Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tim hieu 65 nam thanh lap Dang bo Gia Lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.64 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀI THI TÌM HIỂU 65 NĂM</b>


<b> NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG BỢ TỈNH GIA LAI</b>


<b>Câu 1. Bới cảnh ra đời và ngày tháng thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Đông </b>
<i><b>Dương tỉnh Gia Lai? Ý nghĩa của việc thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai?</b></i>


<b>Trả lời:</b>


<b>- Bối cảnh ra đời: </b>


Tỉnh Gia Lai ngày nay, đầu thế kỷ trước có tên gọi Pleiku. Nằm phía Bắc Tây
Ngun núi sơng hùng vĩ, giữ một vị trí chiến lược quan trọng ở miền Trung đất nước,
tỉnh Gia Lai có lịch sử lâu đời với nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc của đồng bào
Jrai, Bahnar, Kinh và nhiều dân tộc thiểu số khác cùng chung sống đoàn kết.


Trải qua lịch sử lâu dài chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu với
nhiều kẻ thù xâm lược, ghi bao chiến công oanh liệt đã hun đúc cho nhân dân trong tỉnh
truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam: lao động cần cù, sáng tạo trong dựng nước;
yêu quê hương đất nước, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giữ nước. Lịch sử
hoạt động và lãnh đạo các phong trào cách mạng trong tỉnh của Đảng bộ Gia Lai từ khi ra
đời đến năm 2005 đã trải qua hơn 60 năm. Trong chặng đường lịch sử vẻ vang đó, đã xuất
hiện biết bao tấm gương sáng chói về tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân, trung
thành vô hạn đối với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào, cán bộ, đảng viên nhiều thế hệ sinh
sống, sản xuất, chiến đấu và xây dựng trên vùng đất Gia Lai thân yêu. Những chặng
đường lịch sử của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh nhà đã trải qua là cả một chặng
đường biết bao gian khở hy sinh. Nhờ có Đảng, có Bác Hồ đã dẫn đường chỉ lối mà chúng
ta mới có cuộc sống ấm no, hạnh phúc như ngày nay.


Ngày 25-11-1945, chi bộ Đảng ở An Khê được thành lập gồm có 3 đảng viên do
đồng chí Đỗ Trạc làm Bí thư. Từ tháng 11 đến tháng 12-1945, các chi bộ công nhân


Biển Hồ, Bàu Cạn và một chi bộ trong lực lượng vũ trang của tỉnh (chi bộ trong chi đội
Tây Sơn) cũng lần lượt ra đời, nâng tổng số đảng viên trong tồn tỉnh lên 24 đồng chí.


Trước u cầu bức xúc, địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất và tập trung, ngày
<b>10-12-1945, Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai được thành lập, lấy</b>
tên là Đảng bộ Tây Sơn. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời gồm 5 đồng chí. Đồng
chí Phan Thêm, phái viên Xứ ủy làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Đường, Nguyễn Xuân,
Trần Ren, Phạm Thuần làm ủy viên Ban Chấp hành. Đây là Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ
tỉnh Gia Lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Câu 2: Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Gia Lai trải qua mấy kỳ Đại</b>
<i><b>hội ? Thời gian và địa điểm tổ chức các Đại hợi đó? Nêu tên các đồng chí Bí thư Tỉnh</b></i>
<i><b>uỷ qua các nhiệm kỳ từ khi thành lập Đảng bộ tỉnh đến nay? </b></i>


<b>Trả lời:</b>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần nhất</b>


<b>Ngày 21-2-1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần đầu tiên</b> được tở
chức tại Gị Cầy, thơn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê (Bình Định) có 50 đại
biểu, thay mặt cho các tổ chức cơ sở Đảng trong tồn Đảng bộ.


Bí thư: đồng chí Nguyễn Xuân được bầu làm Bí thư.


Để thống nhất và tăng cường sự chỉ đạo chiến trường Bắc Tây Nguyên, từ tháng
12-1949, Liên khu ủy có chủ trương và quyết định đề nghị cấp trên cho sáp nhập hai tỉnh
Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia - Kon. Đến đầu năm 1950, Chính phủ mới có quyết
định chính thức đơn vị hành chính tỉnh Gia - Kon. Các cơ quan Đảng, chính quyền, đồn
thể hai tỉnh hợp nhất, đi vào hoạt động.. Đến tháng 4-1950, Liên khu ủy mới chỉ định
Ban cán sự Đảng tỉnh và phân công đồng chí Nguyễn Xuân Nhĩ, Ủy viên Liên khu ủy


làm Bí thư Ban cán sự Đảng. Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh do cụ Nay Der làm
Chủ tịch, đồng chí Nay Phin làm Phó Chủ tịch.


Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu V, lần thứ II (7-1951) đặt nhiệm vụ cơng tác
vùng sau lưng địch là: Tích cực tranh thủ nhân dân địch hậu, kiên trì xây dựng cơ sở, tạo
điều kiện phát triển chiến tranh du kích, phá chính sách "bình định" của giặc.


Đồng chí Trịnh Huy Quang, Liên khu ủy viên được phân cơng làm Bí thư Ban cán
sự Đảng kiêm Chính ủy Mặt trận Miền Tây. Đồng chí Trương Quang Tuân, Liên khu ủy
viên được phân cơng về thay đồng chí Trịnh Huy Quang, làm Bí thư Ban cán sự Đảng
tỉnh Gia - Kon, kiêm chính ủy E 120. Đầu năm 1952, Đồng chí Trương An, Bí thư Ban
cán sự Đảng tỉnh kiêm Chính ủy E120.


Hội nghị Liên khu ủy lần thứ ba (10-1952) đồng chí Đỗ Hằng, Bí thư Ban cán sự
kiêm Chính trị viên Huyện đội An Khê và Ban chỉ huy Tiểu đoàn 30.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tháng 12-1959, tại Đak Hlôh (khu 2), Tỉnh ủy Gia Lai quyết định mở Hội nghị
đại biểu (được cấp trên chuẩn y như Đại hội), gồm 45 đại biểu được chỉ định từ các
Đảng bộ khu và chi bộ trực thuộc. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ từ sau
Hiệp định Giơnevơ (7-1954) đến cuối năm 1959 và đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 đồng chí (9 Tỉnh ủy viên chính
thức và 4 Tỉnh ủy viên dự khuyết) do đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Bí thư.
Tháng 9-1960, đồng chí Võ Trung Thành dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng, sau đó chuyển về Khu ủy V, đồng chí Phạm Chánh được chỉ định quyền Bí
thư Tỉnh ủy (sau là Bí thư).


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ hai</b>



<b>* Từ ngày 12 đến ngày 22-7-1965, tại xã Đak Kơpiar (khu 10), Đại hội đại</b>
<b>biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ hai được khai mạc. Tham dự Đại hội có 67 đại biểu chính</b>
thức, 20 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 2.321 đảng viên, 147 tổ chức cơ sở đảng trong
toàn Đảng bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ gồm 15 ủy viên (có 2 ủy viên dự
khuyết), trong đó có 5 ủy viên người dân tộc thiểu số. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng
chí, đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.


Tháng 11-1967, Hội nghị liên tịch giữa Đảng ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Tây
Nguyên với đại diện các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk thống nhất kế hoạch tởng
cơng kích và nổi dậy, bàn kế hoạch phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương, giữa tấn công và nổi dậy, thống nhất chỉ đạo, chỉ huy, thành lập Ban chỉ huy
mặt trận mỗi tỉnh. Tỉnh Gia Lai, Ban chỉ huy chung toàn tỉnh mang ký hiệu "Mặt trận
300" do đồng chí Nguyễn Văn Trân, Tham mưu phó Mặt trận Tây Ngun, làm Chỉ huy
trưởng; đồng chí Võ Trung Thành, Khu ủy viên khu V, Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III.</b>


<b>* Vào mùa thu 1969, từ ngày 5 đến ngày 14-8 tại làng Tengleng thuộc xã</b>
<b>Krong, khu 10 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III.</b> Tham dự Đại
hội có 110 đại biểu, đại diện cho trên 4.000 đảng viên của Đảng bộ. . Đại hội bầu Ban
Chấp hành Đảng bộ khóa III gồm 19 ủy viên (4 ủy viên dự khuyết), Ban Thường vụ
Tỉnh ủy gồm 6 đồng chí. Đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh
<i><b>ủy, 3 đồng chí được bầu làm Phó Bí thư là: Phạm Xong (Hồng), Ksor Ní (Ama Nhan),</b></i>
Kpă Thìn (Bơhâm).


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ V</b>



<b>Từ ngày 23 đến ngày 30-10-1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần</b>
<b>thứ V họp tại làng Salam Vir, xã Krong, khu 10. Dự Đại hội có 169 đại biểu thay mặt</b>
hơn 5.000 đảng viên tồn Đảng bộ.


Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa V gồm 27 ủy viên (có ba ủy viên dự
khuyết), bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí, đồng chí Trần Văn Bình được
<i><b>bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Ngày 19-4-1974, đồng chí Trần Văn Bình, một cán bộ lãnh đạo tận tụy bám sát
phong trào, bốn nhiệm kỳ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, là Khu ủy viên Khu V, sau một
thời gian đau nặng đã từ trần tại vùng căn cứ của tỉnh. Lễ tang đồng chí được tở chức
trọng thể tại căn cứ. Đồng bào, cán bộ vô cùng tiếc thương một cán bộ lãnh đạo luôn gần
gũi dân... Thường vụ Khu ủy V quyết định chỉ định đồng chí Ksor Ní làm Bí thư Tỉnh
<i><b>ủy. Cuối tháng 9-1975, Tỉnh ủy Gia Lai họp Hội nghị mở rộng có 21 đồng chí trong Ban</b></i>
Chấp hành và 40 cán bộ lãnh đạo các ngành tham dự. Hội nghị xem xét đánh giá tình
hình trong tỉnh năm 1975 và bàn những công tác cấp bách chuẩn bị hợp nhất với tỉnh
Kon Tum. Thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và Nghị quyết Khu ủy V về hợp nhất hai
tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Ban Chấp hành lâm thời Đảng
bộ Gia Lai - Kon Tum được Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa III) chỉ định gồm 39
Ủy viên. Đồng chí Trần Kiên (Nguyễn Tuấn Tài), Ủy viên Thường vụ Khu ủy V làm
<i><b>Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Phó Bí thư Thường trực</b></i>
Tỉnh ủy, các đồng chí Ksor Ní, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai và đồng chí Phan Quyết, Bí thư
Tỉnh ủy Kon Tum làm Phó Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum. Cuối năm 1976, Trung
ương quyết định bở sung đồng chí Rơchơm Thép (Ama Quang), Khu ủy viên làm Phó
Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI</b>


Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI có 295 đại biểu tham dự. Vịng một họp tại


Hội trường 19-5 thị xã Pleiku từ ngày 11-11 đến ngày 20-11-1976. Vòng hai của Đại hội
Đảng bộ họp tại trường Đảng tỉnh (nay là Trường Chính trị tỉnh Gia Lai) từ ngày 1-3
đến ngày 10-3-1977


Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 37 đồng chí (33 ủy viên chính
thức, 4 ủy viên dự khuyết). Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí, <i><b>đồng chí Nguyễn</b></i>
<i><b>Văn Sĩ, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương được bầu làm Bí thư Tỉnh</b></i>
<i><b>ủy. Đồng chí Y Pah (Y Một), Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương và đồng</b></i>
chí Võ Trung Thành (Năm Vinh), được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII</b>


* .Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII họp từ ngày 15 đến ngày
19-3-1983 tại Pleiku.. Dự Đại hội có 473 đại biểu chính thức thay mặt cho 13.199 đảng viên
của 564 tở chức cơ sở Đảng trong tồn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 45
đồng chí. Ban Thường vụ có 13 đồng chí. <i><b>Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ, Ủy viên Trung</b></i>
<i><b>ương Đảng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX</b> diễn ra từ ngày 21 đến ngày
29-10-1986 tại Pleiku. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX gồm 58 đồng chí.
Trong đó có 45 đồng chí ủy viên chính thức và 13 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hội nghị
Tỉnh ủy lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ
<i><b>(Ksor Krơn), Ủy viên Trung ương Đảng, được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai </b></i>
-Kon Tum. Các đồng chí Sơ Lây Tăng, Nguyễn Văn Tiềm, Ngơ Thành (Chinh) được bầu
làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.



<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (vòng II) từ ngày 20 đến ngày </b>
23-1-1992 tại Pleiku. Dự Đại hội có 209 đại biểu, đại diện cho 518 tổ chức cơ sở và 11.316
đảng viên. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Gia Lai khóa X gồm 41 thành viên.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ (Ksor Krơn)
<b>được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; hai đồng chí Nguyễn Duy Khanh và Nguyễn Hùng</b>
(Lê Tam) được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Đại hội diễn ra từ ngày 6 đến ngày</b>
10-5-1996 tại Pleiku., có 250 đại biểu tham dự thay mặt cho 12.582 đảng viên sinh hoạt,
công tác trong 575 tổ chức cơ sở đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Gia
Lai khóa XI gồm 47 ủy viên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 13 đồng chí. Đồng chí Lê Tam
<b>được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội bầu 13 đại biểu chính thức và hai đại biểu dự</b>
khuyết đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII</b>


* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII được tổ chức trọng thể từ
ngày 26 đến ngày 30-12-2000 tại Pleiku. Dự Đại hội có 300 đại biểu, đại diện cho
17.491 đảng viên, sinh hoạt tại 647 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XII (2001-2005) gồm 47 đồng
chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai khóa XII gồm 13 đồng chí; <b>đồng chí Ksor Phước</b>
<b>được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Đỗ Tiến Hồng, Nguyễn Vĩ Hà được</b>
bầu làm Phó Bí thư. Đại hội đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX của Đảng gồm 13 đại biểu chính thức và 1 đại biểu dự khuyết.



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII </b>Đảng bộ tỉnh. Đại hội
được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 12-12-2005 tại Pleiku, đúng vào dịp kỷ niệm 60 năm
ngày thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai. Dự Đại hội có 299 đại biểu đại diện cho hơn
23.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa
XIII gồm 49 đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIII gồm 13 đồng chí, đồng chí
<b>Hà Sơn Nhin được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X</b>
của Đảng, đồng chí Hà Sơn Nhin được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


<b>Câu 3 : Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức vào ngày tháng</b>
<i><b>năm nào? Địa điểm tổ chức Đại hội? Nêu nợi dung và ý nghĩa thư của Chủ tịch Hồ</b></i>
<i><b>Chí Minh gửi các dân tộc thiểu số miền Nam tại Đại hợi? </b></i>


<b>Trả lời:</b>


Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã tổ chức hai Đại hội các dân tộc
thiểu số ở hai miền Nam và Bắc: Ngày 19-4-1946, Đại hội các dân tộc thiểu số miền
<b>Nam được tổ chức tại thị xã Pleiku với hơn 1000 người tham dự, bao gồm đại biểu</b>
<b>các dân tộc Tây Nguyên và miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ và ngày 3-12-1946 tại</b>
Hà Nội.


Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất, được tổ chức tại Hà
Nội trong hai ngày vào trung tuần tháng 5-2010. Hội nghị sẽ khai mạc vào ngày 12
tháng 5 năm 2010.


<b>THƯ GỬI ĐẠI HỘI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ</b>
<b>MIỀN NAM TẠI PLÂY CU</b>


<i>Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số,</i>


Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ.



Tiếc vì đường sá xa xôi, tôi không đến dự được. Tôi tuy xa, nhưng lịng tơi và
Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.


Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba
Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.
Chúng ta sống chết có nhau, sướng khở cùng nhau, no đói giúp nhau.


Trước kia chúng ta xa cách nhau, một là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui
giục để chia rẽ chúng ta.


Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hội có đủ đại
biểu các dân tộc. Chính phủ thì có "NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ" để săn sóc cho tất cả
các đồng bào.


Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính
phủ ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta khơng bao
giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập
của chúng ta.


Xin chúc Đại hội thành công.


Lời chào thân ái


<i>Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 1946</i>
HỒ CHÍ MINH



<b>Câu 4 </b><i><b>: Đại hội lần thứ mấy của Đảng bộ tỉnh đề ra các nhiệm vụ phát triển</b></i>
<i><b>kinh tế - xã hợi, giữ vững q́c phịng an ninh theo đường lối đổi mới của Đảng. Nêu</b></i>
<i><b>nội dung trọng tâm của các nhiệm vụ ? </b></i>


<i><b>Trả lời:</b></i>


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (1996-2000). Đại hội đã xác định
năm 2000 là năm bản lề chuyển sang thế kỷ XXI; đồng thời là năm kết thúc kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000 mà Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh đã
đề ra. Việc thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế - xã hội đến năm 2000 có ý nghĩa quyết
định tạo thế và lực mới cho Gia Lai tự tin vững bước vào thế kỷ XXI. Do vậy, tại Hội
nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 16 (Khóa XI), Tỉnh ủy chủ trương tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy
nội lực nâng cao hiệu quả của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã
hội, an ninh quốc phòng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ các
giải pháp để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, phấn đấu tạo bước chuyển biến mạnh mẽ,
nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Tỉnh ủy cũng chủ trương
tiếp tục ưu tiên các nguồn lực đầu tư phát triển, nhất là phát triển nông nghiệp và nông
thôn. Chủ trương phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật ni phù
hợp với điều kiện về môi trường sinh thái của từng vùng với sự tham gia của mọi thành
phần kinh tế. Tập trung các nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi, giao thông nông thôn, điện
và các cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội. Khuyến khích thị trường nơng thơn phát triển…


<i><b>Nợi dung trọng tâm của các nhiệm vụ</b></i>


1 - Nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân
phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý của chính
quyền các cấp, nhân dân tham gia, Cơng an làm nịng cốt.


2 - Chủ động đởi mới các mặt công tác bám sát và phục vụ có hiệu quả việc thực


hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, dựa vào nhân dân để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.
3 - Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự phải giữ vững nguyên tắc,
đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, tranh thủ sự đồng thuận của mọi tầng lớp xã
hội và ủng hộ của quốc tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tình hình liên quan đến an ninh trật tự đang biến đổi nhanh chóng, khó lường, địi hỏi
phải nắm chắc tình hình, tiếp tục đổi mới chủ trương và giải pháp nhằm bảo vệ vững
chắc an ninh chính trị nội bộ, vơ hiệu hoá các hoạt động thâm nhập tác động chuyển hoá
nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh chống địch phá hoại tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác
bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin; bảo vệ bản sắc văn hố dân tộc trong q trình
hội nhập kinh tế quốc tế, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động ''diễn
biến hồ bình'', bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; đảm bảo an ninh trật tự ở các địa
bàn trọng điểm, ngăn chặn các loại tội phạm, hạn chế và từng bước loại trừ những nhân
tố gây mất ổn định, để trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ vững được an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa.


Để thực hiện thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng về nhiệm vụ
đảm bảo an minh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thời gian tới chúng ta cần tập
trung thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
<i>Một là, các cấp uỷ đảng cần tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền giáo dục, làm cho</i>
cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ về tầm quan trọng của công tác bảo vệ an
ninh, trật tự trong tình hình hiện nay, nâng cao cảnh giác cách mạng, xác định trách
nhiệm tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã
hội. Tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng và
Nhà nước trên lĩnh vực này. Đẩy mạnh giáo dục nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự trong
các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và phổ thông trung học; bồi dưỡng kiến thức về
công tác bảo vệ an ninh, trật tự cho cán bộ chủ chốt của Đảng, chính quyền, các ban,



ngành đồn thể ở cơ sở.


<i>Hai là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng</i>
với bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Tở chức tốt cơng tác nắm tình hình,
phát hiện và đấu tranh phòng, chống địch thâm nhập, tác động phá hoại nội bộ: Thực
hiện nghiêm những quy định về kỷ luật Đảng, nội quy bảo vệ cơ quan, bảo vệ bí mật nhà
nước. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với công tác xuất bản,
thơng tin, báo chí. Kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng ''đa ngun chính trị'', khơng


để hình thành tở chức chính trị đối lập.


<i>Ba là, tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn nữa sức mạnh tởng hợp của hệ thống</i>
chính trị. Xác định rõ vai trị, phạm vi trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, cơ quan Nhà
nước, các đồn thể quần chúng, tở chức kinh tế, tở chức xã hội trong cơng tác phịng
chống tội phạm, phịng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục hồn thiện và thực hiện có
kết quả các quy chế phối hợp giữa cơ quan chuyên trách với các ngành, các đoàn thể
trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; nhất là trong đánh giá, dự báo tình
hình, xây dựng và tở chức diễn tập phương án đối phó với các tình huống khủng bố, phá
hoại, gây rối, gây bạo loạn...


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

đồng bào ở vùng sâu, vùng xa... Giải quyết triệt để, kịp thời những mâu thuẫn, tranh
chấp, khiếu kiện trong nhân dân, nhằm tăng cường sự đồng thuận trong xã hội. Hoàn
thiện và thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về các quyền tự do dân chủ; đồng thời
kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tự do, dân chủ để phá hoại an ninh


quốc gia, trật tự an toàn xã hội.


<i>Năm là, chủ động tăng cường quan hệ hợp tác với các nước về công tác đảm bảo</i>
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng.
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan đối ngoại, tổ chức tốt công tác thông


tin tuyên truyền, chủ động đấu tranh với những luận điệu vu khống, xuyên tạc, chống
phá của các thế lực thù địch. Đẩy mạnh hợp tác với các nước trên lĩnh vực đấu tranh
phòng, chống khủng bố và các loại tội phạm.
<i>Sáu là, tiếp tục xây dựng kiện toàn các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ</i>
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội vững mạnh về mọi mặt. Nghiên cứu xây
dựng một tổ chức phù hợp, đủ mạnh để tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chỉ đạo tổ
chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Tiếp tục xây dựng lực lượng Công an
nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao
chất lượng, hiệu quả các mặt công tác, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn mới.


Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an tồn xã hội là nhiệm vụ của tồn Đảng,
tồn dân, có vị trí đặc biệt quan trọng. Để hồn thành nhiệm vụ đó chúng ta phải chủ
động phát hiện, đấu tranh ngăn ngừa mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, các
loại tội phạm, tạo mơi trường hồ bình, ởn định và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi
mới, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra.


<b>Câu 5 : Ông, bà, anh, chị hãy nêu phương hướng, nhiệm vụ tổng quát và</b>
<i><b>những mục tiêu chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII đề ra?</b></i>


<b>Trả lời:</b>


Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII<i><b> đã xác định mục tiêu chủ yếu</b></i>
của giai đoạn 2006-2015: Coi trọng phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng kết hợp
giữa mở rộng quy mô với nâng cao chất lượng cây trồng, vật nuôi, phát triển mạnh thủy
lợi; đồng thời chuyển trọng tâm đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ mà hướng
đột phá là thủy điện, chế biến nông lâm sản, các ngành dịch vụ có lợi thế so sánh gắn với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo việc làm, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số1<sub>.</sub>



Đại hội cũng đã xác định mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 2006-2010; đồng thời
nêu lên những định hướng và giải pháp phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ
yếu; văn hóa xã hội; xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh.


Để thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII đặt ra, Gia Lai
sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Ưu tiên tăng nguồn lực đầu tư nhằm phát huy lợi thế của những ngành, những
lĩnh vực quan trọng như thủy điện, chế biến nông thổ sản, chăn nuôi; gắn phát triển vùng
nguyên liệu với giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ. Tập trung đầu tư và có chính
sách hỗ trợ đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào phát triển giao thông, thủy lợi phục vụ sản
xuất.


- Ban hành các cơ chế chính sách thơng thống để thu hút đầu tư liên doanh, liên
kết với các địa phương trong và ngoài nước; trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính,
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đạo đức cách mạng trong sáng, giỏi về chuyên
môn, nghiệp vụ.


- Phát triển kinh tế đi đơi với ưu tiên giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức
xúc như xóa đói, giảm nghèo; giải quyết đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tộc
thiểu số thuộc diện đói nghèo; kiên cố hóa trường học...


- Tiếp tục củng cố và tăng cường sức chiến đấu của hệ thống chính trị cơ sở, đề
cao vai trị lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của các cấp ủy Đảng. Huy động sức mạnh của cả
hệ thống chính trị để giữ vững ởn định chính trị, nhất là những địa bàn trọng điểm, kiên
quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch.


- Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chương trình của
các cấp ủy và chính quyền.



<i><b>Câu 6: Ông bà, anh, chị hãy nêu những cảm nghĩ của mình về truyền thớng</b></i>
<i><b>lịch sử và vai trị lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Gia Lai qua 65 năm đấu tranh, xây dựng</b></i>
<i><b>và phát triển; đồng thời hiến kế để xây dựng tỉnh Gia Lai ngày càng giàu đẹp?</b></i>


</div>

<!--links-->

×