Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Tran Canh Hao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.08 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Thi Pháp Thơ Ðường - Vận & Vần


Bức thu thứ năm


...


Thư trước đã nói : Thanh , Vận, Ðiệu là 3 yếu tố chính tạo ra thi nhạc, và nhạc là yếu tố
làm cho thơ khác văn. Ðó là nói về tính chất, nói về nội dung. Cịn nói về hình thức thì
thơ khác văn do vận. Văn không vần nên gọi là Tản Văn . Thơ có vần nên gọi Vận Văn.
Do đó trong ba yếu tố Thanh, Vận, Ðiệu. Vận chiếm địa vị quan trọng hơn cả.


<b>Vận</b> <b>là</b> <b>gì</b> <b>?</b>


Các cụ ta thường dạy:


Là những tiếng đồng âm với nhau, những tiếng nghe na ná như nhau .
Và Lưu Hiệp đời Lục Triều bên Trung Quốc, tác giả bộ Văn Tam Ðiêu Long, giải thích
rằng:


Ðồng Thanh tương ứng vị chi Vận.


Giải như thế, Tàu cũng như Ta, có phần trửu tượng quá.
Thật chẳng khác hỏi một nữ thanh niên nhà cô ở đâu ? cô đáp :


Nhà tôi ở dưới đán dâu,


Ở trên đám mía, có cầu bắc ngang


Hoặc:


Nhà tơi trở mặt ra sân,



Ở xa có núi, ở gần có sơng.


Ði tìm cho ra nhà cô ấy, tất phaiỏ mất nhiều cơng sức, nhiều thì giờ, và không


tránh khỏi lạc đàng lạc nẻo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nước Việt Nam chưa có sách quan vận. Các cụ ngày xưa đều dùng sách Tàu khi làm thơ


chữ Nôm cũng như khi làm thơ chữ Hán.


Chúng ta ngày nay khơng cịn làm thơ chữ Hán, và cũng rất ít người đọc thông chữ Hán,
lại thêm nhiều chữ đã theo thời gian mà biến âm thanh. (Ví dụ Ðơng là đơng phướng, và
Ðông là mùa Ðông, và hào là hào kiệt và hào là hỗn hào, chúng ta đều đọc là Ðông là
Hào mà chưa chia ra thành những vận khác nhau, và Ðông này không áp vận cùng Ðông
kia được, H àokia không hợp vần cùng Hào này được!.
Ðó là vì Ðông mùa và Ðông phương, Hào này và Hào nọ, xưa kia đọc khác hẳn nhau, mà
ngày nay thì đọc giống nhau vậy). cho nên những vận thư của Trung Hoa kể ra chỉ để các
bạn thấy rằng cổ nhân rất xem trọng Vận, chớ không thể đem ra áp dụng cho việc tìm vần


được nữa.


Thơ Nơm xuất hiện từ đời Trần, nhưng trên 700 năm nay chưa
chưa có một quyển sách nào nghiên cứu về thi vận. Các cụ ngày xưa thì
dựa vào Vận Thư của Trung Hoa, chúng ta thì dựa vào những tác phẩm lưu
truyền của các cụ. Đối với các cụ thơ Nơm chỉ là một món tiêu khiển
trong chốc lát, nên Vận thơ có chỉnh hay khơng chỉnh, các cụ khơng mấy
quan tâm . Do đó mà có nhiều bài thơ rát hay nhưng có đơi vần khơng
“tương ứng” không “na ná”ù như nhau . Như :



Lác đác rừng phong hạt móc sa,


Ngàn Vu hiu hắt khí Thu mờ ...


Phong cảnh Tây Hồ chẳng khác xưa


Người đồng châu trước biết bao xa


Trời Thu ngăn ngắt mấy tầng cao


Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu ...


Ðọc nghe thật không sướng tai. Nhưng cũng lắm người bắt chước, vì xưa bày nay làm và
tin các cụ học rộng tài cao đã làm tất trúng. Nhưng có trúng theo vận luật của Tàu
khơng ? Khơng sai . Nhưng đối với những kẻ thẩm âm bằng đôi tai nghệ sĩ, thì những vần
gieo như thế nghe không hòa hảo bao nhiêu.
Ðã công nhận Vận là một yếu tố của thơ, thì vần thơ phải cho chỉnh đốn.
Ðể gieo vần được chỉnh đốn, làng thơ quốc âm đã có chuẩn tắc truyền miệng cho nhau ,
và ai theo ai không theo tùy ý . Tơi xin trình bày ra mặt giấy để cùng các bạn nghiên cứu
thêm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cùng một bộ vận với n, cố giáo sư Trần Cảnh Hảo đề xướng ra phép dùng Khạn và
dấu.


Khn là gì ?


Là một nhóm chữ do 1 hay 2 nguyên âm (voyelle) ráp với 1 hay 2 phụ âm(consonne)
thành vần (syllabe), tự nó có thể thành một chữ.. Ví dụ trong chữ Ban, Kinh, Cương, ln


... thì An, Ink, Ương,n là khuôn.



Những chữ nào đồng 1 khuôn và đồng 1 thanh với nhau là đồng 1 bộ vận. Ví dụ những
tiếng, Ban, Bàn, Bán, Bạn, Bản, Bãn là những tiếng đồng 1 khuôn, nhưng khác thanh.
Nên Ban và Bàn đồng 1 bộ vận với nhau thuộc vần Bằng còn Bán Bạn Bản Bãn thuộc
vần trắc, tuy khác thanh nhưng vẫn vần với nhau .
Nói tóm lại là vận có hai loại : loại vàn bằng và loại vần trắc. Những chữ đồng một khn
và có dấu huyền cùng khơng dấu thuộc vần Bằng và cùng một bộ vận với nhau. Những
chữ đồng 1 khn và có các dấu Sắc, Hỏi Ngã nặng là thuộc vần Trắc và cùng một bộ
vận với nhau . Ví dụ : Ban, Bàn, Can, Càn, Dan, Dàn, , Ðan , Ðàn, Gan, Gàn, Han hàn,
Khan Khàn, Lan Làn Man Màn , Phan Phàn, Quan Quàn, Ran Ràn, san sàn v... v... là


đồng một bộ vận với nhau.


Ðó là nói về loại vần Bằng. Cịn loại vần Trắc thì khn giống nhau mà chữ này Thanh
Thượng, chữ kia thanh Khứ, cũng đều là đồng một bộ Vận. Như Bán Cán Cạn Ðản
Ðạn ... đều đồng một bộ vận . Riêng những chữ về nhập thanh, tuy cùng thuộc loại vần
Trắc, mà chữ có hậu phụ âm T tạo cho mình một bộ vận chữ có hậu phụ âm P tạo cho
mình một bộ vận . Những chữ có phụ am C, CH cũng vậy . Những bộ vận này không thể
lẫn nhau và không thể nhập với những bộ Vận về Thượng Thanh, Khứ Thanh.
Thơ Ðường luật ít khi dùng vần Trắc cho nên không cần đi sâu.
Trong nhiều bài thơ vần Bằng được truyền tụng, chúng ta lại thấy có nhiều bài khơng


theo quy tắc “đồng một khn”.


Ví dụ bài Không Chồng mà chửa của Hồ Xuân Hương :


Trót lỡ ra rồi dám thở than


Riêng hiềm vì nỗi má hồng nhan.



Duyên thiên chưa thấy nhô đầu ngược,


Phận liễu sao đà nảy nét ngang.


Gánh nợ trăm năm chàng trút cả


Khối tình ba kiếp thiếp riêng mang.


Chị em nhắn nhủ đừng chê trách,


Khơng có, nhưng mà có, mới ngoan!


Than, nhan, ngoan thuộc khuôn an, Ngang Mang thuộc ang, mà lại ghép vần với nhau,
như thế là sái . cách gieo vần như thế không phải là hiếm Trần Tế Xương Cũng thường


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trời không chớp bể với mưa nguồn


Ðêm nảo đêm nao tớ cũng buồn


Bối rối tình dun cơn gió thoảng


Nhạt nhèo quang cảnh bóng trăng sng


Khăn khăn áo áo thêm bầy chuyện


Bút bút nghiên nghiên khéo giở tuồng


Ngủ quách sự đời thây kẻ thức


Bên chùa thằng trọc đã hồi chuông



Những vận thuộc khuôn uôn ghép với những vận thuộc khn ng . Nếu chúng ta chịu
khó “lắng tai Chung Kỳ” thì nhận thấy khi đọc lên, Ang cũng như Uông ngân dài hơn An
va Uôn. Thi nhạc của những câu mà vẫn khơng có chữ G ở sau kém hơn các câu có G.


Nhưng thi vận chia làm hai thứ :


<b>Vận</b> <b>Chính</b>


<b>Vận</b> <b>Thơng</b>


Vận Chính là những vận đồng một khuôn


Vận thông là những vận tuy không đồng một khuôn nhưng đọc lên nghe tương tợ. Như
Nhan và mang, Buồn và Chng, Hng, có nhiều địa phương đọc những chữ có G và
khơng có G giọng in nhau. Chỉ những người từ Thanh, Nghệ, Tĩnh trở ra mới đọc đúng
giọng và mới có thể phân biệt dễ dàng độ dài ngắn của những chữ có G và khơng G.
Do đó với những chữ có G và khơng G, làng thơ chia làm hai phái. Một phái nhận là


Ðồng Vận, một phái cho là Lạc Vận.


Chúng ta không nên cứng rắn quá, cũng không nên dễ dãi quá. Chúng ta chỉ nên ghép
những vần có G với những vần khơng có G, Những vần khơng G với những vần có G,
trong trường hợp “bất khả kháng”, nghĩa là chúng ta chỉ ép vận khi nào nhận thấy làm
như thế tuy có phần thất về mặt âm vận nhưng thêm phần đắc về mặt tình tứ. Song nếu có


thể tránh được thì vẫn hơn .


Chúng ta nên tránh ghép những vần :UA, U, Ư vào Ô, O, Ơ như bài Than Thời Loạn của



Vua Lê chúa Trịnh:


Lửa hồng từ dậy mái thành đơ


Ðịi chốn lầm than chuyện được thua


Xanh biếc thú q người ẩn dật


Bạc đen đường thế khách bôn xu


Suy tường mỗi mỗi đau lịng trí


Tính quẩn trần trần nát dạ ngu


Mong tới Vị Xuyên mà hỏi Lữ


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Bài thơ được truyền tụng là nhờ lời đẹp và phản ảnh thời thế, được các nhà làm sách thi
tuyển thủ thứ là do ý thú, chớ không phải do âm vận. Những duyệt giả chuộng thanh điệu
khơng thích bài này . Một bài thơ gồm được cả thanh điệu ý thú mới là hoàn hảo.
Chúng ta cũng thường gặp trong thơ xưa, những vần OAO, ÂU, IU, EO ... ghép lại với
nhau. Như trong bài Thu Vịng của Nguyễn Khuyến:


Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,


Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.


Nước biếc trơng như tầng khói phủ,


Song thưa để mặc bóng trăng vào.



Mấy chùm trước giậu hoa năm ngối,


Một tiếng trên khơng ngỗng nước nào?


Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,


Nghĩ ra lại thẹn với ông Ðào


Bài này là một danh tác, nên không mấy người dám chê vần Cao mà xuống vần hiu nghe
thật “chói” tai. Chẳng những khơng dám chê mà cịn khen hai vần đó đứng sát nhau gây
nơi người đọc cái cảm giác “xa cách, rời rạc”, làm cho giác quan cảm thấy cảnh đã mênh
mông thêm mênh mông, tình đã hiu quạnh thêm quạnh hiu. Cũng có người khen những
vần ÐơƠ, Thưa, Xư, Ngư, ư trong bài Than Thời Loạn ở trên là làm cho người đọc thêm
thấy rõ cảnh loạn thời Lê Trịnh. Thấy rõ là nhờ sự lủng củng của vần gây nên.
Khen như thế thật chẳng khác nào anh chồng si tình khen vợ mình nhờ chột một mắt mà


trở thành tuyệt thế giai nhân.


Chúng ta không nên theo hùa.


Thơ là tiếng của lịng (tâm chi thanh). Thơ phải có nhạc mới dễ truyền cảm. Mà VẦN là
một yếu tố quan trọng để tạo nhạc . Vậy chúng ta phải cố tránh những vần ép như những
vần trên đây. nếu không dùng được những vần chính thì nên dùng những vần Thông gần
nhau, cảng gần nhau bao nhiêu thì cảng quý bấy nhiêu.
Những Vần Thông gần nhau đi với nhữn vần sau đây :
Ai với Oai Ôi với Ơi – Ơi với Nơi – Au với Âu – Ay với Ây, Oay với IA – IA với Aya
-Ui với Uôi – YÊU với Êu , iêu, iu, Âm với Ăm - Ong với Ông hay Ung - Anh với Oanh,


ênh, inh, uynh - Yên với lên, Uyên ...v...v...



Chúng ta nên cẩn thận dùng những chữ đồng âm dị nghĩa như Trường là ruột và Trường
là dài, Trường là chỗ nhiều người tụ họp (hội trường, trường học....) Bên Hán tự thì mặt
chữ khác nhau, bên quốc ngữ thì khuôn giống nhau. Như thế bên Hán cũng như bên Việt
đều là những chữ đồng vận và đều là Vận Chính. Nhưng khơng nên dùng gần nhau vì
dùng gần nhau sẽ kém nhac, chẳng những kém mà còn hại là đằng khác :


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Thấy cảnh tình ai khỏi đoạn trường


Nghe thật không sướng tai !


Ðối với những tiếng đồng âm dị nghĩa trong thuần việt cũng thế. Nếu không để chúng ở
một “ đầu sông tương”, một ở “cuối sơng Tương” , như trong Thăng Long Thành Hồi
Cổ của bà Huyện Thanh Quan, thì ít ra phải để cách nhau ở một bến đị, nghĩa là có chen
một vần khác ở giữa . Ví dụ như bài Cảm Tác của T.X làm thời kỳ Ngơ Ðình Diệm :


Mấy chục năm qua gió bụi mờ


Tưởng rày bớt đục hóa thêm nhơ


Mặt đành bôi mặt gà chung mẹ


Tay sẵn ngon tay gió phất cờ


Ruột đứt non sơng trời Bến Hải


Sầu vương cây cỏ đất Cần Thơ


Ðêm Ðêm dưới nguyệt gươm mài hận


Ai nữa chung tay lật tế cờ ?



Nguyên tắc xếp vần về bên loại vần Trắc cũng như bên vần Bằng. Xin cử một bài thơ vần


trắc làm mẫu :


Vành mâm xơi đề thằng Lạc


Nghĩ mình ti tiện khơng đài các


Văn chương vốn thiệt bợm mèo quào


Danh phận không ra cái cóc rác


Bởi thế bơ phờ thẹn núi sơng


Dám đâu vúc vắc nhạo cô bác


các thầy nếu chẳng biết lịng cho


Trong có ơng thần ngồi cặp hạc


Học Lạc


Thơ bỏ vần trắc nghe không du dương, uyển chuyển nên làng thơ ít ham thích, nhiều thơ
vần trắc lưu truyền từ xưa đến nay khơng được bao lăm. Do đó các nhà thi học bảo rằng
luật chỉ dùng vần Bằng, những bài dùng vần Trắc dù cho đúng niêm luật vẫn thuộc về cổ
thể.


Thơ vần Bằng mà dùng chính vận cịn lưu truyền khơng ít . Xin trích một bài Mùa Nực
Mặc Áo Bông của cụ Tú Xương làm mẫu :



Bức sốt nhưng mình vẫn áo bơng.


Tưởng rằng ốm dậy, hố ra khơng!


Một tuồng rách rưới, con như bố


Ba chữ nghêu ngao, vợ chán chồng.


Ðất biết bao giờ sang vận đỏ,


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Gần chùa gần cảnh ta tu quách,


Cửa phận quanh năm sẵn áo sồng


Bài thơ Tặng Vợ (Thương Vợ) của ông Tú sau đây vần gieo cũng thât là sướng :


Quanh năm buôn bán ở mom sông ,


Nuôi đủ năm con với một chồng.


Lặn lội thân cò khi quãng vắng,


Eo xèo mặt nước buổi đò đông.


Một duyên hai nợ, âu đành phận,


Năm nắng mười mưa, dám quản cơng.


Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:



Có chồng hờ hững cũng như khơng


Vần bo đã dịn, tình lại thiết tha, giọng lại dí dỏm ! “Năm con với một chồng” có hai ý.
Một là sáu miệng ăn, hai là năm con đó do một ơng chồng sanh ra chớ khơng vì “bn
bán ở mom sơng” mà có nhiều con đâu ! Bà Tú mà nhận thấy cái hóm hỉnh này thì cũng
đấm cho ơng ba cái đấm lưng là ít. Rồi lại nói “có chồng hờ hững cũng như khơng” .
Cũng như khơng mà có đến năm con ! vậy nếu “khơng như khơng” thì bà Tú ni sao nổi
? Nội vẻ trào phúng kín đáo, và dễ thương đó, bài thơ cũng đủ có giá trị, huống cịn tình
tứ, cịn văn chương mà vần chỉnh tề chiếm một phần quan trọng.
Chúng ta đọc thêm bài Thu Cảm của Tương An Quận Vương, một bài thơ gieo vần cũng


thât khéo :


Bên cảnh bên tình khéo vấn vương


Sầu Thu đưa hạ chạnh trăm đường


Tiếng ve dày dặc nghe thêm thảm


Mặt nguyệt trịn hin ngó dễ thương


Vàng thếp giếng ngơ sa lá gió


Bạc xuy dậu cúc nảy chồi sương


Sầu chong trắng đĩa không yên giấc


Lăm phá thành sầu đã hết phương



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×