Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giầu, là nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra giá trị thăng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.72 KB, 12 trang )

Phần mở đầu
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và người lao động là
mối quan hệ cơ bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả quan hệ của xã hội đó.
Giá trị thặng dư, phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra
ngoài sức lao động và bị nhà tư bản chiếm khơng do bóc lột sức lao động.
Giá trị thặng dư do lao động không công của người công nhân làm thuê
sáng tạo ra là nguồn gốc làm giầu của các giai cấp các nhà tư bản, sản xuất
ra giá trị thặng dư trước hết nhà tư bản tạo ra một giá trị sử dụng nào đó vì
giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư .Toàn bộ hoạt động của
nhà tư bản hướng đến, đó là tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối
và giá trị thặng dư tương đối.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá
trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư.
Vì vậy C. Mác viết “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất
hàng hoá.”


1. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản.
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định.
Nhưng bản thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi
được sử dụng để bóc lột lao động của người khác để tạo ra giá trị thặng dư.
Nếu tiền được dùng để mua hàng hố thì chúng là phương tiện giản
đơn của lưu thơng hàng hố và vận động theo cơng thức: Hàng- Tiền- Hàng
(H-T-H), nghĩa là sự chuyển hoá của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại
chuyển hoá thành hàng. Còn tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo
cơng thức: Tiền- Hàng- Tiền (T-H-T), tức là sự chuyển hoá tiền thành hàng
và sự chuyển hoá ngoặc lại của hàng thành tiền. Bất cứ tiền nào vận động
theo cơng thức T-H-T đều được chuyển hố thành tư bản.
Do mục đích của lưu thơng hàng hố giản đơn là giá trị sử dụng nên
vịng lưu thơng chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có


được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của tiền
tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là
giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì q trình vận
động trở nên khơng có giá trị gì. Do vậy số tiền thu phải lớn hơn số tiền đã
ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó
T’=T+ T. T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị
thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá
trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn lên của
giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là khơng có giới hạn vì sự lớn lên
của giá trị là khơng có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thông theo công
thức T-H-T’, do đó cơng thức này được gọi là cơng thức chung của tư bản.
Tiền ứng trước, tức là tiền đưa vào lưu thông, khi trở về tay người chủ
của nó thì thêm một lượng nhất định (T). Vậy có phải do bản chất của lưu


thơng đã làm cho tiền tăng thêm, và do đó mà hình thành giá trị thặng dư hay
khơng?
Thật vậy trong lưu thơng nếu hàng hố được trao đổi ngang giá thì chỉ
có sự thay đổi hình thái của giá trị, còn tổng số giá trị, cũng như phần giá trị
thuộc về mỗi bên trao đổi là không đổi. Về mặt giá trị sử dụng trong trao đổi
của hai bên là khơng có lợi gì. Như vậy, khơng ai có thể thu được từ lưu
thông một lượng lớn hơn lượng giá trị đã bỏ ra (Tức là chưa tìm thấy T).
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản khơng có bất kỳ một nhà tư bản
nào chỉ đóng vai trị là người bán sản phẩm mà lại không phải là người mua
các yếu tố sản xuất. Vì vậy khi anh ta bán hàng hố cao hơn giá trị vốn có
của nó, thì khi mua các yếu tố sản xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng
bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi
mua. (Cuối cùng vẫn không tìm thấy nguồn gốc sinh ra T)
Nếu hàng hố được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ

được lợi khi là người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là
người bán. Như vậy việc sinh ra T không thể là kết quả của việc mua hàng
thấp hơn giá trị của nó.
Vậy trong lưu thơng khơng thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy
khơng thể là nguồn gốc sinh ra T
ở ngồi lưu thơng Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ:
Đối với hàng hố ngồi lưu thơng: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng
hay sử dụng và sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử
dụng và giá trị của sản phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngồi lưu thơng là tiền tệ nằm im một
chỗ. Vì vậy khơng có khẳ năng lớn lên để sinh ra T.
Vậy ngồi lưu thơng khơng thể xuất hiện từ lưu thơng và cũng khơng
thể xuất hiện ở bên ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thơng và


đồng thời khơng phải trong lưu thơng. Đó là mâu thuẫn công thức chung của
tư bản.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra
rằng: ở trong lưu thơng người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người
có một thứ hàng hoá đặc biệt đem bán. Mà thứ hàng hoá đó khi đem đi tiêu
dùng hay sử dụng nó có bản tính sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân nó, hàng hố đặc biệt đó chính là sức lao động.
2. Sự chuyển hố sức lao động thành hàng hoá.
Số tiền chuyển hoá thành tư bản không thể tự làm tăng giá trị mà phải thơng
qua hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là hàng hoá đặc biệt
mà giá trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng
hố đó là sức lao động mà nhà tư bản tìm thấy trên thị trường.
Khơng phải bao giờ sức lao động cũng thành hàng hoá, mà sức lao
động chỉ biến thành hàng hoá trong những điều kiện lịch sử nhất định.
C.Mác nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hố khi có đủ hai

điều kiện tiền đề sau:
Một là: Người lao động phải được tự do về thân thể. Sức lao động chỉ
xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hố, nếu nó do bản thân người
có sức lao động đưa ra bán. Vậy người lao động phải được tự do về thân thể,
có quyền sở hữu sức lao động của mình thì mới đem bán sức lao động được.
Trong các xã hội nô lệ và phong kiến, người nô lệ và nông nô khơng thể bán
sức lao động được vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô hay chúa phong
kiến. Do đó việc bán sức lao động thành hàng hố địi hỏi thủ tiêu chế độ nô
lệ và nông nô.
Hai là: Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Nếu chỉ có
điều kiện người lao động được tự do về thân thể thì chưa đủ điều kiện để
biến sức lao động thành hàng hóa được. Vì nếu người lao động được tự do


về thân thể mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hố và bán
hàng hố mình sản xuất ra chứ khơng phải bán sức lao động. Vì vậy muốn
biến sức lao động thành hàng hố thì người lao động phải là người khơng có
tư liệu sản xuất, chỉ trong điều kiện ấy người lao đơng mới bán sức lao động
của mình vì họ khơng có cách nào khác để kiếm sống.
Do đó sự tồn tại hai điều kiện nói trên tất yếu biến sức lao động thành
hàng hoá sức lao động biến thành hàng hoá là điều kiện quyết định để biến
thành tư bản. Sức lao động biến thành hàng hoá là nhân tố đánh dấu một giai
đoạn mới trong sự phát triển của sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Sự
cưỡng bức bằng các biện pháp phi kinh tế trong chế độ nô lệ và chế độ
phong kiến được thay bằng hợp đồng mua bán bình đẳng về hình thức giữa
người sở hữu tư liệu sản xuất.
3. Nhà tư bản đã sử dụng sức lao động để tạo ra giá trị thặng dư.
Trước hết ta nên tìm hiểu xem thế nào là sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực tồn tại trong một con người và
được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hố.

Mục đích của sản xuất hàng hoá TBCN là tạo ra giá trị thặng dư.
Tìm hiểu về nguồn gốc của giá trị thặng dư. Có thể thấy rằng giá trị
thặng dư khơng thể nào tìm thấy được ở ngay trong hoạt động mua và bán
và càng khơng thể tìm thấy ở ngay trong bản thân tiền tệ. Vậy phải đi tìm
nguồn gốc giá trị thặng dư ở bản thân hàng hố. Như vậy thì nhà tư bản phải
tìm được trên thị trường món hàng hố nào mà thuộc tính của nó là đẻ ra giá
trị thặng dư món hàng ấy đã thực sự tồn tại. Đó là sức lao động của những
người vơ sản đi làm thuê khác với hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động là
nguồn đẻ ra giá trị, giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó.
Cũng như những hàng hố khác, hàng hố- sức lao động cũng có hai
thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.


Giá trị của hàng hoá- sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh
hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân. Những yếu tố tinh thần, dân
tộc, tơn giáo của người cơng nhân, những chi phí đào tạo người cơng nhân.
Giá trị hàng hố sức lao động giống giá trị hàng hố thơng thường
khác ở chỗ: Nó phản ánh một lượng hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng
giữa chúng có sự khác nhau cơ bản: Giá trị của hàng hố thơng thường biểu
thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hoá nhưng hàng hố sức lao
động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những
vật phẩm tiêu dùng để ni sống người cơng nhân. Cịn hàng hố sức lao
động ngồi yếu tố vật chất, nó cịn có yếu tố tinh thần, yếu tố gia đình, nghề
nghiệp mà hàng hố thơng thường khơng có.
Cũng giống như các hàng hố thơng thường, hàng hố sức lao động có
khả năng thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng
giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động có thuộc tính đặc biệt: nó khác với
hàng hố thơng thường ở chỗ khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì khơng
những khơng bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà
ngoặc lại nó lại tạo ra một lượng giá trị mới c+ m (c+ m > v, với v là giá trị

sử dụng của bản thân nó). Khoản lớn lên được sinh ra trong quá trình sử
dụng sức lao động chính là thay giá trị thặng dư. Giá trị thặng dư là giá trị
mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do người công nhân sáng tạo ra. Đó
chính là kết quả lao động khơng cơng của người cơng nhân cho chủ nghĩa tư
bản. Vì người cơng nhân làm thuê cho nhà tư bản cũng tức là đem sức lao
động của mình bán cho nhà tư bản trong một thời gian nhất định. Nhà tư bản
sau khi đã mua sức lao động rồi đem tiêu dùng món hàng đặc biệt ấy. Họ bắt
người công nhân phải lao động để sản xuất lao động mà người công nhân
sáng tạo ra giá trị và giá trị này tất nhiên thuộc về nhà tư bản, giá trị bản thân
sức lao động được chủ tư bản trả bằng lương. Lương chính là biểu hiện bằng


tiền của sức lao động. Chế độ tiền lương hà khắc trong xã hội tư bản dựa
trên tăng cường độ lao động của người công nhân nhằm thu được nhiều
thặng dư bóc lột cơng nhân nhiều hơn. Chính vì vậy mặc dù nhà tư bản vẫn
trả đủ giá trị sức lao động nhưng cơng nhân vẫn bị bóc lột.
Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá- sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá
trị hơn thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động
càng đem tiêu dùng hay sử dụng thì người cơng nhân hay người lao động
càng tích luỹ được kinh nghiệm nghề nghiệp, càng nâng cao năng xuất lao
động. Do đó sẽ giảm giá trị hay mức tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho họ.
Vì vậy, dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản rất ưu thích loại hàng hố đặc
biệt này.
Vậy q trình người cơng nhân tiến hành lao động là quá trình sản
xuất ra hàng hố và đồng thời là q trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân giá trị sức lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư
mà nhà tư bản đã chiếm đoạt.
Để hiểu rõ quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Em lấy một ví dụ về
việc sản xuất sợi của một nhà tư bản. Nó là sự thống nhất giữa quá trình sản
xuất ra giá trị sử dụng và quá trình lớn lên của giá trị hay là quá trình sản

xuất ra giá trị thặng dư.
Nhà tư bản dự kiến kéo 10kg sợi. Giá 1 kg bông là 1 đôla; hao mịn
thiết bị máy móc để kéo 5 kg bơng thành 5 kg sợi là 1đôla: tiền thuê sức lao
động 1 ngày là 4 đôla: giá trị mới 1h lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ
cần 4h người công nhân kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.

Tư bản ứng trước

Giá trị của sản phẩm mới


Lao động cụ thể của công
Giá 10 kg bông

10kg

nhân bảo tồn và chuyển giá

10 đôla

trị 10 kg bông vào 10 kg sợi
Hao mịn máy móc

Tiền th sức lao động

2 đơla

4 đơla

trong một ngày

Tổng chi phí sản xuất

Khấu hao TSCĐ

Giá trị mới do 8h lao động

2 đôla

8 đôla

của người công nhân tạo ra
16 đôla

Tổng doanh thu

20 đôla


Kết luận

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là sản xuất ra giá
trị sử dụng, mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi
giá trị thặng dư bằng bất cứ thủ đoạn nào là mục đích, động cơ thúc đẩy sự
hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Sản xuất
giá trị thặng dư quả thực là động lực vận động của phương thức tư bản chủ
nghĩa. C. Mác viết “Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm giầu, là
nhân giá trị lên, làm tăng giá trị, do đó bảo tồn giá trị trước kia và tạo ra
giá trị thăng dư .”
Để sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa, các nhà tư bản tăng cương bóc
lột cơng nhân làm thuê không phải bằng cưỡng bức siêu kinh tế mà bằng

cưỡng bức kinh tế dựa trên cơ sở mở rộng sản xuất, phát triển kỹ thuật để
tăng năng suất lao động, tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động
của công nhân làm thuê để chủ tư bản hưởng phần giá trị mới dơi ra ngồi
giá trị sức lao động đó là phần giá trị thặng dư.
Bài viết của em cịn nhiều thiếu xót. Em kính mong thầy (cơ) đóng
góp ý kiến để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy (cô):






×