ và nghiên cứu

khoa học”
Chỉ thị 101/TTg của thủ tướng chính phủ cũng ghi cụ thể: “Trên cơ sở khoa
học, thừa kế, phát huy những kinh nghiệm tốt của Đông y với Tây y nhằm tăng
cường khả năng phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân tiến lên xây dựng một nền
y học Việt nam xã hội chủ nghĩa”
Chỉ thị 21/CP ngày 19/2/1967 của thủ tướng chính phủ. Chỉ thị 210
TTG/VP ngày 6/12/1966 về công tác dược liệu. Triển khai nghị quyết Đại hội
Đảng IV, V nghị quyết 200 - CP ngày 21/8/1978 và NQ 266 - CP ngày
19/10/1978. Ngày nay việc kết hợp 2 nền y học đã được ghi trong hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, trở thành một pháp lệnh của nhà nước. Nghị
quyết Đại hội Đảng VII (1991) “kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền từng
bước hiện đại hoá y học cổ truyền, giữ gìn bản sắc y học cổ truyền. Hiện nay Hội
nghị Trung ương 4 khố 7 có riêng nghị quyết về y học cổ truyền: “Triển khai
mạnh mẽ việc nghiên cứu, ứng dụng và hiện đại hoá y học cổ truyền dân tộc kết
hợp với Y học hiện đại, phát triển nuôi trồng cây con làm thuốc, trang bị thêm
phương tiện cho việc khám chữa bệnh và sản xuất thuốc y học cổ truyền dân tộc.
Khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ và cán bộ đầu đàn y học dân tộc. Tăng thêm
đầu tư và nâng cấp các cơ sở y học dân tộc” kết hợp hai nền y học đã trở thành
phương châm của ngành y tế. Về tổ chức của Bộ y tế có Vụ y học cổ truyền, có
viện y học dân tộc, có 2 viện nghiên cứu dược học dân tộc ở thủ đơ Hà nội và
thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh có viện y học dân tộc tỉnh, trong các viện đa khoa
tỉnh có khoa y học dân tộc, trong các bệnh viện huyện, trạm y tế xã cũng đều có bộ
phận y học cổ truyền.
Trong quân đội có viện y học dân tộc quân đội, Học viện Quân y có Bộ
mơn y học dân tộc, cục qn y có phịng y học dân tộc, các bệnh viện loại A đa
khoa, loại B, các quân khu, quân đoàn, quân chủng đều có bộ phận y học dân tộc.
Về tổ chức quần chúng có hội y học cổ truyền, Việt Nam có hội châm cứu
Trung ương được thành lập ở hầu khắp trên 64 tỉnh và thành phố thị xã; hiện đã
trở thành tổ chức chuyên môn rộng khắp từ trung ương đến các cơ sở.
3. Phương hướng kết hợp hiện nay.

1. Theo tinh thần của báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
IV là: “Để khơng ngừng nâng cao khả năng chất lượng phòng và chữa bệnh phải
kết hợp chặt chẽ giữa y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc, vận dụng phát

4


triển những thành tựu tiên tiến của y học thế giới, đồng thời coi trọng đúng mức
việc phát triển y học dân tộc, tích cực thừa kế áp dụng nâng cao những thành tựu
và kinh nghiệm của y học dân tộc, từng bước xây dựng nền y học Việt nam; mở
rộng một cách có kế hoạch nguồn dược liệu thiên nhiên phong phú trong nước,
xây dựng nền y dược học Việt nam, nhanh chóng phát triển cơng nghiệp dược
phẩm và đẩy mạnh sản xuất thiết bị y tế”. Nghị quyết 46 của Bộ chính trị ngày 232-2005 cũng nhấn mạnh: "... Đẩy mạnh việc nghiên cứu thừa kế bảo tồn và phát
triển y dược học cổ truyền thành một chuyên ngành khoa học. "
2. Tại các tuyến Trung ương kết hợp chặt chẽ trong chẩn đoán: chẩn đoán
bệnh dựa trên thành tựu YHHĐ kết hợp với y lý cổ truyền. Tiêu chuẩn chẩn đoán
bệnh, tiêu chuẩn đánh giá dựa trên y học hiện đại kết hợp với chẩn trị y học cổ
truyền. Về điều trị tuỳ theo tình trạng của bệnh nhân và khả năng đảm bảo thuốc
theo từng tuyến có thể áp dụng cổ phương, nghiệm phương hay đối pháp lập
phương, có thể dùng thuốc, dùng châm xoa bấm hoặc thuốc châm xoa bấm kết
hợp. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước phương Tây. Hoà nhập với tổ
chức y tế thế giới (OMS), tổ chức đã và đang kêu gọi các nước phát triển y học cổ
truyền góp phần đưa y học cổ truyền dân tộc vào chương trình chăm sóc sức khoẻ
ban đầu của cộng đồng, đóng góp tích cực trong dự phịng và bảo vệ sức khoẻ
nhân dân.
3. Các bước tiến hành ở các tuyến.
+ Trên cơ sở khoa học hiện đại kết hợp với y học phương Đông mà thừa kế
chỉnh lý nâng cao phát huy và phát triển hệ thống lý luận y học cổ truyền dân tộc
Việt Nam.
+ Kết hợp YHHĐ với YHCT trên các mặt: phòng bệnh, chữa bệnh và sản

xuất thuốc đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học.
+ Tiến tới xây dựng một nền y học Việt nam xã hội chủ nghĩa có đầy đủ
tính chất; khoa học, dân tộc và đại chúng.

HỌC THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ ỨNG DỤNG
TRONG Y HỌC
Âm dương ngũ hành là học thuyết cơ bản của y học cổ truyền. Học thuyết
này thể hiện quan điểm duy vật biện chứng tự phát được ứng dụng từ hơn hai
nghìn năm trước công nguyên, qua tổng kết thực tiễn ngày nay đã trở thành hệ

5


thống lý luận cơ bản của y học cổ truyền dân tộc. Nội dung học thuyết đã chỉ rõ
chức năng của cơ thể, đã khái quát quy luật phát sinh, phát triển và thoái lui của
nguyên nhân bệnh lý và chỉ đạo mọi nội dung chẩn đoán, điều trị và dự phòng
trong lâm sàng.
1. Học thuyết âm dương
Khái niệm cơ bản: học thuyết âm dương là học thuyết phác thảo quan điểm
mâu thuẫn, giới thiệu các hiện tượng sinh lý, bệnh lý trong cơ thể từ đó đề ra
nguyên tắc điều trị và dụng dược (hay lý luận sử dụng dược vật).
Người xưa cho rằng: các bộ phận cấu tạo nên cơ thể đều do hai khái niệm vật chất
và công năng (hai mặt đối lập thống nhất) tức là âm dương cấu tạo thành. Sự phát sinh và
phát triển của bệnh tật đều do mất thăng bằng về âm dương.
Quy luật thuộc tính âm dương ứng dụng trong cấu tạo và cơng năng.
1.1. Âm dương đối lập.

Ví dụ:

Dương


Âm

- Mặt ngoài

- Mặt trong

- Bên trên

- Bên dưới

- Mặt lưng

- Mặt bụng

- Lục phủ

- Ngũ tạng

- Khí

- Huyết

- Cơng năng

- Vật chất

- Hưng phấn

- Ức chế


- Hoạt động

- Yên tĩnh

- Phát triển

- Thối hố

- Thăng lên

- Giáng xuống

- Hướng ra ngồi

- Hướng vào trong

- Thuộc tính âm dương của sự vật khơng phải là tuyệt đối mà là tương đối,
vì vậy trong điều kiện nhất định, thuộc tính sẽ thay đổi.
VD: quan hệ giữa lưng và bụng (bụng thuộc âm mà lưng thuộc dương)
nhưng khi xét tương quan giữa ngực và bụng thì tất nhiên ngực ở trên thuộc
dương, bụng ở dưới thuộc âm.
1.2. Âm dương hỗ căn.

Người xưa cho rằng: “dương sinh ở âm, âm sinh ở dương”, “cô âm bất sinh,
độc dương bất trưởng” nghĩa là âm dương cùng song song tồn tại, dựa vào nhau
mà phát triển (không có dương tức là khơng có âm, trái lại khơng có âm tức là

6



khơng có dương). Âm dương là hai phạm trù căn bản để duy trì sự sống “sinh vi
bản, bản thuộc âm dương: Sinh mệnh từ mở đầu đến kết thúc là một quá trình đấu
tranh tương hỗ, quá trình tương quan chặt chẽ tới âm dương, nếu như mất đi mối
quan hệ âm dương cũng có nghĩa là khơng cịn sự sống; vì thế quan điểm của y
học dân tộc là: “âm dương hỗ căn”.
- Về sinh lý mà nói: cơng năng của tồn cơ thể thuộc dương, cơ sở vật chất
của tồn cơ thể thuộc âm. Cơng năng hoạt động chủ yếu dựa vào vật chất là cơ sở
mà quá trình bồi bổ vận động của vật chất lại phải dựa vào hoạt động công năng
(bao gồm một loạt hoạt động ăn uống, tiêu hố, hấp thu, tuần hồn máu và dịch
thể…)
- Ví dụ về bệnh lý: tâm dương bất túc (không đầy đủ) tất nhiên dẫn đến tâm
âm bất túc và ngược lại.
1.3. Âm dương tiêu trưởng.

“Âm dương tiêu trưởng, dương tiêu âm trưởng”. Tiêu và trưởng là hai quá
trình song song tồn tại và biến động thường xuyên, bởi vì tổ chức của các cơ quan
trong cơ thể không ngừng hoạt động, vật chất không ngừng bị tiêu hao và lại
thường xuyên được bổ xung. Trong phạm vi nhất định, tiêu trưởng biến đổi bình
thường duy trì chức năng hoạt động của cơ thể sống. Nếu như nhấn mạnh một mặt
nào hoặc là tiêu thái quá hoặc là trưởng thái qúa đều phát sinh bệnh lý.
Ví dụ: sở dĩ có âm hư (tức là tiêu thái quá) sẽ dẫn đến dương vượng, dương
hư sẽ dẫn đến âm thịnh. Ngược lại quá trình âm thịnh (trưởng thái quá sẽ dẫn đến
dương hư, dương vượng sẽ dẫn đến âm hư)
- Trong bệnh cao huyết áp: có những triệu chứng đau đầu, chóng mặt hay
mất ngủ, hay mê, hay cáu gắt, giận dữ, lưỡi hồng, khô, mạch huyền tế sác, đó
chính là âm hư dương vượng.
- Trong bệnh cấp tính có sốt thường sốt rất cao là “dương quá thịnh” làm
thương tổn phần âm huyết, âm dịch bị tiêu hao tức là dương thịnh dẫn đến âm hư.
Tất cả những ví dụ trên đều làm sáng tỏ phạm trù âm dương tiêu trưởng hỗ căn.

1.4. Âm dương chuyển hoá.

Quan điểm y học cổ truyền “trọng âm tất dương, trọng dương tất âm” nghĩa
là trong điều kiện bình thường hai mặt âm và dương ln ln chuyển hố tương
hỗ, âm có thể chuyển thành dương, dương có thể chuyển thành âm. Nguyên nhân
gây bệnh thường gặp trên lâm sàng khi mới mắc thường là biểu (dương chứng) khi
chuyển vào lý (âm chứng), từ thực (dương) chuyển hư (âm) và từ nhiệt (dương)
hoá thành hàn (âm).

7


Phong hàn biểu chứng, khơng ra được mồ hơi, có thể hoá nhiệt nhập lý, tà
thịnh thực chứng, nếu như khơng được điều trị đúng có thể chuyển thành hư chứng
bởi vì khi dương thịnh nhiệt chứng dùng quá nhiều thuốc hàn lương sẽ thành
chứng hàn và trái lại khi âm thịnh, dùng quá nhiều thuốc ôn nhiệt sẽ thành chứng
nhiệt.
Cũng tương tự các nguyên nhân bệnh lý có thể biến hoá từ lý đến biểu, hư
chuyển thành thực, hàn biến thành nhiệt…
Ví dụ: khi trẻ bị sởi (ma chấn) độc tố sởi tích lũy trong các tạng phủ gây
các biến chứng nguy hiểm, do quá trình điều trị đưa các độc tố ra ngoài (nghĩa là
tự lý ra biểu).
Chứng khí hư cũng có ngun nhân khí bất hành huyết, huyết uất lại mà
thành huyết ứ (thực chứng)
Chứng lý hàn trong q trình điều trị nhiều thuốc ơn táo làm tổn thương âm dịch sẽ
chuyển thành chứng “âm hư nội nhiệt”. Tất cả những ví dụ trên đều nói lên âm dương
chuyển hoá lẫn nhau, nương tựa, tương hỗ lẫn nhau và cùng tồn tại.
1.5. Kết luận.
Âm dương hai mặt đối lập trong một thể thống nhất luôn luôn vận động và
chuyển hóa lẫn nhau. Trong sự vận động chuyển hố, tiêu trưởng là hai q trình

song song tương hỗ. Mặt này tiêu mặt kia trưởng và ngược lại.
2. Học thuyết ngũ hành.
2.1. Khái niệm.

Học thuyết ngũ hành là học thuyết âm dương ứng dụng cụ thể trong việc
quan sát, quy nạp mối liên quan giữa các tạng phủ.
Triết học xưa cho rằng vật chất cơ bản cấu tạo nên vũ trụ là: mộc, hỏa, thổ,
kim, thủy; mỗi loại có đặc tính riêng nhất định. Giữa vũ trụ bao la có vơ vàn vật
chất, sự vật; phải dựa vào đặc tính của 5 loại vật chất cơ bản để từng bước quy
loại. Bởi vậy, vật chất cũng được chia năm loại lớn: mộc, hỏa, thổ, kim, thủy để
giải thích các mối liên hệ tương hỗ giữa các sự vật, gọi tắt là “ngũ hành”
Trong y học xưa dựa vào quan hệ tương hỗ của ngũ hành để giải thích mối
quan hệ giữa hoàn cảnh tự nhiên bên ngoài với bên trong cơ thể và giữa các cơ
quan trong cơ thể với nhau.
Ví dụ: đem ngũ khí, mùa thời tiết… của tự nhiên liên hệ với ngũ tạng ở
trong cơ thể, dựa vào các đặc điểm khác của nó mà quy loại ngũ hành.
Hiện nay sự quy loại ngũ hành của y học cổ truyền được xắp đặt theo bảng
dưới đây:

8


2.2. Quy loại ngũ hành.

Mộc

Hỏa

Thổ


Kim

Thủy

1. Tạng

Can

Tâm

Tỳ

Phế

Thận

2. Phủ

Đởm

Tiểu trường

Vị

Đại trường

Bàng quang

3. Ngũ khiếu Mắt


Lưỡi

Miệng

Mũi

Tai

4. Ngũ thế

Cân

Mạch

Cơ nhục

Bì phu

Cốt

5. Ngũ chí

Nộ (giận)

Vui (mừng) Tư (lo)

Bi (buồn)

Sự


6. Ngũ sắc

Xanh

Đỏ

Vàng

Trắng

Đen

7. Ngũ vị

Chua

Đắng

Ngọt

Cay

Mặn

8. Ngũ khí

Phong

Thử


Thấp

Táo

Hàn

9. Tiết quý Xuân (sinh) Hạ (trưởng) Trưởng hạ (hóa) Thu (kết)

Đông (táng)

Theo sự quy loại của bảng trên, tạng can liên hệ với mắt, cân, vị chua, khí
gió, mùa xn, đặc điểm can ưa thư thái, thích điều đạt.
Học thuyết ngũ hành là ngũ tạng có quan hệ sinh khắc, sinh là xúc tiến,
thúc đẩy phát triển. Khắc là ức chế.
2.3. Quy luật ngũ tạng tương sinh là tác dụng thúc đẩy.

Can sinh tâm, tâm sinh tỳ, tỳ sinh phế, phế sinh thận, thận sinh can (tức là mộc
sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc)
Trong quan hệ tương sinh: mỗi hành đều sinh ra hành kia và được hành
khác sinh ra mình, và quan hệ với hành sinh ra mình là “mẹ”, hành được sinh ra là
“con”.
Lấy thổ làm ví dụ thì hỏa sinh thổ, hỏa là mẹ của thổ, thổ sinh kim “kim vi
thổ chi tử”.
2.4. Quy luật ngũ tạng tương khắc là tác dụng ức chế.

Can đối với tỳ, tâm đối với phế, tỳ đối với thận, phế đối với can và thận đối
với tâm (tức là mộc khắc thổ, hỏa khắc kim, thổ khắc thủy, kim khắc mộc, thủy
khắc hỏa).
Trong quan hệ tương khắc: mỗi tạng đều bị một tạng khắc mình và quan hệ
với tạng khác… (thắng và khơng thắng)

Lấy mộc làm ví dụ: mộc khắc thổ tức là “thổ vi mộc chi sở thắng”. Kim khắc
mộc tức là “kim vi mộc chi sở bất thắng” ngồi ra cịn có phản khắc.
Ví dụ: tỳ thổ khắc thận thủy, nhưng trong trường hợp bệnh lý thận thủy
phần lớn phản khắc tỳ xuất hiện đại tiện lỏng nát. Như vậy một tạng xúc tiến đẩy
một tạng khác và tạng này ức chế tạng kia và thúc đẩy một tạng khác, thúc đẩy và

9


ức chế, hay tương sinh và tương khắc phải luôn luôn kết hợp và cân bằng, để bảo
vệ quan hệ bình thường giữa các tạng, duy trì hoạt động bình thường của cơ thể.
2.5. ứng dụng trên lâm sàng.

Ngũ hành có quan hệ chặt chẽ với chẩn đốn và điều trị trên lâm sàng.
Ví dụ: trong vọng chẩn thường lấy việc quan sát sự nhuận sáng tươi hồng
của sắc mặt:
Sắc mặt xanh thuộc về can phong
Sắc mặt đỏ phần nhiều thuộc về tâm hỏa
Sắc mặt vàng thuộc về tỳ thấp
Sắc mặt trắng thuộc về phế hàn
Sắc mặt đen thuộc về thận hư
Trong điều trị bệnh tạng phủ phần nhiều dựa vào sự liên quan ngũ vị đối
với ngũ tạng mà chọn thuốc. Nói chung vị chua vào can, thuốc có vị mặn vào thận,
có vị ngọt vào tỳ, vị đắng vào tâm, vị cay vào phế… như vậy là ngũ sắc, ngũ vị
trong ngũ hành được ứng dụng cụ thể trong chẩn đoán và điều trị.
Về ngũ hành sinh khắc được ứng dụng trên lâm sàng để tìm vị trí phát sinh
ra bệnh tật và cách điều trị khác nhau. Tương sinh là q trình thúc đẩy bình
thường, là có lợi cho điều trị bệnh lý. Ví dụ bồi bổ tỳ vị để nâng đỡ cơ thể trong
bệnh lao phổi. Như thế gọi là bồi thổ sinh kim; trong điều trị can dương thượng
nghịch phải căn cứ vào thủy sinh mộc, phải dùng phương pháp tư dưỡng thận âm

gọi là tư thủy dưỡng mộc.
Về mặt tương khắc, tuy nhiên tạng này trong điều kiện bình thường tác
dụng ức chế tạng khác, đó là ức chế có lợi, do tác dụng cân bằng hiệp đồng. Ví dụ:
quan hệ tương khắc của thận thủy với tâm hỏa bình thường là tương tế “thủy hỏa
tương tế, hay thủy hỏa tương giao”. Nhưng khi thủy quá mạnh gọi là tương thừa
(tức là tạng bị khắc phát sinh ra bệnh lý), khi đó quan hệ hiệp đồng giữa tâm thận
bị phá vỡ, thủy hỏa không giao nhau, xuất hiện tâm phiền tâm quý, mất ngủ, hay
quên, lưng gối đau mỏi và phù gọi là “tâm thận bất giao”, “thủy hỏa bất tương tế”.
Khi điều trị phải dùng phương pháp giao thông tâm thận (dùng bài; tần giao
thang gia giảm). Hoặc can mộc quá mạnh dẫn đến tỳ thổ thất điều, xuất hiện phúc
thống tiết tả gọi là “mộc khắc thổ” “can mộc thừa tỳ”, trong điều trị phải thư can
kiện tỳ.
Khi dùng thuốc phải dựa vào tính vị của thuốc và trong bào chế phải làm thay đổi
tính chất vị thuốc theo yêu cầu đi vào các tạng phủ và cơ quan cần thiết.
3. Kết luận.

10


Học thuyết âm dương ngũ hành là học thuyết phác thảo quan điểm duy vật
biện chứng tự phát, thừa nhận thế giới là do vật chất cấu tạo thành, mọi sự vật đều
có quan hệ tương hỗ. Trong một sự vật ln có hai q trình âm và dương ln đối
lập, hỗ căn hoặc dựa vào nhau, đấu tranh thúc đẩy nhau mà tồn tại. Y học cổ
truyền luôn coi đó là phương châm chỉ đạo trong điều trị và dự phòng.

4. Ứng dụng học thuyết ngũ hành trong lâm sàng.
4.1. Vận dụng trong nguyên nhân sinh bệnh.

Y học cổ truyền cho rằng: “Âm bình dương bí, tinh thần nại trị” nghĩa là
nói hai mặt âm và dương chỉ có thể ở trạng thái tương đối cân bằng, song song tồn

tại thì mới duy trì được hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể.
Nếu như sự cân bằng âm dương bị phá vỡ sẽ phát sinh bệnh lý. Ví dụ:
dương thiên thắng hoặc thiên suy, âm thiên thắng hoặc thiên suy. Dựa vào lý lẽ âm
dương tiêu trưởng mà trên lâm sàng thường thấy, nếu âm thịnh dẫn đến dương
suy, sẽ thấy các triệu chứng dương khí bất túc: sợ lạnh, chân tay lạnh, sắc mặt
trắng bủng, tự hãn, tiểu tiện trong dài, chất lưỡi nhợt, mạch hư.
Ví dụ: phế âm hư, trong phế kết hạch khái thấu (ho lao phổi), dẫn đến
dương vượng, xuất hiện triệu chứng trằn trọc, mất ngủ, miệng khô, muốn uống
luôn, lưỡi hồng, mạch sác.
Dựa vào lý lẽ âm dương hỗ căn; nếu như một trong hai mặt âm dương thiên
thắng hoặc là thiên duy đều dẫn đến âm hoặc dương bất túc (không đầy đủ)
“dương tổn cập âm, âm tổn cập dương” (nội kinh). Ví dụ: trong một số bệnh nhân
mãn tính thường giai đoạn cuối đều phát triển theo chiều hướng âm dương lưỡng
hư.
4.2. Vận dụng trong chẩn đốn.

Đơng y đề xuất “phàm trấn bệnh phương trị tật tu trí thẳm âm dương” tức là khi
phân tích tình hình bệnh lý thường phải dùng phép quy nạp về âm dương, tập hợp các
triệu chứng khái quát thành hai loại âm chứng hay dương chứng.
Ví dụ: thực chứng phân thành âm thịnh hay dương vượng, hư chứng thì âm
hư hay dương hư, trên cơ sở đó đề ra nguyên tắc phương trị.
4.3. Vận dụng trong điều trị.

11


Y học xưa cho rằng: “cẩn sắt âm dương sở tại nhi điều chi dĩ bình vi kỳ”
nghĩa là nói nguyên tắc điều trị của đông y, thông qua điều trị làm biến đổi tình
trạng âm dương thiên thắng hoặc thiên suy trong cơ thể, điều chỉnh quan hệ giữa
âm và dương nhằm mục đích khơi phục trạng thái tương đối cân bằng của âm

dương, tiêu trừ bệnh tật. Sở dĩ dương thịnh dùng âm dược, âm thịnh dùng dương
dược, mục đích tả phần hữu dư của âm dương, dương hư dùng dương dược, âm hư
dùng âm dược mục đích bổ thêm phần bất túc của âm dương.
Về tính vị công năng của các vị thuốc cũng phải phân chia theo âm dương:
ví dụ thuốc có tính năng ấm nóng thuộc dương dược, thuốc có tính mát lạnh thuộc
âm dược, thuốc có vị cay, ngọt, đạm thuộc dương dược, vị chua, mặn, đắng thuộc
âm dược, thuốc có tính thăng phù phát tán thuộc dương dược, tác dụng trầm giáng
thông tiết thuộc âm dược. Tóm lại phải vận dụng linh hoạt các vị thuốc đúng với
thuộc tính âm dương của dược vật mới đạt được hiệu quả tốt.
Âm dược

Dương dược

- Mát lạnh

- Ấm nóng

- Chua, mặn, đắng

- Cay, ngọt, đạm

- Trầm, giáng, thông, tiết

- Thăng, phù, phát tán

Trên lâm sàng thường gặp các hội chứng:
- Bán biểu bán lý
- Biểu lý đồng bệnh
- Hư chung hiệp thực, thượng thực hạ hư
- Chân hàn giả nhiệt, chân nhiệt giả hàn

- Âm hư dương vượng, dương hư âm thịnh
- Âm dương lưỡng hư, âm trung chi dương, dương trung chi âm…
Phải luôn luôn nắm vững thuộc tính âm dương tương hỗ, tiêu trưởng, bình
hành, đối lập nhưng thống nhất, ln ln chuyển hố lẫn nhau, phân biệt chính
xác, sử dụng linh hoạt các loại thuốc theo đúng thuộc tính âm dương sẽ đạt kết quả
cao trong chẩn đoán và phương trị.
Sắc mặt trắng bủng, tứ chi vô lực, rối loạn ngôn ngữ (loạn ngơn), nói nhỏ
đó là dương bất túc hay là âm bất túc ?

DỊCH, Y DỊCH, THỜI GIAN KHÍ THỊNH THEO ĐỊA CHI
VÀ THEO NGŨ HÀNH
12


1. Khái niệm về dịch y dịch.
- Dịch là tác phẩm triết học cổ đại của Trung Quốc và các nước phương
Đơng, tư tưởng triết học được trình bày trong dịch là duy vật. Dịch học đã giải
thích thế giới bằng chính thế giới; thừa nhận thế giới là do sự vận động phát triển
không ngừng của khối vật chất đối lập tạo nên,đả phá các quan điểm triết học mơ
hồ trong chính kinh “Thánh nhân lập tượng dĩ tận ý”, nghĩa là thánh nhân mượn
hình tượng - dịch để nói tiếp cái ý của mình. Thực tế là một số học thuyết của Y
học cổ truyền như: học thuyết âm dương ngũ hành của Trần Diễn, thuyết “đạo”phép biện chứng của Lão Tử và thuyết khí hố của các học giả nước Tề chưa giải
thích rõ về biện chứng luận trị. Do tổng hợp các thành tựu triết học Thời Chiến
Quốc (403 - 221 trước Công Nguyên) nên nội dung của dịch rất rộng, ảnh hưởng
của dịch với các ngành khoa học Xã hội và Y học rất lớn.Y học cổ truyền coi
Dịch là môn học nhập môn của nhiều thế hệ “tiên học dịch hậu học y”, “chưa biết
kinh dịch thì chưa nên làm thuốc” (Hải Thượng Lãn Ông). Người làm thuốc theo
quan niệm xưa là phải am hiểu về thiên văn, về địa lý và con người “thượng tri
thiên văn, hạ tri địa lý, trung tri nhân sự”.
- Tóm lược lịch sử Y - Dịch.

+ Dịch là bộ sách có vào khoảng 2000 năm trước cơng ngun, trên cơ sở
phát triển của triết học duy vật cổ đại, đã phát triển và bổ xung thêm sáu phần
Dịch: hệ từ truyện, thuyết quái truyện, tạp quái truyện, tự quái… những tác giả
chính biên soạn dịch:
+ Phục Hy: nhân vật của truyền thuyết, tương truyền rằng cách đây 4100
năm Phục Hy đã dùng vạch cửu (⎯), lục (– – ) để tạo ra các quẻ (gọi là quái).
+ Chu Văn Vương (1150 - 1066 trước Công Nguyên); thời kỳ này đã có
chữ viết. Ơng viết “thốn từ” để giải thích từng quẻ của Phục Hy (64 quẻ).
+ Chu Cơng Đán (1060 trước Công Nguyên) viết “Hào từ” để giải thích
cho từng hào của các quẻ của Phục Hy (384 hào).
+ Khổng tử (551 - 479 trước Công Nguyên) viết thêm “Thoán từ truyện, đại
tượng truyện, tiểu tượng truyện” để giải thích bổ xung cho ý nghĩa của từng quẻ,
từng hào và cuối cùng ông viết “Văn Ngôn” cho hai quẻ Càn và Khơn. Như vậy
Khổng Tử là người hồn chỉnh nội dung rất cơ bản của Dịch.
2. Nội dung chính của Dịch.

13


- Chính kinh là các quẻ (quái) của Phục Hy, các hào của Chu Công Đán và
các truyện của Khổng Tử, phần hai là dịch truyền của các tác giả cuối thời Chiến
quốc:
+ Hệ từ thượng truyện, hệ từ hạ truyện
+ Thuyết quái truyện, từ quái truyện thượng
+ Từ quái truyện hạ, tạp quái truyện.
- Sự vận động không ngừng của vật chất hỗn độn, cổ nhân dùng các ký hiệu
thay cho chữ viết để giải thích các hiện tượng biến đổi của vật chất, của thiên
nhiên, của vạn vật trong trong thái cực (vũ trụ ngày nay) từ vô danh,vơ sắc (Đạo là
khơng) đến có danh, có sắc (sắc). Lão Tử cho rằng: đạo thường vô danh “vô danh
vạn vật chi khí” nghĩa là cái đạo thường khơng đặt tên được và vô danh là sự bắt

đầu của vạn vật (tức là con ngươì chưa nhận thức được vật chất). “Thiên địa vạn
vật sinh ra từ hữu (có), hữu sinh ra từ vô (không)”, sự vận động phát triển không
ngừng của vật chất là đi từ vô danh đến hữu danh. Từ ký hiệu nhất dương (⎯),
nhất âm (– – ), đến lưỡng nghi, đến tứ tượng, bát quái, thập nhị quái và cuối cùng
là lục thập tứ quái (64 quẻ). Những học thuyết: bát quái tiên thiên, bát quái hậu
thiên, hà đồ, lạc thư, ngũ vận, lục khí…đều là những thành tựu rất lớn của chiết học thời
Chiến quốc, tuy chưa hẳn là Dịch nhưng có liên quan chặt chẽ với dịch, bởi vì cùng thời
với dịch là tài liệu Hoàng Đế - Nội Kinh, một bộ sách đặt cơ sở cho biện chứng luận trị
của nền Y học phương Đông. Trong tài liệu này ( phần phụ lục ), chúng tôi sắp xếp mối
liên quan giữa ngũ vận, lục khí với tạng phủ và thập nhị quái với hy vọng dần dần tìm
hiểu, thống kê, nghiên cứu suy đốn, tiên lượng và dự phịng bệnh lý theo quy luật vận
khí tương lâm.
2.1. Nội dung của thập nhị quái hậu thiên.
- Quẻ phục là nhất dương sinh ở cung tý, tiết đơng chí tháng 11.
- Quẻ khảm là nhị dương sinh thành ở cung sửu, tiết đại hàn tháng 12.
- Quẻ đại tráng tứ dương sinh ở cung mão, tiết xuân phân tháng 2.
- Quẻ quái ngũ dương sinh ở cung thìn, tiết cốc vũ tháng 3.
- Quẻ kiền thuần dương sinh ở cung tỵ, tiết hạ chí tháng 4.
Khi dương đã qua hai giai đoạn thành, thịnh, thì dương cực sinh âm.
- Quẻ cầu một hào âm bắt đầu sinh ra ở cung ngọ, tiết hạ chí tháng 5.
- Quẻ đôn nhị âm sinh ở cung mùi, tiết đại thử tháng 6.
- Quẻ bĩ tam âm sinh ở cung thân, tiết sử thử tháng 7.
- Quẻ quán tứ âm sinh ở cung dậu, tiết thu phân tháng 8.

14


- Quẻ bác ngũ âm sinh ở cung tuất, tiết xương giáng tháng 9.
- Quẻ khôn lục âm sinh ở cung hợi, tiết lập đông tháng 10.
Quẻ khôn là quẻ thuần âm, các hào âm chiếm toàn quái, khi âm cực lại sinh

dương, thịnh suy, sức khoẻ liên quan đến các quẻ và ngày của các tiết quý (xem
bảng phụ lục 1)
Thời gian khí thịnh theo địa chi (time of maximum energy) - huyệt theo
ngũ hành (points of the five elements)
2.2. Khai huyệt thời gian khí thịnh theo địa chi
Theo tài liệu của Thanh Triều Liêm (Nam Kinh - Trung Quốc, 1959) và của
Anton Jayasurijya (Indian, 1993); ngay từ thế kỷ thứ nhất năm 45 trước Công
Nguyên. Các nhà thiên văn học, tốn học và triết học phương Đơng đã thiết lập
những công thức về sự liên quan giữa các tổ chức cơ quan trong cơ thể con người
với lực tương tác của các hành tinh trong vũ trụ; khái niệm “nhân thân chi tiểu
thiên địa” con người là vũ trụ nhỏ, trên vũ trụ bao la có bao nhiêu tinh tú thì trong
cơ thể con người có bấy nhiêu vi tinh tú. Học thuyết vận khí (lục thập niên vận khí
tương hợp) từ thời Tần Việt Nhân (hiệu là Biển Thước) đã nêu lên các qui luật
biến hoá của thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí với
ngũ hành, qui luật tương hợp của địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi,
Thân, Dậu, Tuất, Hợi với lục khí “khắc khắc bất định”. Lực điện trường trong vũ trụ
tác động đến mọi hoạt động sống của các tổ chức cơ quan trong cơ thể thay đổi từng giờ,
hàng ngày, hàng tháng theo âm lịch, những nhịp bẩm sinh theo mùa và hàng năm. Các
nhà YHCT Trung Quốc cũng đã chứng minh các hoạt động của hooc môn, các men
(enzyme), hoạt động của hệ thống miễn dịch, các trung tâm hạch lymphô, lách, tuyến ức,
tủy xương cũng song song theo kiểu nhịp sinh học.
VD: hàm lượng chất corticosterone và ACTH huyết tương cao nhất vào
buổi trưa, rồi tụt xuống vào buổi chiều và xuống tối thiểu vào nửa đêm.
Năm 1030 sau công nguyên những nghiên cứu về nhịp mặt trăng được
Yensu Hai và Chao Tu Lun đã tổng kết: mặt trăng là thực thể của âm; nước cũng
thuộc âm; mặt trời là thực thể của dương, nhờ một lực hấp dẫn tương tác theo
nhịp, y học xưa đã giải thích tại sao nước thủy triều ở mức cao nhất lúc mới có
trăng và lúc trăng tròn, nước thủy triều ở mức thấp dần khi trăng khuyết dần hoặc
tròn dần và thấp nhất ở đầu và cuối q, từ đó giải thích thủy triều có nước lớn và
có nước nhỏ. Giải thích sự thay đổi của mặt trăng với chu kỳ của kinh nguyệt, với

sự có thai và một số bệnh tật.
Nhịp cơ thể hàng ngày được biết rõ như một chu kỳ ngày một lần (đồng hồ
sinh học của cơ thể). Nhịp thịnh suy của các dòng năng lượng âm và dương; dòng

15


năng lượng dương là hoạt động nhất vào buổi sáng và đạt mức tối đa vào buổi
trưa, sau đó chuyển chậm sang âm và đạt mức tối đa vào nửa đêm rồi lại đảo
ngược dần về dương và buổi sáng. Chu kỳ 24h của năng lượng (YHCT gọi là khí vital energy) với đỉnh năng lượng ở tạng phế (giữa 3 - 5 h sáng gọi là giờ dần) và
được tiến dần qua 12 chính kinh (Meridian) theo thứ tự đều đặn như thế và được
lặp lại ở chu kỳ sau.
+ Bảng khai huyệt thời gian khí thịnh theo địa chi.
+ Bảng chọn huyệt theo ngũ hành.

Chương 2

NGŨ VẬN LỤC KHÍ VÀ ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC
ĐẠI CƯƠNG HỌC THUYẾT VẬN KHÍ VÀ ỨNG DỤNG
TRONG Y HỌC (THE THEORY INTRODUCTION OF WU
WEINLIUCHI AND USING IN MEDICAL PRACTIVE)
1. Khái niệm học thuyết vận khí.
- Ngũ lục vận khí được gọi tắt là vận khí, đây là một trong những học
thuyết quan trọng của y học cổ truyền phương Đông, học thuyết vận khí, giải thích
sự biến hóa khí hậu thiên thời của giới tự nhiên. Người xưa cho rằng, mọi sự biến
hóa của khí hậu thiên thời đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vạn vật
trong vũ trụ, đặc biệt là con người. Trên quan điểm chỉnh thể của y học cổ truyền,
học thuyết vận khí lấy học thuyết âm dương ngũ hành làm trung tâm “thiên nhân
tương ứng” nhân thân chi tiểu thiên địa”. Con người là vũ trụ thu nhỏ… mọi sự
biến đổi phức tạp của vũ trụ đều có thể xảy ra những biến đổi trong cơ thể con

người.
+ Ngũ vận: là thủy, kim, thổ, mộc, hoả (ngũ hành) phối hợp với thiên can
trong quá trình vận động để suy đốn tuế vận của mỗi năm.

16


+ Lục khí: là phong, nhiệt, hoả, thấp, táo, hàn phối hợp với địa chi để suy
đốn tuế khí của mỗi năm (tính chất của khí hậu từng năm phụ thuộc vào khí của
năm đó).
+ Vận khí: là kết hợp cả hai “ngũ vận” và “lục khí”. Học thuyết vận khí
được vận dụng làm sáng tỏ mọi sự liên quan, ảnh hưởng qua lại trong giới tự nhiên
cũng như trong cơ thể con người.
+ Học thuyết vận khí được vận dụng vào y học: người xưa cho rằng: ”con
người luuôn có sự quan hệ rất mật thiết với giới tự nhiên, mọi sự sinh hoạt của con
người nhất thiết phải thích ứng với mọi biến hóa của giới tự nhiên, vì vậy các nhà
y học xưa thường lấy con người so sánh đối chiếu với giới tự nhiên để suy đốn.
+ Nội dung học thuyết vận khí: gồm ba vấn đề lớn luôn chuyển dịch và
biến đổi: thiên (trời), địa (đất), nhân (con người).
+ Mục đích: nghiên cứu học thuyết vận khí (trên phương diện y học) là nắm
chắc quy luật biến hóa của thời khí (khí hậu thiên thời) để suy đoán dự đoán nguyên
nhân sinh bệnh của ngoại cảm (tà khí lục dâm). Vì vậy lấy biến hóa khí hậu của các tiết
quý trong mỗi năm để suy đốn việc phát sinh bệnh tật trong năm đó, để tham khảo
trong chẩn đoán và điều trị các bệnh trên lâm sàng.
- Khi nghiên cứu học thuyết vận khí cần phải nắm vững hai vấn đề.
- Nắm chắc học thuyết âm dương ngũ hành, nó là trung tâm mà chủ yếu là
quan hệ ngũ hành sinh khắc.
- Nắm vững tên gọi ngũ hành can chi để vận dụng.
Can chi là gọi tắt của thiên can và địa chi. Thiên can có 10 (gọi là thập can)
là: giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm, q. Địa chi có 12 (gọi là thập

nhị chi) là: tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Can chi trong
ngũ vận lục khí đều sử dụng tên đại diện để suy đốn.
+ Thuộc tính âm dương của thiên can: thiên can và địa chi đều có thuộc tính
âm dương khác nhau. Giữa can và chi thì can thuộc trời (thuộc dương), chi thuộc
đất (thuộc âm), chi dương khác nhau. Theo tuần tự số lẻ là dương, số chẵn là âm
(dương là thái quá, âm là bất cập), ta có:
- Dương can: (1) Giáp

(3) Bính

(5) Mậu

(7) Canh (9) Nhâm

- Âm can:

(4) Đinh

(6) Kỷ

(8) Tân

- Dương chi: (1) Tý
Tuất

(3) Dần

(5) Thìn

- Âm chi:

Hợi

(4) Mão

(6) Tỵ

(2) Ất

(2) Sửu

2. Nội dung học thuyết vận khí
Ngũ vận - lục khí - can chi - ngũ hành

17

(10) Quý

(7) Ngọ
(8) Mùi

(9) Tân (11)
(10) Dậu (12)


+ Thiên can phối hợp với ngũ vận.
Đại vận:

1- Giáp

2 - Ất


3 - Bính

4 - Đinh

5 - Mậu

6 - Kỷ

7 - Canh

8 - Tân

9 - Nhâm

10 - Quý











Kim

Thủy


Mộc

Hỏa

Thổ

2.1. Địa chi phối hợp với ngũ hành.
Tuế hội:
3 - Dần

6 - Tỵ

9 - Thân

12 - Hợi

5 - Thìn

2 - Sửu

4 - Mão

7 - Ngọ

10 - Dậu

1 - Tý

11 - Tuất


8 - Mùi







Mộc

Hỏa

Kim

18


Thủy


Thổ


Thổ


2.2. Địa chi phối hợp với tam âm, tam dương và lục khí, khách khí.
1 - Tý


2 - Sửu

3 - Dần

4 - Mão

5 - Thìn

6 - Tỵ

7 - Ngọ

8 - Mùi

9 - Thân

10 - Dậu

11 - Tuất

12 – Hợi














Thiếu

Thái

Thiếu

Dương

Thái

Quyết

Âm

Âm

Dương

Minh

Dương

Âm

Quân


Thấp

Tương

Táo

Hàn

Phong

Hỏa

Thổ

Hỏa

Kim

Thủy

Mộc

3. ứng dụng ba phương thức trên.
- Ứng dụng khi suy đoán đại vận, đại vận chủ soái của một năm dùng để giải
thích sự biến đổi khí hậu của cả năm và là cơ sở để suy đoán khách vận.
+ Ứng dụng để suy đốn tuế hội (trong 60 năm có 8 tuế hội)
+ Ứng dụng khi suy đốn khách khí.
+ Phương pháp suy đoán được ứng dụng cụ thể: theo y văn y học cổ truyền
Trung Quốc (Mã Thiệu Nhi, 1959) phương pháp ghi năm dựa theo can chi kết hợp
có vào khoảng thế kỷ thứ 2 - 3 sau công nguyên, trước Đông hán chỉ được dùng để

ghi ngày còn sau thời Vua Quang Vũ mới được dùng để ghi ngày, tháng, năm.
Phương pháp này hiện nay trong âm lịch vẫn cịn dùng.

(1)

Giáp

Ất

Bính

Đinh

Mậu

Kỷ

Canh

Tân

Nhâm

Q

(2)



Sửu


Dần

Mão

Thìn

Tỵ

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi



Sửu

Dần

Mão

Thìn


Tỵ

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi



Sửu

Dần

Mão

Thìn

Tỵ

Ngọ

Mùi


Thân

Dậu

Tuất

Hợi



Sửu

Dần

Mão

Thìn

Tỵ

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất


Hợi



Sửu

Dần

Mão

Thìn

Tỵ

Ngọ

Mùi

Thân

Dậu

Tuất

Hợi

(1): thiên can

(2): địa chi


Tên mỗi năm đều có cấu tạo một thiên can, một địa chi kết hợp.
Ví dụ: giáp tý (giáp là thiên can, tý là địa chi)
Ất sửu: (ất là thiên can, sửu là địa chi)
Phương pháp này ngồi ra cịn được áp dụng cho ngày, tháng, giờ.

19


* Chuyển dịch của ngũ vận: di chuyển, vận động không ngừng (không
dừng lại), ngũ vận được chia ra thành: đại vận, chủ vận, khách vận.
+ Đại vận: chủ về biến hóa khí hậu của cả năm. Theo thiên can chúng ta có:
Giáp, kỷ đại vận là thổ vận
Ất, canh đại vận là kim vận
Bính, tân đại vận là thủy vận
Đinh, nhâm đại vận là mộc vận
Mậu, quý đại vận là hỏa vận
Mỗi vận chủ suốt cả năm, chu kỳ của nó là 5 năm. Theo ngũ hành tương
sinh thì trong 30 năm mỗi kỷ, mỗi vận chủ 6 năm, trong 60 năm mỗi vận chủ 12
năm (theo ngũ hành, cứ mỗi hành trong một vòng giáp tý (60) năm có 12 năm chủ
về biến hóa khí hậu của cả năm). Đại vận của cả năm có thái quá và có bất cập.
Quy luật chung: năm dương thái q khí của năm ấy lưu hành. Năm âm bất
cập thì khí tương khắc, khí của năm ấy lưu hành.
+ Chủ vận là chỉ sự biến đổi bình thường của các vận quý (một năm có 5
giai đoạn) trong một năm. Suy đoán chủ vận bắt đầu từ ngày đại hàn, mỗi vận quý
chiếm khoảng 73 ngày lẻ 5 khắc.
Theo ngũ hành tương sinh:

Mộc thuộc sơ vận
Hỏa thuộc nhị vận

Thổ thuộc tam vận
Kim thuộc tứ vận
Thủy thuộc cuối vận

Khí hậu bình thường của chủ vận lấy thuộc tính ngũ hành của lục khí.
Sơ vận: mộc khí chủ phong, nhị vận hỏa, khí chủ thử nhiệt, tam vận hỏa,
khí chủ thấp, tứ vận kim, khí chủ táo, cuối vận thủy, khí chủ hàn (khí hậu ở các
giai đoạn của mỗi năm là giống nhau)
+ Khách vận: chỉ sự biến đổi khí hậu khác thường trong 5 vận quý của mỗi
năm. Suy đoán khách vận dựa theo năm thiên can đại vận là sơ vận, khách vận kết
hợp với 5 tiết quúy và 5 bước suy đoán.

20


Sơ vận

Nhị vận

Tam vận

Tứ vận

Cuối vận

Giáp kỷ

Thổ

Kim


Thủy

Mộc

Hỏa

Ất canh

Kim

Thủy

Mộc

Hỏa

Thổ

Bính tân

Thủy

Mộc

Hỏa

Thổ

Kim


Đinh nhâm

Mộc

Hỏa

Thổ

Kim

Thủy

Mậu q

Hoả

Thổ

Kim

Thủy

Mộc

Tóm lại:
- Đại vận là suy đốn biến hóa khí tượng của các năm, 10 năm một vòng
theo thiên can (5 năm thái quá, 5 năm bất cập)
- Chủ vận là chủ biến hóa khí hậu bình thường của 5 giai đoạn trong một
năm.

- Khách vận là suy đốn khí hậu khác thường của năm giai đoạn (tiết quý)
của mỗi năm.
+ Chuyển dịch của lục khí: là sáu khí trong vũ trụ bao gồm: phong, nhiệt,
hoả, thấp, táo, hàn. Mỗi năm lục khí được chia làm hai loại: chủ khí và khách khí.
- Chủ khí là chỉ biến đổi khí hậu bình thường
- Khách khí là chỉ khí hậu biến đổi thất thường
Khách chủ gia lãm (khách khí thêm chủ khí) phân tích sâu thêm sự biến hóa
phức tạp của khí hậu.
+ Chủ khí: là khí chủ thời dùng để chỉ rõ quy luật khí hậu bình thường
trong mỗi năm, có ý nghĩa giống như vận chủ tứ thời. Lục khí chủ thời cố định hay
biến đổi được gọi là chủ khí.
- Phương pháp suy đốn chủ khí: chủ khí chủ thời được chia làm sáu giai
đoạn. Sáu giai đoạn này lại được chia làm 24 tiết tự. Bắt đầu từ ngày đại hàn thuộc
sơ vận (quyết âm phong mộc) qua bốn tiết khí chuyển dịch một bước. Thứ tự của
nó từ sơ khí đến cuối khí. Liên quan 6 giai đoạn 6 khí và 24 tiết khí:

21


Lục




Nhị

Tam

Tứ


Ngũ

Cuối (lục)

Lục
khí

Quyết - Âm

Thiếu - Âm

Thiếu Dương

Thái - Âm

Dương minh

Thái - Dương

Phong - Mộc

Quân - Hoả

Tướng - Hỏa

Thấp - Thổ

Táo - Kim

Hàn - Thủy


Tiết
tự

Đại - Hàn

Xuân - Phân

Tiểu - Mãn

Đại - Thử

Thu - Phân

Tiểu - Tuyết

Lập - Xuân

Cốc - Vũ

Hạ - Chí

Sử - Thử

Sương Giáng

Đơng - Chí

Vũ - Thủy


Thanh Minh

Mạng Chửng

Lập - Thu

Hàn - Lộ

Đại - Tuyết

Kinh - Trập

Lập - Hạ

Tiểu - Thử

Bạch - Lộ

Lập - Đơng

Tiểu - Hãn

Chủ khí nói rõ biến hóa khí hậu bình thường trong một năm, mỗi khí chủ
60 ngày và 78 khắc rưỡi, tuy nhiên cũng như ý nghĩa chủ vận tứ thời, nhưng
trong thời gian chủ khí có khác nhau.
Ví dụ: khí hậu bốn mùa nói chung: xn ơn (phong), hạ nhiệt (hỏa), thu
lương (táo), đông hàn và hạ trưởng chủ thấp (bảng trên là lục khí: phong, thử,
thấp, hỏa, táo, hàn chia ra 6 bước là chuyển dịch cụ thể).
+ Khách khí: khách khí để giải thích khí hậu biến hóa khác thường hàng
năm có thay đổi, khác với chủ khí cố định. “Khách ở lại là khơng bình thường” vì

(khách là đi qua) nên gọi là khách khí.
- Phương pháp suy đốn khách khí: khách khí chuyển dịch là do khí âm
dương nhiều hay ít và thứ tự chuyển dịch là: quyết âm (âm), thiếu âm (âm), thái
âm (âm), thiếu dương (dương), dương minh (dương), thái dương (dương).
Mỗi năm có một khí chủ lĩnh, từng năm chuyển dịch tuần hồn khơng
ngừng đó là khách khí chủ qn một năm.
- Những năm khách khí chủ lĩnh suy đốn thế nào?
Khí tự thiên theo địa chi làm cơ sở. Năm tý ngọ trên thấy thiếu âm, năm
sửu mùi trên thấy thái âm, năm dần thân thấy thiếu dương, năm mão dậu thấy
dương minh, năm thìn tuất thấy thái dương, năm tý hợi thấy quyết âm. Địa chi
mỗi năm phàm là trùng tý ngọ khơng chuyển đến thiên can. Tý và ngọ khách khí
đều thuộc thiếu âm tư thiên sửu và mùi khách khí đều thuộc thái âm tư thiên…
Mỗi tuần hoàn 6 năm 6 khí, mỗi tuần hồn của địa chi là 12 năm (6 âm chi
và 6 dương chi). Trong 60 năm chuyển dịch 5 vịng, lục khí tuần hồn 10 vịng.
Quy luật năm chi với tư thiên tại uyển.
Năm chi

22

Tư thiên

Tại uyển


Tý ngọ

Thiếu âm - Quân hỏa

Dương minh - Táo kim


Sửu mùi

Thái âm - Thấp thổ

Thái dương - Hàn thủy

Dần thân

Thiếu dương - Tướng hỏa

Quyết âm - Phong mộc

Mão dậu

Dương minh - Táo kim

Thiếu âm - Quân hỏa

Thìn tuất

Thái dương - Hàn thủy

Thái âm - Thấp thổ

Tỵ hợi

Quyết âm - Phong mộc

Thiếu dương - Tướng hỏa


Vị trí của 6 giai đoạn khách khí (hình 1)
4. Thiên văn can chi và tạng phủ (heavanly stems, terrestrial pranches
and zangfu)
4.1. Ngũ vận lục khí phối hợp
Từng năm có khí hỏa, ngũ chủ vận, ngũ khách vận lại thêm tư thiên tại
tuyền lục khí chủ khí, lục khí khách khí, bảy loại hội tụ cùng một thời gian.
Trong đó khách khí khắc trở thành tà khí (nếu như khách khí là mộc tức tỳ cũng
sinh bệnh). Tạng bị khắc sẽ bị bệnh, ngoài ra đều suy đốn như trên.
- Tuế (năm) vận có tư thiên tương hợp là thiên phù. Ví dụ: tuế vận mộc lại
gặp quyết âm phong mộc, tư thiên tuế vận hỏa lại gặp thiếu dương tướng hỏa tư
thiên đều là thiên phù. Vì vậy trong khi bệnh lý diễn biến nguy hiểm và nhanh.
Tuế vận có năm khí tương hợp là tuế hội nếu như mộc vận trùng với năm chỉ dần
mão. Hoả vận trùng với năm tỵ, ngọ, bình khí vận chủ cả năm. Vì vậy trong diễn
biến của nó cũng từ từ và lâu dài. Tuế vận gặp tư thiên và năm chi “tam hội” hợp,
nếu như tuế hỏa vận gặp thiếu âm quân hỏa tư thiên lại gặp phải năm chi là ngọ,
tức là năm mậu ngọ, tuế thổ vận gặp thái âm thấp thổ, tư thiên lại gặp năm chi là
sửu mùi cũng là năm kỷ sửu, kỷ mùi nếu như năm kim gặp vận dương minh táo
kim tư thiên lại gặp năm chi là dậu cũng tức là năm ất dậu vẫn là thiên phù tuế
hội mà còn là thái ất thiên phù còn là quý thân thiên thắng, chi đắc.
- Trong khi bệnh tà thiên thắng, bệnh rầm rộ có nguy cơ tử vong cịn phải
chiếu theo ngày cụ thể mà xét tà khí của năm đó.
4.2. Thiên văn - can - chi và tạng phủ.
- Tại sao giáp kỷ hoá thổ ?
Thiên văn ngày nay cho rằng giáp kỷ hóa thổ là do lực tương hỗ (lực điện
trường trong vũ trụ), khi mặt trời (định tinh trên thiên không) chiếu vào sao thổ

23


ánh sáng khúc xạ lên nền trời xuất hiện quang phổ màu kiềm, cố nhân gọi “kiềm

thiên kiến vận”.
Năm mậu quý hóa hỏa khi mặt trời chiếu vào sao hỏa, khúc xạ có quang
phổ mẫu đỏ cổ nhân gọi “đan thiên kiến vận” mậu quý hóa hỏa.
- Khi mặt trời chiếu vào sao thủy cổ nhân gọi: ”huyền thiên kiến vận. Bính
tân hóa thủy”.
- Khi mặt trời chiếu vào sao mộc, quang phổ mầu xanh cổ nhân gọi:
“thanh thiên kiến vận. Đinh nhâm hóa mộc”
- Khi mặt trời chiếu vào sao kim cổ nhân gọi: “bạch thiên kiến vận, ất
canh hóa kim”
Trong đó có âm can và dương can (dương can thuộc số lẻ thường thái quá,
âm can thuộc số chẵn thường bất cập).
4.3. Địa chi từng năm liên quan đến tạng phủ kinh lạc.
- Như đã nói trên (mục địa chi phối hợp lục khí) ta có:
Tý ngọ

→ thuộc thiếu âm quân hỏa

Sửu mùi thìn tuất

→ thuộc thái âm thấp thổ

Dần thân

→ thuộc thuộc thiếu dương tướng hỏa

Mão dậu

→ thuộc dương minh táo kim

Tỵ hợi


→ thuộc quyết âm phong mộc

Chủ khí là đại biểu ngũ tạng
Khách khí là đại biểu lục kinh (tam âm tam dương). Khách khí khi thì
hoạt động trên vũ trụ (thuộc tứ thiên)
- Khi thì vận động trong khí quyển và sâu trong lịng đất gọi là tại tuyền
(tuyến đài)
- Những năm đó khắc khách khí thường gia lâm vào chủ khí tác động chủ
vận và chủ khí.
- Vận khí khác hành khác loại ít bệnh tật. Vận khí cùng hành cùng loại tai
hại vơ cùng.
- Năm vận hỏa khí tư thiên hỏa gọi là thiên phù. Hỏa cộng hỏa thời tiết nóng gấp
đơi trạng thái thiên thắng và nhiệt, rêu lưỡi hình lưỡi chất biểu hiện nhiệt.

24


- Năm vận hỏa năm chi cùng là hỏa (tý ngọ) gọi là tuế hội thời tiết nắng
nóng bệnh tật cứ nâng cao, hình thể lưỡi ráng đỏ rêu vàng, trạng thái thiên nhiệt,
thực nhiệt.
- Năm vận hỏa tư thiên hỏa, năm chi hỏa gọi là thái ất thiên phù. Tử vong
rất cao, hình lưỡi cực nhiệt.
- Năm vận hỏa tư địa (tại tuyền) hỏa gọi là đồng thiên phù. Năm vận hỏa
năm chi của khí tư thiên là hoả đồng tuế
4.4. Thiên văn được vận dụng trong y học.
- Một đêm ngày: quả đất tự quay quanh trục của mình một vịng
- Một tháng: mặt trăng quay quanh quả đất một vịng theo hình số tám (bát
qi)
- Một năm: quả đất quay xung quanh mặt trời một vòng 10 thiên can (gốc

trời) 12 địa chi (cành đất)
+ Thiên can liên quan đến tạng phủ
Giáp (1) Dương mộc → Đởm
ất (2) Âm mộc

→ Can

Bính (3) Dương hỏa → Tiểu trường
Đinh (4) Âm hỏa

→ Tâm

Mậu (5) Dương thổ → Vị

Kỷ (6) Âm thổ

→ Tỳ

Canh (7) Dương kim → Đại trường
Tân (8) Âm kim

→ Phế

Nhâm (9) Dương thủy→ Bàng quang
Quý (10) Âm thủy

→ Thận

+ Địa chi liên quan đến ngũ hành (đã giải thích rõ ở phần trên)
Địa chỉ:

Tý hợi (Â - D) Thủy

Thìn Tuất (D) Thổ

Dần Mão (D - Â) Mộc

Sửu Mùi (A) Thổ

Tý ngọ (Â - D) Hỏa

Thân Dậu (D – A) Kim

5. Cơ chế sinh bệnh theo ngũ vận lục khí liên quan đến trạng thái thiên
thắng.
- Chủ yếu là khí hậu khắc cơ quan và tạng phủ.
- Tùy theo bản tạng thiên thắng mà phát ra bệnh khác nhau liên quan đến
kinh mạch lạc mạch.
- Do thuộc tính khác nhau của nguyên nhân gây bệnh, vì yếu tố thể chất
khác nhau của mỗi người mà có sự khác nhau về chứng trạng và cơ quan phát

25


×