GS. TSKH. NGUYỄN VĂN HỘ
PGS.TS. HÀ THỊ ĐỨC
GIÁO DỤC HỌC ĐẠI CƯƠNG
TẬP HAI
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC - 2002
1
PHẦN THỨ BA
LÍ LUẬN GIÁO DỤC
Lí luận giáo dục là một chuyên ngành của Giáo dục học. Đó
là một hệ thống lí luận về tổ chức quá trình giáo dục (theo nghĩa
hẹp) nhằm góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển
nhân cách toàn diện cho thế hệ trẻ. Hệ thống lí luận này bao
gồm những vấn đề cơ bản về bản chất, quy luật, các đặc điểm
của quá trình giáo dục; về những nguyên tắc và phương pháp
giáo dục; về nội dung và các hình thức tổ chức các loại hình
hoạt động phong phú, đa dạng nhằm đạt hiệu quả giáo dục tối
ưu. Sau đây, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu những vấn đề đó.
CHƯƠNG XIV
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC (Theo nghĩa hẹp)
I - Khái niệm và cấu trúc của quá trình giáo dục
1. Khái niệm quá trình giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt; Một quá trình,
trong đó: Dưới tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương
pháp của người giáo viên, với tư cách là nhà giáo dục, nhà sư
phạm,học sinh tự giác, tích cực tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn
luyện nhằm hình thành thế giới quan và những phẩm chất nhân
2
cách tốt đẹp của người công dân tương lai.
Như vậy, trong quá trình giáo dục, giáo viên giữ vai trò chủ
đạo trong việc tổ chức, điều khiển hoạt động giáo dục đối với
học sinh. Vai trò chủ đạo của người giáo viên thể hiện đậm nét
trong việc cụ thể hóa, mục đích, mục tiêu giáo dục, xác định nội
dung cần phải giáo dục và giáo dục như thế nào, bằng những
phương pháp, phương tiện và những hình thức giáo dục nào cho
phù hợp. Điều đó cần được cụ thể hóa, chi tiết hóa trong chương
trình, kế hoạch, trong hoạt động tổ chức giáo dục học sinh. Quá
trình giáo dục không phải chỉ có tác động một chiều mà là tác
động hai chiều, tác động song phương. Người học sinh trong
quá trình giáo dục không phải chỉ tiếp thu ảnh hưởng, tác động
từ phía giáo viên mà chính bản thân họ cũng thường xuyên tiến
hành hoạt động cá nhân, tự giác, tích cực, chủ động tự giáo dục
để từng bước hoàn thiện phẩm chất nhân cách của mình.
Do đó, trong quá trình giáo dục diễn ra sự tác động qua lại,
thường xuyên, tích cực giữa chủ thể - nhà giáo dục và đối tượng
của quá trình giáo dục là học sinh, vừa là khách thể, vừa là chủ
thể tự giáo dục. Đó là mối quan hệ tương tác giữa giáo viên và
học sinh giữa chủ thể và khách thể, giữa nhà giáo dục và người
được giáo dục trong hoạt động giáo dục. Nếu không có sự tác
động qua lại đó thì chính bản thân quá trình giáo dục sẽ không
tồn tại, không có quá trình giáo dục theo đúng nghĩa của nó. Nói
cách khác trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự tác động qua
lại tích cực và sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động giáo dục
và hoạt động tự giáo dục.
2. Cấu trúc của quá trình giáo dục
Theo cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc, quá trình giáo dục tồn
3
tại như là một hệ thống toàn vẹn bao gồm các nhân tố cơ bản
sau:
a) Mục đích và nhiệm vụ giáo dục
Mục đích và nhiệm vụ giáo dục phản ánh yêu cầu của sự tiến
bộ xã hội và sự phát triển của khoa học, kinh tế, chính trị… Nó
đòi hỏi sự nghiệp giáo dục phải đào tạo những người công dân
tương lai có phẩm chất nhân cách, có hành vi thói quen đáp ứng
yêu cầu, chuẩn mực về đạo đức, lao động, thể chất và thẩm mĩ
do xã hội quy định, giúp họ có khả năng hòa nhập và thích ứng
một cách năng động, sáng tạo với cuộc sống đang đổi mới toàn
diện và sâu sắc trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Vì thế, mục đích và nhiệm vụ giáo dục có vai trò định
hướng cho tất cả các nhân tố khác của quá trình giáo dục.
Để thực hiện tốt mục đích giáo dục, quá trình giáo dục phải hoàn
thành các nhiệm vụ cơ bản như:
- Tổ chức hình thành và phát triển ý thức cá nhân về các
chuẩn mực xã hội nói chung các chuẩn mực đạo đức pháp luật
nói
riêng đã được quy định. Ý thức cá nhân là một thể thống
nhất
giữa sự hiểu biết của cá nhân về các chuẩn mực xã hội và niềm tin
đối với những chuẩn mực đó:
- Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh những xúa cảm,
tình
cảm tích cực có tác dụng như là một "chất men" đặc biệt thúc đẩy
cá nhân chuyển hóa ý thức về các chuẩn mực xã hội
thành hành vi
và thói quen tương ứng;
- Tổ chức hình thành và phát triển ở học sinh hệ thống hành
vi phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã được quy định, mặt
khác còn tổ chức rèn luyện để các em có thể tự lặp lại hệ thống
những hành vi này thành thói quen bền vững gắn bó mật thiết
4
với nhu cầu hoạt động tích cực của cá nhân.
Nhân tố mục đích và nhiệm vụ giáo dục là nhân tố có vị trí hàng
đầu trong quá trình giáo dục. Nó có chức năng định hướng
cho sự vận
động và phát triển của các nhân tố khác trong quá
trình giáo dục và
từ đó, định hướng cho sự vận động và phát
triển của toàn bộ quá
trình giáo dục.
b) Nội dung giáo dục
Nội dung giáo dục quy định hệ thống những chuẩn mực xã
hội
cần được giáo dục cho học sinh về các mặt giáo dục tư
tưởng,
đạo đức lao động, giáo dục thể chất, thẩm mĩ, v.v... Nó tạo nên nội
dung hoạt động của nhà giáo dục cũng như nội dung
tự giáo dục, tự
tu dưỡng của người được giáo dục. Nội dung
giáo dục chịu sự chí
phối của mục đích, nhiệm vụ giáo dục, mặt khác, nội dung giáo dục
lại chi phối việc lựa chọn và vận dụng
phối hợp các phương pháp,
phương tiện giáo dục nhằm thực
hiện tốt mục đích, nhiệm vụ giáo
dục.
c) Phương pháp, phương tiện giáo dục
Phương pháp, phương tiện giáo dục là những cách thức,
những phương tiện hoạt động phối hợp, thống nhất của nhà giáo
dục và đối tượng giáo dục, của giáo viên và học sinh nhằm giúp
cho học sinh chuyển hóa dần những chuẩn mực xã hội thành
hành vi và thói quen tương ứng. Phương pháp, phương tiện giáo
dục chịu sự chi phối của mục đích, nhiệm vụ và nội dung giáo
dục. Mặt khác, phương pháp, phương tiện lại là "hình thức về
cách thức vận động bên trong của nội dung", nó giúp cho nội
dung giáo dục được chuyển hóa thành vốn kinh nghiệm riêng
của người được giáo dục sao cho phù hợp với mục đích và các
nhiệm vụ giáo dục.
5
Như vậy, giữa mục đích, nhiệm vụ, nội dung và phương
pháp, phương tiện giáo dục có mối quan hệ thống nhất biện
chứng với nhau, nó chi phối, ảnh hưởng, hỗ trợ và phụ thuộc lẫn nhau
thông qua các hoạt động giáo dục.
d) Nhà giáo dục
Trong quá trình giáo dục người giáo viên và tập thể giáo
viên,
với tư cách là các nhà giáo dục, các nhà sự phạm, những người
được chuẩn bị về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm, có phương
pháp và nghệ thuật giáo dục, luôn phát huy vai trò chủ
đạo, tổ chức,
điều khiển quá trình hình thành, phát triển nhân
cách của học sinh
một cách có mục đích có kế hoạch, có phương
pháp, có tổ chức khoa
học, hợp lí. Qua đó động viên, khuyến
khích, làm phát triển ở học
sinh tính tự giác, tính tích cực tự giáo dục, tự hoàn thiện mình.
e) Người học sinh trong quá trình giáo dục
Trong quá trình giáo dục, người học sinh (và tập thể học
sinh) vừa là đối tượng, là khách thể tiếp nhận sự tác động có
định hướng của nhà giáo dục. Nhưng người học sinh trong quá
trình giáo dục không phải là một thực thể thụ động, trái lại họ đã
tiếp thu những tác động từ các lực lượng giáo dục khác nhau
một cách chủ động tùy theo mục đích tu dưỡng rèn luyện, tự
giáo dục của bản thân họ. Điều đó cũng có nghĩa là, dưới tác
động giáo dục khách quan của nhà giáo dục, của gia đình và xã
hội, mỗi học sinh không những là khách thể mà còn là chủ thể
tiếp nhận những tác động giáo dục một cách chọn lọc, có ý thức,
tự giác, tích cực nhằm biến những yêu cầu khách quan, những
chuẩn mực về đạo đức, về lao động, về thể chất và thẩm mĩ do
xã hội quy định thành hành vi, thói quen, thành lối sống văn hóa
6
bền vững, ổn định của cá nhân họ. Nhờ vậy, người học sinh
không ngừng vận động phát triển đi lên và nhân cách của các em ngày
càng hoàn thiện.
Như vậy, với vai trò vừa là khách thể, là đối tượng đồng thời
lại là một chủ thể tự giáo dục, tự tu dưỡng, tự rèn luyện tự mình
biến những yêu cầu, những chuẩn mực do xã hội quy định thành
nhu cầu phát triển chủ quan của cá nhân mình. Hai tư cách: đối
tượng giáo dục và chủ thể tự giáo dục thống nhất, tác động qua
lại, ảnh hưởng, chi phối lẫn nhau: Trong đó, người học sinh với
tư cách chủ thể giáo dục là cơ sở còn với tư cách đối tượng giáo
dục sẽ là điều kiện cho sự hình thành, phát triển và hoàn thiện
nhân cách.
g) Kết quả quá trình giáo dục
Chất lượng và hiệu quả quá trình giáo dục phản ánh kết quả vận
động tổng hợp của tất cả các nhân tố trên đây của quá trình giáo dục.
Cụ thể là, với sự định hướng của mục đích, nhiệm vụ giáo dục, với
những yêu cầu của nội dung, với sự vận dụng phối hợp, khéo léo các
phương pháp, phương tiện và nghệ thuật kết hợp các hình thức tổ
chức các loại hình hoạt động phong phú và đa dạng, những phẩm
chất, những nét tính cách, những hành vi, thói quen về đạo đức, về lối
sống tốt đẹp sẽ dần dần hình thành, phát triển và hoàn thiện.
Kết quả quá trình giáo dục được thể hiện đậm nét ở sự biến
đổi về chất trong nhân cách của người được giáo dục, đặc biệt là
ý thức về các chuẩn mực xã hội đã được quy định; về sự phát
triển của tình cảm, hành vi, thói quen đạo đức, thẩm mĩ, ...
Những nhân tố trên đây: mục đích, nhiệm vụ giáo dục, nội
dung, phương pháp, phương tiện giáo dục, chủ thể, đối tượng và
7
kết quả giáo dục luôn tồn tại và phát triển trong mối quan hệ
tương tác, biện chứng với nhau. Các nhân tố đó còn có mối quan
hệ mật thiết với môi trường kinh tế - xã hội. môi trường chính trị
văn hóa,... với cơ chế thị trường. Sự phát triển không ngừng về
mọi lĩnh vực đời sống xã hội, những đòi hỏi ngày càng cao của
nền kinh tế tri thức trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước luôn đặt ra những yêu cầu cao và tạo điều kiện thuận
lợi cho các nhân tố vận động phát triển và ngược lại, các nhân tố
của quá trình giáo dục lại ảnh hưởng, chi phối, tác động tích cực
trở lại môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội ...
Từ sự phân tích trên đây, theo quan điểm tiếp cận hệ thống -
cấu trúc thì quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nói riêng, quá
trình giáo dục - đào tạo nói chung tồn tại như là một hệ thống
bao gồm các nhân tố cấu trúc có quan hệ mật thiết với nhau và
có quan hệ tương tác với môi trường. Sự vận động và phát triển
của các nhân tố được phản ánh trong kết quả của quá trình giáo
dục.
Như vậy. quá trình giáo dục là hoạt động giáo dục và tự giáo
dục một cách có kế hoạch, có nội dung, phương pháp, phương
tiện của giáo viên và học sinh nhằm thực hiện tốt mục đích,
nhiệm vụ giáo dục. Đó là hoạt động phối hợp, thống nhất của
chủ thể và đối tượng giáo dục nhằm biến các yêu cầu khách
quan của xã hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi học
sinh.
II - Bản chất và đặc điểm của quá trình giáo dục
1. Bản chất của quá trình giáo dục
Đã từ lâu, các nhà giáo dục học đã quan tâm tới vai trò của
nhu cầu trong sự phát triển của đứa trẻ. Một số quan điểm cực
8
đoan cho rằng, nhu cầu của con người quyết định cho mục đích và
nhiệm vụ giáo dục (G. Điuây) hoặc như I.Hécbáctơ thì lại đặt
ra cho
giáo dục một nhiệm vụ là trấn áp nhu cầu và bản năng
của trẻ, bởi
ở chúng, những nhu cầu thường mang tính "hoang dại" và "bất
kham".
Quá trình giáo dục không thể tồn tại nếu không có sự tham
gia của chính học sinh vào quá trình đó. Vì thế, giáo dục phải
phù hợp với thế giới trong của học sinh để hiểu nó và biến đổi
nó. Với ý nghĩa đó, giáo dục là một quá trình tác động sư phạm
được tổ chức khoa học vào thế giới bên trong của học sinh nhằm
hình thành và phát triển những phẩm chất cần thiết cho cá nhân
và cho xã hội. Xét trên bình diện tổng quát, giáo dục là quá trình
điều khiển, điều chỉnh sự phát triển nhân cách của học sinh
thông qua các hoạt động sống của chính các em.
Trong thực tiễn, nhân cách của mỗi cá nhân trước hết và chủ
yếu phải được thể hiện bằng lối sống qua những hành vi, những
thói quen đúng đắn phù hợp với các chuẩn mực xã hội đã được
quy định. Bộ mặt nhân cách này không những được thể hiện
bằng sự hiểu biết về những yêu cầu, những chuẩn mực xã hội
đòi hỏi mà quan trọng hơn là những nét nhân cách tốt đẹp đó
phải được thể hiện thông qua hành động thực tiễn. Bởi lẽ, trong
cuộc sống, nhiều khi người ta nói rất giỏi về các chuẩn mực đạo
đức, về lối sống văn hóa, thẩm mĩ... nhưng trong thực tiễn, chính
những người nói giỏi đó lại không thể hiện được những hành vi
tương ứng, thậm chí còn có những việc làm, những hành động
trái ngược ...
Mặt khác, trong quá trình giáo dục luôn diễn ra sự tác động
qua lại tích cực giữa người được giáo dục và nhà giáo dục nhằm
giúp cho đối tượng giáo dục là người học sinh thường xuyên cố
9
gắng tu dưỡng, rèn luyện, tự giáo dục nhằm chuyển hóa được
những yêu cầu những chuẩn mực xã hội đã được quy định thành
hệ thống hành vi và thói quen tương ứng. Quá trình đó được
diễn ra có tổ chức, có kế hoạch, có phương pháp thông qua các
loại hình hoạt động phong phú và đa dạng do giáo Viên tổ chức,
điều khiển còn học sinh tham gia một cách tích cực, chủ động,
sáng tạo.
Như vậy, quá trình giáo dục về bản chất là quá trình tổ chức, điều
khiển và tự tổ chức, tự điều khiển các loại hình hoạt động phong
phú và đa dạng trong cuộc sông nhằm chuyển hóa một cách tự giác,
tích cực các yêu cầu và những chuẩn mực do xã hội quy định thành
hành vi và thói quen tương ứng của học sinh. dưới vai trò chủ đạo của
nhà giáo dục.
2. Những đặc điểm cơ bản của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục có một số đặc điểm cơ bản sau:
a) Giáo dục là một quá trình hoạt động có mục đích, có kế
hoạch, có nội dung, có phương pháp được diễn ra trong một
thời
gian dài
Đó là quá trình chuyển hóa những yêu cầu khách quan của xã
hội thành nhu cầu phát triển chủ quan của mỗi cả nhân, trong đó
các phẩm chất, các nét tính cách, các hành vi, thói quen về đạo
đức, về nếp sống văn hóa, thẩm mĩ... của học sinh dần dần hình
thành, phát triển. Quá trình đó không thể diễn ra trong chốc lát
mà đòi hỏi phải có thời gian. Bởi lẽ trong quá trình giáo dục,
giáo viên không thể chỉ dừng lại ở chỗ làm cho học sinh hiểu
được những yêu cầu và chuẩn mực của xã hội đối với cá nhân
mà quan trọng hơn là phải hình thành những niềm tin, những
xúc cảm tích cực đặc biệt là phải rèn luyện những hành vi và
10
thói quen tương ứng.
b) Quá trình giáo dục diễn ra với những tác động phức hợp
Giáo dục là một quá trình tổ chức các loại hình hoạt động
phong phú và phức tạp nhằm hình thành những phẩm chất,
những nét tính cách ổn định và bền vững nơi người học. Đó là
cả một quá trình phát hiện và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn
đan xen nhau trong đời sống nội tâm của đối tượng giáo dục. Để
hình thành một nét tính cách một hành vi, một thói quen phù
hợp với những chuẩn mực của xã hội cần có sự tác động phối
hợp của nhiều lực lượng giáo dục như nhà trường, gia đình và
các tổ chức xã hội. Ngay trong nhà trường, ở gia đình hay ngoài
xã hội, người học sinh cũng chịu ảnh hưởng của nhiều tác động
giáo dục khác nhau. Ví dụ: Trong gia đình, trẻ em thường xuyên
được cha mẹ, ông bà, anh chị em khuyên bảo, dạy dỗ, động
viên...; Ở nhà trương- thì thầy giáo, cô giáo, các tổ chức đoàn
thể,... luôn có những hình thức giáo dục phù hợp để hình thành
thói quen, hành vi đạo đức nếp sống văn minh…; ngoài xã hội
thường xuyên có những tác động của những tổ chức xã hội,
những ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp của các phương tiện
thông tin, phim ảnh, sách báo …
Những ảnh hưởng, tác động từ nhiều phía đã đan kết, xen kẽ,
bổ sung, hỗ trợ cho nhau thành một thể thống nhất hướng tới
việc phát triển và hoàn thiện nhân cách. Trong những tác động
phức hợp đó, hoạt động giáo dục của nhà trường nói chung, hoạt
tổ chức các loại hình hoạt động giáo dục tập thể của giáo viên
chủ nhiệm lớp nói riêng giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, trong
thực tiễn giáo dục, cũng có những nơi, những lúc, trong các tình
huống cụ thể, thường xảy ra những tác động ngược chiều tạo ra
những phản ứng nhiễu gây khó khăn cho quá trình giáo dục. Với
11
những tình huống như vậy, đòi hỏi người giáo viên với tư cách
là nhà giáo dục cần khéo léo vận dụng các phương pháp giáo
dục để hạn chế tới mức tối thiểu những tác động tiêu cực, tự
phát và phát huy cao độ những tác động tích cực đối với quá
trình giáo dục và tự giáo dục, tự rèn luyện của học sinh.
c) Quá trình giáo dục là quá trình phát triển biện chứng
Giáo dục là một hiện tượng xã hội và cũng là một quá trình
nên nó không ngừng vận động, phát triển theo quy luật phổ biến
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Thực chất
của hoạt động giáo dục là quá trình liên tục phát hiện và giải
quyết những tình huống sư phạm nảy sinh trong các lĩnh vực
giáo dục đạo đức, giáo dục lối sống văn hóa, thẩm mĩ của học
sình trong môi trường sư phạm của nhà trường, trong gia đình và
xã hội. Việc phát hiện kịp thời các tình huống và có các giải
pháp giải quyết hợp lí phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lí của
học sinh sẽ có tác dụng mạnh mẽ thúc đẩy, khuyến khích, động
viên các em tự giác tích cực phấn đấu rèn luyện để dần dần tự
hoàn thiện mình. Sự vận động và phát triển của quá trình giáo
dục được diễn ra với các tính quy luật phổ biến và đặc thù của
hoạt động giáo dục. Nghệ thuật sư phạm của nhà giáo dục là
phải kịp thời phát hiện các mâu thuẫn và có các phương án giải
quyết hợp lí phù hợp với quy luật và tính quy luật của quá trình
giáo dục để quá trình giáo dục học sinh có thể đạt hiệu quả tối
ưu.
d) Quá trình giáo dục có tính cá biệt
Trong thực tiễn cuộc sống muôn hình muôn vẻ quanh ta cũng
như trong môi trường giáo dục, mỗi con người, mỗi học sinh là
một thế giới riêng với những đặc điểm riêng về tâm - sinh lí, đặc
12
điểm nhận thức, tình cảm…, mỗi người đều có cuộc sống và thế
giới nội tâm riêng. Vì vậy, trong quá trình giáo dục, với những
tác động sư phạm như nhau mỗi cá nhân có thể lĩnh hội theo
cách riêng của mình với những mức độ khác nhau. Do đó nghệ
thuật giáo dục của nhà sư phạm là phải thực hiện cá biệt hóa
hoạt động giáo dục, cùng với những biện pháp giáo dục chung
đối với tập thể, phải có những tác động riêng phù hợp với đặc
điểm của từng cá nhân học sinh. Cá biệt hóa quá trình giáo dục
là một xu hướng đổi mới phương pháp giáo dục trong lí luận
giáo dục hiện đại. Nó đòi hỏi phải tổ chức các loại hình giáo dục
phong phú và đa dạng phù hợp với nhịp độ phát triển nhân cách
và đặc điểm cá tính,. đời sống nội tâm từng học sinh. Vì :thế,
nhà giáo dục phải. hiểu biết sâu sắc đối tượng giáo dục của
mình, phải đồng cảm và thương yêu học..sinh, phải có cái tâm
trong sáng và sự bao dung ...
e) Quá trình giáo dục gắn liền và thông nhất với quá trình
dạy
học
Trong các loại hình trường, hoạt động giáo dục (theo nghĩa
hẹp) và hoạt động dạy học là hai dạng hoạt động được tiến hành
song song với các chức năng trội đặc trưng riêng của mình. Hoạt
động dạy học nhằm tổ chức, điều khiển để người học chiếm lĩnh
có chất lượng, hiệu quả nội dung học vấn; hoạt động giáo dục
nhằm hình thành những phẩm chất đạo đức, hành vi, thói quen,
lối sống, hành vi văn minh,… Hai hoạt động đó không tách biệt
mà thống nhất, bổ sung, hỗ trợ cho nhau góp phần hình thành,
phát triển và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. Cụ thể là: Trên
cơ sở thực hiện các nhiệm vụ dạy học thì thế giới quan và các
phẩm chất nhân cách của học sinh được hình thành, phát triển và
ngược lại kết quả giáo dục tốt các phẩm chất hành vi đạo đức,
13
lối sống có văn hóa lại là điều kiện, là tiền đề, là động lực thúc đẩy
hoạt động dạy học đạt kết quả cao hơn. Như vậy, mối quan hệ tương
tác giữa quá trình giáo dục và quá trình dạy học là mối quan hệ thống
nhất biện chứng, nó phản ánh tính quy luật đặc
trưng của quá trình
sư phạm: hoạt động dạy học và hoạt động
giáo dục thống nhất biện
chứng với nhau
III - Động lực và lôgíc của quá trình giào dục
1. Động lực của quá trình giáo dục
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt; Một quá trình
luôn
luôn vận động và phát triển không ngừng, trong đó nhân
cách của
người học sinh ngày càng được phát triển và không
ngừng hoàn
thiện.
Nguyên nhân của sự vận động, phát triển của quá trình giáo dục
chính là sự giải quyết có hiệu quả các loại mâu thuẫn và tạo nên hệ
thống động lực và các điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá
trình giáo
dục đạt kết quả mong muốn. Cũng như các hiện
tượng, các quá
trình các sự kiện trong thế giới khách quan, quá trình sư phạm nói
chung, quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp nói riêng thường có những
mâu thuẫn sau:
a) Mâu thuẫn bên ngoài của quá trình giáo dục là mâu thuẫn
giữa các nhân tố của quá trình giáo dục với các yếu tố của môi
trường, đặc biệt là môi trường kinh tế - xã hội - chính trị, … Ví
dụ: Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện độ hoá đất nước, cơ
chế thị trường, nền kinh tế tri thức, ... luôn yêu cầu cao đối với
sự nghiệp giáo dục nhưng phẩm chất đạo đức của học sinh thì
ngày một giảm sút chưa đáp ứng với những đòi hỏi của xã hội,
… Những mâu thuẫn bên ngoài nếu được phát hiện và giải quyết
kịp thời, có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá
14
trình giáo dục phát triển. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh đặc
biệt vào thời điểm nhất định nào độ, những mâu thuẫn bên ngoài
lại có thể chuyển hóa thành mâu thuẫn bên trong và có tác dụng
quyết định xu hướng phát triển không ngừng của quá trình giáo
dục.
b) Mâu thuẫn bên trong của quá trình giáo dục là mâu thuẫn
giữa các nhân tố của quá trình giáo dục với nhau hoặc mâu
thuẫn giữa các yếu tố trong từng nhân tố. Ví dụ: Các mâu thuẫn
giữa nội dung giáo dục với phương pháp giáo dục không phù
hợp; mâu thuẫn giữa phương pháp giáo dục của thầy không phù
hợp với đặc điểm tâm - sinh lí của trò ... hoặc mâu thuẫn nảy
sinh chính trong quá trình giáo dục, tự giáo dục, tự rèn luyện của
bản thân nhà giáo dục hay người được giáo dục như mâu thuẫn
giữa lời nói với việc làm giữa tình cảm với lí trí của học sinh;
giữa năng lực chuyên môn với phương pháp, nghệ thuật sư
phạm của giáo viên, v.v ... Việc phát hiện kịp thời và giải quyết
có hiệu quả các mâu thuẫn bên trong này sẽ tạo nên hệ thống
động lực thúc đẩy quá trình giáo dục không ngừng vận động
phát triển.
c) Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa những yêu cầu cao
của mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục về đạo đức, hành vi, lối sống
có văn hóa… đối với học sinh với thực trạng suy giảm về đạo
đức, về lối sống… hiện nay của các em trong các loại hình
trường. Đó chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu cao của những
chuẩn mực xã hội về giáo dục đạo đức, lao động, thể chất, thẩm
mĩ với trình độ được giáo dục nói riêng, trình độ phát triển các
phẩm chất nhân cách nói chung ở học sinh. Mâu thuẫn cơ bản
này tồn tại trong suốt cả quá trình giáo dục. Nếu được phát hiện
kịp thời và có các giải pháp giải quyết hợp lí, có hiệu quả thì sẽ
15
tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết hàng loạt các mâu
thuẫn khác. Nghĩa là, khi mâu thuẫn nảy sinh, dưới vai trò chủ
đạo của nhà giáo dục, với các hình thức tổ chức các loại hình
hoạt động phong phú đa dạng hấp dẫn, phù hợp có tác dụng thu
hút, lôi cuốn học sinh tích cực tham gia… Thông qua hoạt động,
học sinh không ngừng phấn đấu, rèn luyện và tự hoàn thiện
mình đáp ứng những yêu cầu ngày càng cao của những chuẩn
mực xã hội. Như vậy, cùng với mâu thuẫn cơ bản, hàng loạt các
mâu thuẫn khác cũng được giải quyết tạo ra động lực thúc đẩy
học sinh không ngừng phát triển và tự hoàn thiện nhân cách của
mình. Kết quả của việc giải quyết các mâu thuẫn đó lại tạo ra
tiền đề mới, cơ sở và điều kiện mới để tiếp tục nâng cao hơn nữa
những yêu cầu và chuẩn mực xã hội, và từ đó mâu thuẫn cơ bản
mới lại xuất hiện, lại được giải quyết và người học sinh cũng
như toàn bộ quá trình giáo dục không ngừng vận động, phát
triển.
Vậy động lực của quá trình giáo dục chính là việc phát hiện
và giải quyết có hiệu quả các mâu thuẫn, đặc biệt là mâu thuẫn
cơ bản nảy sinh trong quá trình giáo dục và tự giáo dục nhằm
góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách của học sinh:
Cũng như trong quá trình dạy học, các mâu thuẫn chỉ trở
thành
động lực khi có các điều kiện sau:
- Các mâu thuẫn phải nảy sính và tồn tại trong tiến trình giáo
dục.
- Việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn phải vừa sức học
sinh
(quan niệm vừa sức với những yêu cầu cao nhằm kích thích tính tích
cực hoạt động của cá nhân).
- Các mâu thuẫn phải được học sinh ý thức đầy đủ và quyết
16
tâm tìm tòi biện pháp giải quyết có hiệu quả.
2. Lôgic của quá trình giáo dục
Lôgic của quá trình giáo dục là trình tự thực hiện hợp lí các
khâu
của qua trình đó nhằm thực hiện tốt mục đích, nhiệm vụ
giáo dục.
Giáo dục là một quá trình tổ chức các loại hình hoạt động
nhằm biến những yêu cầu khách quan thành nhu cầu phát triển
chủ quan của đối -tượng giáo dục. Quá trình giáo dục và tự giáo
dục đó diễn ra theo các giai đoạn, các bước hay các khâu mà
mỗi khâu nhằm giải quyết tương đối trọn vẹn một nhiệm vụ cụ
thể từ nhận thức đến thái độ, động cơ, tình cảm, niềm tin và
hành vi, thói quen, nếp sống có văn hóa của bản thân người học.
Với cách hiểu như vậy, quá trình giáo dục có thể diễn ra theo ba
khâu cơ bản sau:
a) Khâu thứ nhất: Nâng cao nhận thức về các yêu cầu, chuẩn
mực đạo đức, các giá trị văn hóa, thẩm mĩ … do xã hội quy
định. Với vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, trước hết phải làm
cho học sinh nhận thức đầy đủ, sâu sắc được những chuẩn mực
về đạo đức, những giá trị văn hóa, thẩm mĩ, những lối sống, nếp
sống văn minh, … Các chuẩn mực do xã hội quy định nói chung
vừa có tính chất pháp chế, bắt buộc, vừa mang tính truyền thống
được lựa chọn đưa vào nội dung giáo dục như hệ thống các
chuẩn mực về pháp luật, về phong tục tập quán, về văn hóa,
thẩm mĩ,… Trong quá trình giáo dục, giáo viên cần làm cho học
sinh hiểu sâu sắc về các chuẩn mực, giúp họ có tri thức cơ bản
về các chuẩn mực xã hội như: ý nghĩa xã hội và ý nghĩa cá nhân
của các chuẩn mực; nội dung của chuẩn thực bao gồm cả những
khái niệm tương ứng; cách thức thực hiện các chuẩn mực, v.v...
17
Đó là những phương tiện có giá trị định hướng cho thái độ,
tình cảm và niềm tin; có chức năng điều chỉnh hành vi thói quen
của cá nhân hay của nhóm xã hội trong những hoàn cảnh và điều
kiện nhất định. Mặt khác, nhận thức về các chuẩn mực do xã hội
quy định còn là phương tiện để xã hội đánh giá hành vi của cá
nhân và mỗi cá nhân tự kiểm tra, tự đánh giá hành vi, thói quen
của chính mình.
b) Khâu thứ hai: Tổ chức, điều khiển học sinh hình thành thái độ
niềm tin và tình cảm tích cực đối với các chuẩn mực xã hội đã quy
định.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và hiểu biết sâu sắc về các
chuẩn mực xã hội, ở mỗi học sinh dần dần hình thành thái độ,
niềm tin và tình cảm đạo đức trong sáng, đúng đắn về các chuẩn
mực xã hội. Đó là những thái độ phản ánh các quan điểm của cá
nhân về các chuẩn mực xã hội; những niềm tin tuyệt đối, bền
vững của mỗi người vào chân lí của các chuẩn mực xã hội thông
qua những khái niệm, những giá trị đạo đức, văn hóa thẩm mĩ...;
những tình cảm, xúc cảm tích cực về các chuẩn mực xã hội, đặc
biệt là những tình cảm, xúc cảm đạo đức và thẩm mĩ. Chính
những thái độ, niềm tin và tình cảm tích cực đúng đắn đó là cơ
sở hình thành động lực nội sinh, là nguồn gốc tạo nên động cơ
thôi thúc tính tích cực hoạt động cá nhân của mỗi con người.
Trong quá trình giáo dục, thông qua việc tổ chức, điều khiển và
tự tổ chức, tự điều khiển các hoạt động nội khóa và ngoại khóa
thuộc các lĩnh vực giáo dục đạo đức, văn hóa, thẩm mĩ, xây
dựng nếp sống văn minh… thái độ và niềm tin đối với các chuẩn
mực đạo đức dần dần hình thành và phát triển. Những niềm tin
về các chuẩn mực xã hội không những được thể hiện trong lí
thuyết mà còn được thể hiện thực tiễn. Chính những niềm tin và
18
sự ý thức sâu sắc về những yêu cầu và chuẩn mực xã hội quy
định là cơ sở để nảy sinh hàng loạt xúc cảm và dần dần hình
thành những tình cảm tốt đẹp bền vững về đạo đức, về lối sống
văn hóa, ... Những xúc cảm, tình cảm đó chính là động cơ, là
chất men thôi thúc cho hành động, ý chí tự giáo dục, tự tu
dưỡng, rèn luyện và tự hoàn thiện mình, tránh xa mọi ảnh hưởng
xấu trong cuộc sống đầy biến động và phức tạp hiện nay. Trên
cơ sở nhận thức đúng đắn về những chuẩn mực đạo đức về lối
sống văn hóa thẩm mĩ, ở mỗi cá nhân hình thành được những
thái độ, niềm tin và tình cảm đạo đức, xúc cảm thẩm mĩ... từ đó
họ có động cơ tu dưỡng, rèn luyện hành vi, thói quen tương ứng.
c) Khâu thứ ba: Tổ chức, điều khiển học sinh rèn luyện hành
vi và thói quen phù hợp với những chuẩn mực xã hội đã quy
định. Mục đích cuối cùng của quá trình giáo dục là hình thành
và phát triển những phẩm chất đạo đức, những nét tính cách,
những hành vi và thói quen, những lối sống có văn hóa ở người
được giáo dục. Những biểu hiện trong lối sống, hành vi văn
minh chính là bộ mặt đạo đức, thẩm mĩ ... của mỗi con người
trong cộng đồng. Vì vậy, vấn đề quan trọng đặc biệt trong quá
trình giáo dục là phải tổ chức các loại hình hoạt động phong phú
và đa dạng, tạo môi trường thuận lợi để học sinh tự giáo dục, tự
tu dưỡng và rèn luyện những nét tính cách, những hành vi và
thói quen những nếp sống có văn hóa, những giá trị truyền thống
đã được xã hội thừa nhận. Những hành vi, những nếp sống văn
minh và sự ứng xử có văn hóa, ... cần được thường xuyên luyện
tập, rèn luyện, củng cố trở thành kĩ xảo, thành động hình, thành
thói quen bền vững. Đó là nhu cầu không thể thiếu được trong
cuộc sống của mỗi con người. Các khâu của quá trình giáo dục
19
không tách biệt mà có mối quan hệ mật thiết với nhau, bởi lẽ
giáo
dục là một quá trình toàn vẹn việc thực hiện các nhiệm vụ
giáo dục
đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ cả ba khâu trong mối
quan hệ tương
tác, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, thậm chí thâm nhập vào nhau thông qua
các hoạt động giáo dục cụ thể.
Để đạt được chất lượng và hiệu quả giáo dục tối ưu, nghệ
thuật
sư phạm của nhà giáo dục là phải biết kết hợp các khâu
một cách
hợp lí. Tùy theo đặc điể tính chất và nội dung các tình huống cụ thể;
căn cứ vào đặc điểm của đối tượng vào các điều
kiện và các phương
tiện giáo dục, ... mà kết hợp các khâu của
quá trình giáo dục một
cách linh hoạt, sáng tạo, không nhất thiết phải tiến hành đầy đủ cả ba
khâu hoặc bắt buộc theo đúng trình tự các khâu một cách máy móc.
20
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Hãy trình bày khái niệm và cấu trúc của quá trình giáo dục
theo quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu trúc, cho ví dụ minh họa.
2. Hãy phân tích bản chất và những đặc điểm của quá trình giáo
dục. Cho một ví dụ thực tiễn giáo dục để minh họa cho một trong
những đặc điểm đó.
3. Hãy so sánh bản chất của quá trình giáo dục với bản chất
của quá trình dạy học, liên hệ với thực tiễn và rút ra kết luận sư
phạm.
4. Hãy phân tích động lực của quá trình giáo dục, cho ví dụ minh
họa.
5. Hãy phân tích các khâu của quá trình giáo dục và mối quan hệ
giữa các khâu đó, cho ví dụ minh hoạ.
21
CHƯƠNG XV
QUY LUẬT VÀ NGUYÊN TẮC GIÁO DỤC
I. Những quy luật của quá trình giáo dục
Quá trình giáo dục luôn vận động và phát triển không ngừng theo
những quy luật phổ biến và đặc thù vốn có của nó. Quy luật
giáo dục
phản ánh các mối quan hệ, liên hệ tương tác và bền
vững giữa các
nhân tố các yếu tố trong quá trình giáo dục với
nhau hoặc mối quan
hệ chi phối của môi trường tới từng nhân tố của quá trình giáo dục.
Cho đến nay các nhà giáo dục học vẫn còn có nhiều ý kiến chưa
hoàn toàn nhất trí về các quy luật và tính quy luật trong quá trình giáo
dục.
Chúng ta có thể kể tới một số quy luật đặc trưng, điển hình sau
đây của quá trình giáo dục:
1. Quá trình giáo dục thống nhất biện chứng với môi trường
kinh tế- xã hội
Đây là quy luật phổ biến phản ánh mối quan hệ chi phối,
quan hệ thường xuyên, trực tiếp hoặc gián tiếp của môi trường
xã hội tới từng nhân tố của quá trình giáo dục. Các nhân tố của
quá trình giáo dục chịu ảnh hưởng tác động từ nhiều phía của
điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ... nhưng hoàn toàn không thụ
động mà ngược lại, các nhân tố của quá trình giáo dục không
ngừng phát huy tác dụng tích cực trở lại môi trường, góp phần
cải tạo môi trường. Ví dụ: Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, cơ
chế thi trường thường xuyên ảnh hưởng tới quá trình tổ chức
điều khiển, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động giáo dục, tự giáo
dục của giáo viên và học sinh. Song chính trong quá trình đó,
22
giáo viên và học sinh lại tham gia nhiều hoạt động góp phần cải tạo,
nâng cao chất lượng của môi trường.
Trong tương lai, người học sinh sẽ là những nhà khoa học,
những nhà quản lí giỏi và sẽ có những cống hiến lớn lao trong xây
dựng, phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước ...
2. Mục đích giáo dục, nội dung giáo dục và các phương
pháp
giáo dục thống nhất biện chứng với nhau
Trong quá trình giáo dục, mục đích, nhiệm vụ, nội dung giáo
dục và các phương pháp, phương tiện giáo dục là các nhân tố cơ
bản của quá trình giáo dục. Các nhân tố đó có mối quan hệ
thống nhất chặt chẽ với nhau. Mục đích, nhiệm vụ giáo dục chi
phối và định hướng việc xác định nội dung giáo dục. Ngược lại,
nội dung là sự cụ thể hóa, chi tiết hóa mục đích giáo dục. Nội
dung giáo dục còn có mối quan hệ chi phối các phương pháp,
phương tiện và hình thức giáo dục. Ngược lại, phương pháp là
hình thức về cách thức vận động bên trong của nội dung, là cách
thức tổ chức các loại hình hoạt động nhằm thực hiện tốt mục
đích và nội dung giáo dục. Mối quan hệ chi phối chặt chẽ, bền
vững giữa ba nhân tố cơ bản của quá trình giáo dục phản ánh
tính quy luật đặc thù của quá trình giáo dục.
3. Hiệu quả của quá trình giáo dục phụ thuộc vào việc tổ
chức hợp lí các hình thức hoạt động và giao lưu của học sinh
Nhân cách con người chỉ hình thành và phát triển thông qua
các hình thức hoạt động phong phú, đa dạng và sự giao tiếp giữa
người với người trong cộng đồng. Chính vì vậy; những phẩm
chất đạo đức, những thái độ, những tình cảm và niềm tin, những
hành vi và thói quen, những lối sống có văn hóa ... chỉ được
hình thành, rèn luyện, củng cố và phát triển thông qua hoạt động
23
của mỗi cá nhân, phụ thuộc vào cách thức tổ chức các hình thức
hoạt động và giao lưu. Việc tổ chức các hình thức hoạt động,
giao lưu càng khoa học, hợp lí, càng phong phú, hấp dẫn, bổ ích,
có tính giáo dục sâu sắc thì càng mang lại hiệu quả giáo dục tối
ưu.
4. Tác động sư phạm của nhà giáo dục và hoạt động tự
giáo
dục của học sinh thống nhất biện chứng với nhau
Sự thống nhất biện chứng giữa hoạt động giáo dục của người
giáo viên và hoạt động tự giáo dục, tự tu dưỡng và rèn luyện của
học sinh trong quá trình giáo dục có mối quan hệ tương tác với
nhau, nó phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và đối
tượng, giữa hai nhân tố đặc trưng của quá trình giáo dục. Quá
trình giáo dục mà thiếu vắng một trong hai nhân tố đó thì quá
trình đó không tồn tại. Vì vậy, mối quan hệ thống nhất biện
chứng giữa tác động sư phạm của nhà giáo dục và hoạt động tự
giác, tích cực tự giáo dục, tự tu dưỡng, rèn luyện các hành vi,
thói quen phù hợp vôi các chuẩn mực xã hội của người được
giáo dục là quy luật cơ bản của quá trình giáo dục.
5. Quá trình giáo dục và quá trình dạy học thống nhất biện chứng
với nhau
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) và dạy học là hai hoạt động cơ bản
đặc trưng nhất của quá trình sư phạm nhằm thực hiện mục đích
giáo dục toàn diện. Hai hoạt động đó thống nhất, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau: dạy học là con đường, là phương tiện thực hiện nhiệm
vụ giáo dục và ngược lại nếu học sinh được giáo dục tốt thì tất
yếu sẽ học tập tự giác, tích cực có hiệu quả cao hơn. Vì lẽ đó
chúng ta có thể nói: mối quan hệ giữa dạy học và giáo dục là
mối quan hệ giữa phương tiện và mục đích, đó là một quy luật
24
Trong thực tiễn giáo dục, các cấp quản lí, các cán bộ nghiên cứu
và giáo viên cần ý thức một cách đầy đủ về quy luật và tính quy luật
của quá trình giáo dục để tổ chức điều khiển quá trình
giáo dục và
tự giáo dục đạt kết quả tối ưu. Những quy luật và tính quy luật
trong quá trình giáo dục được phản ánh đậm nét
thông qua các
nguyên tắc giáo dục.
II - Các nguyên tắc giáo dục
1. Khái niệm nguyên tắc giáo dục
Quá trình giáo dục tồn tại như là một hệ thống luôn vận động,
phát triển theo những quy luật vốn có của nó. Hoạt động giáo
dục muốn đạt được kết quả mong muốn, nhà giáo dục không
những phải nắm được các quy luật giáo dục mà còn phải biết
vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các quy luật giáo dục
trong việc lựa chọn nội dung, vận dụng phối hợp các phương
pháp, phương tiện và các hình thức tổ chức giáo dục sao cho phù
hợp với đặc điểm tâm - sinh lí, đặc điểm nhân cách của người
được giáo dục. Những quy luật giáo dục được phản ánh trong
những luận điểm chung, cơ bản, đó là các nguyên tắc giáo dục.
Nguyên tắc giáo dục có cơ sở khách quan là những mối liên
hệ có tính quy luật được nảy sinh trong thực tiễn giáo dục và
được hình thành, phát triển trên cơ sở nhận thức, vận dụng linh
hoạt, sáng tạo những quy luật khách quan đó trong thực tiễn
giáo dục. Nguyên tắc giáo dục là những luận điểm mang tính
chuẩn mực, được kế thừa và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
trong lịch sử phát triển của giáo dục và nhà trường.
Vậy nguyên tắc giáo dục là những luận điểm cơ bản có tính
quy luật của lí luận giáo dục, có tác dụng chỉ đạo việc lựa chọn
và vận dụng nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
25