Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Bình giảng về đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.61 KB, 6 trang )

Đề bài: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên: Nhớ
bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ... Tình u làm đất lạ hóa quê hương
Bài làm
Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trong phong trào Thơ mới. Nếu trước Cách
mạng, tác giả đã từng viết:
Với tôi tất cả đều vô nghĩa
Tất cả khơng ngồi nghĩa khổ đau
và ơng đã từng mong có được một "tình cầu giá lạnh" để ẩn thân trốn tránh mọi đau khổ, thì
sau cách mạng, trong sự đổi mới của đất nước, của nhân dân, nhà thơ đã làm một cuộc hóa
thân kì diệu tìm về với nhân dân và cũng là với chính mình. Tiếng hát con tàu chính là tiếng
thơ tiêu biểu cho sự đổi mới ấy của thơ Chế Lan Viên. Bài thơ là khúc ca say mê rạo rực và
lãng mạn của một hồn thơ đang tìm đến "cánh đồng vui". Nó tiêu biểu cho phong cách thơ
Chế Lan Viên vừa trữ tình, lãng mạn, vừa đậm chất triết lý, giàu chất trí tuệ. Trong khúc hát
ấy, hay nhất, dễ thuộc, dễ nhớ nhất có lẽ là đoạn thơ:
... Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đơng về nhớ rét
Tình u ta như cánh kiến hoa vàng.
Như xn đến chim rừng lơng trở biếc
Tình u làm đất lạ hóa quê hương...
Bài thơ ra đời trong những năm tháng miền Bắc đang bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.


Đất nước đang rất cần những con người đi khai phá vùng đất mới xây dựng kinh tế. Các văn
nghệ sĩ cũng đang tự vượt mình để đi tới "cánh đồng vui", nhằm góp sức xây dựng đất nước.
Chế Lan Viên cũng vậy, ông đang cùng con tàu tâm hồn của mình tìm về với nhân dân, với
cảnh vật Tây Bắc, với cuộc sống bình dị mà đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng thơ
ông. Trên con tàu trong cuộc hành trình ấy, Chế Lan Viên đã nhớ lại, gặp lại những con
người, những cảnh vật Tây Bắc thân thương. Ơng nhớ những con người bình dị, những anh


du kích, những em liên lạc, những chị ni qn và cả người mế già đầy tình nghĩa. Tất cả đã
trở thành sợi dây thiêng liêng nối kết nhà thơ với mảnh đất này:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Thường trực trong tâm hồn nhà thơ là nỗi nhớ, một nỗi nhớ khơng "chơi vơi" như Quang
Dũng mà nó là một nỗi nhớ rất cụ thể. Cảnh vật Tây Bắc hiện lên thật đẹp, thật hùng vĩ.
Những ngọn núi, những sườn đèo, những áng mây, tất cả đều rất tự nhiên đi vào thơ ông,
sống động và đẹp đến diệu kỳ. Nhớ con người rồi nhớ đến mảnh đất, nỗi nhớ của nhà thơ đi
từ cái nhỏ đến cái lớn, từ chi tiết đến tổng thể. Ông nhớ đất Tây Bắc bởi vì đó là nơi những
con người nhân nghĩa thủy chung đang sống. Và kia, cảnh vật Tây Bắc vẫn còn đó, vẫn ẩn
hiện thấp thống trong sương khói mây ngàn. Sương khói ở đây, có lẽ cũng chính là sương
khói của hoài niệm, của nỗi vấn vương lưu luyến trong lịng nhà thơ về một Tây Bắc ân tình
thủy chung. Vì thế cho nên:
Nơi nào qua lịng lại chẳng u thương?
Câu thơ là một sự thực của tình cảm con người tuy rất giản dị nhưng sâu sắc mà thấm thìa.
Câu thơ như là minh chứng cho sự thật, một sự thật được rút ra từ chính sự trải nghiệm thấm
thía của nhà thơ. Hai câu thơ với đơi ba hình ảnh, tuy ngắn gọn nhưng gợi thật nhiều, thật
sâu sắc, là cái gì đó cụ thể, là điểm tựa để nhà thơ viết tiếp hai câu thơ tuyệt bút:
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Rõ ràng từ nghĩa thực, nghĩa cụ thể, nỗi nhớ Tây Bắc, nhà thơ đã nâng lên thành nghĩa khái


quát tượng trưng.
Đất là nơi ta đến và cũng là nơi ta ở với bao kỉ niệm buồn vui, bao nghĩa tình sâu nặng. Đất
là nơi chứng kiến và ghi nhận tồn bộ những hành động những cơng việc, những niềm vui,
nỗi buồn, và có khi là tồn bộ cuộc đời của một con người. Mảnh đất cũng như "con người",
cũng sinh ra, cũng sống rồi cũng chết nhưng đất là một "con người câm". Nó chỉ nhìn, chỉ
nắm bắt, chỉ phát sinh ra sự sống nhưng nó khơng thể nói thành lời. Có lẽ chính vì vậy mà
trong cuộc sống bươn chải hằng ngày, mấy người chúng ta nghĩ tới đất và tình yêu với mảnh

đất mình sống cũng bị bỏ qua. Nhưng rồi, một ngày ta đi xa, ta trở thành người của một vùng
đất khác thì ta sẽ thấy đất hóa thành ngọc thành vàng. Nó trở nên cao q và đáng trân trọng,
bởi vì tồn bộ mảnh đất ấy được bao bọc bởi kỉ niệm. Mảnh đất Tây Bắc, nơi ta sống những
ngày gian khổ, nơi cái chết và sự sống khơng có ranh giới lại càng đáng nhớ đáng trân trọng
hơn. Có lẽ chính vì thế mà hai câu thơ chứa chan, tràn đầy tình cảm yêu thương.
Khi ta ở, đất chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn
Quả đúng là khi ta ở thì đất chưa hóa tâm hồn. Nhưng lẽ nào vườn rau, bụi chuối, căn nhà,
tiếng chim... không đọng lại chút gì trong tâm hồn ta, khơng đáng để ta biến nó thành tâm
hồn? Q trình để đất thành hồn là cả một quá trình vận động của tiềm thức. Khi kỉ niệm
lắng sâu vào kí ức, khi khách thể hòa nhập vào chủ thể, khi sự sống bên ngồi được soi bóng,
được in dấu vào đời sống của mỗi người thì nó sẽ trở thành một phần của cuộc đời, sẽ thành
một mảng tâm hồn theo ta trong cả cuộc đời. Lúc chúng ta nhận ra đất "hóa tâm hồn'' cũng
chính là lúc chúng ta xa đất. Quả thực, Chế Lan Viên đã rất tinh tế và tài tình khi nhận ra
được quá trình vận động phức tạp mà mãnh liệt ấy, lại càng tài tình hơn khi ơng đưa được nó
vào thơ, làm cho nó trở thành linh hồn của bài thơ, trở thành một triết lý. Đó cũng là nét độc
đáo, nét rất riêng của thơ Chế Lan Viên.
Có nhiều người khơng biết vơ tình hay hữu ý đã thay chữ "dã" trong câu thơ: "Khi ta đi, đất
đã hóa tâm hồn" thành chữ "bỗng". Quả thực chữ "bỗng" gợi cho ta một cảm giác mạnh hơn
nhưng sao nó có vẻ bột phát và tức thì làm vậy. Ca dao Việt Nam có câu:
Cầm lược thì nhớ tới gương


Cầm khăn nhớ áo, nằm giường nhớ nhau
Phải có gương, lược, khăn, áo rồi mới nhớ nhau. Đó là cả một quá trình thay đổi từ từ trong
tâm lý của một con người chứ đâu có bột phát. Là một "kĩ sư tâm hồn", Chế Lan Viên đã
nắm chắc được quy luật ấy vì vậy ơng đã chọn chữ "đã". "Đã" gợi đến cả một q trình, nó
dần dần, sâu lắng, thủ thỉ, thấm dần thấm dần cô đúc dần thành tâm hồn để rồi khi đi xa, thì
ta nhận ra "đất đã hóa tâm hồn". Chữ "đã" đắt hơn chữ "bỗng" chính là ở chỗ đó. Quả thực,
nghệ thuật chọn từ ngữ của Chế Lan Viên đã trở thành bậc thầy, không câu nào thừa, không

từ nào thừa, dù chỉ là một chữ, khơng chữ nào có thể đổi chỗ cho nhau và cũng như khơng
chữ nào có thể thay cho chữ "đã" trong câu trên. Quả thực Chế Lan Viên đã:
... trả chữ với giá cắt cổ
Như khai thác chất hiếm (radium)
Lấy một gam phải mất hàng năm lao lực
Lấy một chữ phải mất hàng tấn quặng ngôn từ
(Malakơpxki)
Đó có lẽ nào khơng phải là một phong cách, một nghệ thuật độc đáo của thơ Chế Lan Viên.
Hai câu thơ như một phát điện, một triết lý về quy luật tình cảm mà khơng khơ khan, giáo
huấn vì nó được rút ra từ sự rung động của trái tim, kết tinh từ sự sống, tình cảm của chính
tác giả. Có lẽ chính vì thế mà người đọc u thơ ơng, thích đọc thơ ơng.
Mạch thơ tiếp theo là sự suy ngẫm về tình yêu và miền đất lạ.
Anh bỗng nhớ em như đơng về nhớ rét
...
Tình u làm đất lạ hóa quê hương
Bốn câu thơ lấp lánh màu sắc rực rỡ, xôn xao của sự sống. Tâm trạng nhà thơ như rung động
mơ hồ trong thế giới đầy ắp tình yêu và căng tràn nhựa sống. Nhà thơ bỗng nhớ đến em, nhớ


đến tình yêu thủy chung đậm đà. Trên con tàu tìm về quê hương lại nhớ đến người yêu, lãng
mạn quá, tươi đẹp quá. Nhưng đúng như mọi bài thơ khác của Chế Lan Viên, như phong
cách nghệ thuật của thơ ơng, trong cái lãng mạn bao giờ cũng có một triết lý sâu sắc. Nói tới
nỗi nhớ trong tình yêu lãng mạn giữa anh và em, nhà thơ ví với những quy luật đất - trời
"đông về nhớ rét", với cái gần gũi của tình yêu "như cánh kiến hoa vàng" và vẻ đẹp của tình
yêu thì như "xuân đến chim rừng lông trở biếc". Mỗi sự vật hiện tượng chỉ tồn tại và sinh
thành được trong mối quan hệ với sự vật và hiện tượng khác. Tình yêu cũng vậy. Nó sinh ra
trong cuộc sống, trong lao động chiến đấu và trong cả những cuộc gặp mặt hằng ngày. Có
tình u là có sự sống và có sự sống là có tình u, chúng khăng khít và gắn chặt như mùa
đông với giá lạnh. Dùng hai sự vật đối lập nhau: tình u và giá lạnh, mùa đơng và sự sống,
quả thực Chế Lan Viên đã rất tài tình, rất tinh tế. Nhà thơ đã so sánh rất đúng và rất trúng. Và

rồi ông reo lên khi phát hiện ra một quy luật nữa của tình yêu, một chân lí nữa của cuộc
sống:
Tình u làm đất lạ hóa quê hương
Các cụ ta thường nói "Đất lành chim đậu", con người cũng vậy ln tìm nơi n ổn thanh
bình để sinh sống, làm ăn. Và hình như nơi đâu có tình u nơi đó có sự sống. Tình u là
cái gì đó rất cao cả, nó nhân đạo hóa con người, làm cho cuộc sống trở nên gắn bó thân
thương:
Tình u làm đất lạ hóa q hương
Câu thơ như một mệnh đề ngắn gọn mà cô đúc, thật giản dị nhưng cũng thật cao cả. Ý nghĩa
của câu thơ khơng bó hẹp trong tình u nam nữ, lứa đơi mà đó chính là tình u của con
người với con người, con người với đất nước, quê hương, ở đâu thắm thiết tình người thì ở
đó là q hương. Đó có lẽ chính là ý nghĩa sâu xa của câu thơ.
Rõ ràng khổ thơ là sự kết hợp hài hòa nhuần nhị giữa chất trữ tình bay bổng và triết lý sâu
sắc, thâm thúy.
Cũng là triết lý, nhưng triết lý của Chế Lan Viên không giống Huy Cận, cũng không giống
Tố Hữu. Chế Lan Viên có một nét gì đó rất riêng, rất hiện đại. Những triết lí của ơng khơng
q cao siêu rộng lớn, nó chỉ là những triết lý nhỏ nhưng quan trọng của tâm hồn con người,


nó rất sống, rất gần gũi và rất dễ đi vào lịng người. Và vì thế, thơ ơng ai cũng có thể đọc
được, ngâm nga cũng được, bình phẩm cũng được. Nhưng để hiểu sâu, hiểu kĩ thì thật khó
khăn. Sự kết hợp cảm xúc trữ tình và suy tưởng, nâng cao cảm xúc thành những suy nghĩ
triết lí là thành cơng của đoạn thơ này. Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên thường mới lạ, độc
đáo, tạo nên bởi những liên tưởng so sánh thông minh, tài hoa sáng tạo đó là thế mạnh của
ngịi bút Chế Lan Viên. Phát huy thế mạnh ấy, nhà thơ đã kết lên hàng chùm những câu thơ,
những hình ảnh đặc sắc vừa gần gũi dung dị, lại vừa sâu lắng cao cả. Cái tài trong năng lực
dùng từ, sáng tạo hình ảnh của nhà thơ không lấn át mà lại càng tôn lên cái tình của nhà thơ
đối với đất nước, đối với .con người tạo nên một ấn tượng thẩm mĩ độc đáo đầy cá tính. Tất
cả thành cơng đó đã tạo nên một phong cách nghệ thuật độc đáo nhất, vừa trữ tình sâu lắng
vừa giàu chất trí tuệ suy tưởng - phong cách Chế Lan Viên.




×