Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Am thuc trong ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.18 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Ca Dao Về Ẩm Thực </b>



<b> </b>

(Trích từ Trang Amthuc.com)

<b> Nụ cười qua chén cơm </b>



Dân tộc ta thuộc nền văn minh lúa nước, lương thực chính là cơm gạo, nên có rất nhiều
niềm vui nỗi buồn đọng lại quanh chén cơm “dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.
Đặc biệt , dân ta ăn cơm mà tủm tỉm cười rất nhiều, cười đủ thứ chuyện trên trời dưới đất,
khiến cho bữa cơm giản dị thêm ngon miệng.


Đối với phái “thực như hổ”, người ta hay chê cười các anh chàng giỏi ăn hơn làm :
“Người ta lái gió lái mây


Riêng anh lái bát cơm đầy vào hang”


Ca dao có câu : “Làm trai cho đáng nên trai, xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài
tan”, thi anh chàng này lại tỏ chí khí nam nhi bằng cách khác:


“Làm trai cho đáng nên trai


Ăn cơm với vợ lại rày cạy niêu.”


Thế nhưng anh ta lại may mắn có một người vợ đậm đà tinh thần ăn uống không kém:
“Con vợ nó cũng ráng chiều


Xắn hai tay áo cạy niêu cùng chồng.”


Phái “thực như miêu” được dành cho những nụ cười khả ái hơn, có lẽ vì họ dịu dàng
hơn nhiều. Này là lời băn khoăn của cô gái đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân biết bao bỡ
ngỡ:



“Anh ơi, em nấu cơm quên đơm vào rá
Em kho cá quên bỏ đồ mầu
Ra lấy chồng sợ khốn nỗi làm dâu


Em đây vụng đường nội trợ, sợ mai đây anh buồn.”
Chàng lập tức trấn an bằng những lời hứa vô cùng cụ thể:
“Cơm chưa đơm thì anh đơm giùm trót lọt


Cá dẫu lạt anh cũng nói ngọt như đường
Dốc lòng nặng một chữ thương


Nắng che mưa đậy, khổ trăm đường anh cũng cam”.


Nói vậy chớ, khi về làm vợ, bao giờ người phụ nữ cũng chịu cảnh thiệt thòi hơn.
Cái cảnh hài hước này thường xảy ra trong các gia đình bình dân:


“Đang cơn lửa tắt cơm sôi


Lợn kêu, con khóc, chồng địi tịm tem.”


Ca dao cịn mượn hình ảnh chén cơm để cười chê đủ thứ thói hư tật xấu của người
đời. Để chê trách những người trọng tiền bạc, coi thường đạo lý thì có:


“Nghe rằng bác mẹ anh hiền
Cắn cơm không bể, cắn tiền bể hai”.


Nhằm phê phán nạn “đa thê” cũng có câu ca dao thật thấm thía:
“Mấy đời cơm nguội lên hơi


Cái thân làm bé thảnh thơi bao giờ”



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

“Làm trai ghẹo gái có chồng


Cơm chan nước lã, mặn nồng nào đâu”


Sao không để ý nhìn mà coi, có cơ gái cịn son đang thương thầm nhớ trộm anh đấy.
Chớ vội hững hờ, cho nàng phải than:


“Thương anh bụng sát tận da
Anh không hay biết ngỡ là đói cơm!”


Chàng trai hãy lấy cơm gạo làm minh chứng bảo đảm cho hạnh phúc tương lai qua
lời cầu hôn giản dị mà đằm thắm:


“Muốn ăn cơm trắng canh cần
Thì về Đồng Lãng, đan giần với anh”


Hình như ở địa phương nào của Việt Nam áp dụng câu này cũng được, các bạn cứ
thay tên quê mình vào câu ca dao trên, chắc chắn rước được nàng về dinh.


<b> Bánh - nguồn cảm hứng dạt dào cho ca dao </b>



Từ thời xa xưa, trong nghệ thuật ẩm thực, người Việt Nam ta đã biết làm nhiều loại
bánh. Ngồi sự tích bánh chưng, bánh dày, món quà dâng cha mẹ của chàng Lang Liêu
hiếu thảo, truyện cổ tích cịn kể về nàng Út Ít, cũng là con gái vua Hùng học theo Lang
Liêu, dùng nếp làm ra bánh ít. Và cũng theo truyện cổ, loại bánh cổ xưa nhất của người
Việt là bánh do mẹ Âu Cơ làm ra, dùng mật trộn với nếp quết thành ra bánh mật.
Suốt mấy ngàn năm văn hiến, nhiều loại bánh với cách chế biến đa dạng đã đi vào
đời sống dân gian, tô điểm cho những mâm cỗ thêm màu sắc. Ca dao, hị vè cũng có
nhiều câu liên quan đến hình dáng, tên dân gian của các loại bánh:



“Ai được thốt thân, thì ăn bánh lọt
Trôi nước rất ngọt, để các thợ chài
Dầm mưa hồi hồi, thì ăn bánh ướt
Bất toại vô phước, thì sẵn bánh bị”


Hị vè cịn dày cơng tư duy để gán ghép bánh với nhiều nghề nghiệp khá bất ngờ,
như nghề đầu bếp : “Đầu bếp mấy tên, phải ăn bánh… rế”, thợ dệt thì: “Kẻ dệt lụa tơ,
bành tằm sẵn để”. Thầy thuốc cũng được dành cho một thứ bánh khá ngon: “Còn như
bánh quế, các đấng y sanh”. Chắc các bạn đã nhận ra cái rế là vật dụng nhà bếp, nên bánh
rế là bánh cho đầu bếp, “tằm” dễ nghĩ ngay đến nghề dệt lụa, còn quế là một vị thuốc nên
được ưu tiên cho thầy thuốc!


Hầu hết các món bánh đều được chế biến rất cơng phu, nên bánh cũng gói trọn tâm
tình của người con gái dành cho người yêu của mình. Biết bao nhiêu hy vọng, đợi chờ gói
ghém qua câu ca dao:


“Hai tay bưng quả bánh bò
Giấu cha giấu mẹ cho trò đi thi”


Với câu ca dao này, bài dân ca Lý Bánh bò còn triển khai chi tiết hơn về nỗi nhiêu
khê của… bánh bò trên đường trao tận tay bạn tình chung: “Chân đi khé né, tối trời sợ té,
giấu cha giấu mẹ…”Còn mấy anh chàng thì hở một chút là thề thốt sâu nặng và ngon ơ
như … bánh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bao giờ mặt trời hết quay


Thì qua với bậu mới dứt dây cang thường”
Nghe vậy các cô nàng hơi xiêu lòng, nhưng vẫn còn đắn đo:
“Muốn ăn bánh ít lá gai



Lấy chồng Bình Định, sợ dài đường đi”.


Thế là anh liền khẳng định tình yêu bằng một hành động nữ công gia chánh rất cụ
thể:


“Anh về bẻ trăm khuôn dừa
Gói trăm bánh nếp sang nhà hỏi em”


Cô gái quê dịu dàng khiêm nhường nhưng cũng khéo léo mượn hình ảnh của một
chiếc bánh cho chàng trai thấy phẩm chất của mình:


“Em đây như chiếc bánh gai
Áo nâu phai nắng, da thời lại đen
Ai ơi ăn thử mà xem


Ăn rồi mới biết là em ngọt bùi”.


Cô gái cũng mạnh dạn cho chàng trai thấy mong ước của mình về hơn nhân thật đơn
giản:


“Cỗ cưới em thật là sang
Bánh đa cả sọt, bỏng rang cả sề
Họ mạc ăn uống thỏa thuê


Lại lấy phần về ít hạt bỏng rơi!”


Bánh đa theo tiếng Bắc hay bánh tráng theo tiếng Nam đều là biểu tượng cho hạnh
phúc và những điều tốt đẹp nhất. Chàng trai xứ Bắc nói: “Vợ chồng ta bánh đa bánh
đúc”, chàng trai Nam bộ cũng ví von:



“Muốn ăn bánh tráng cho giòn


Muốn thương cơ gái cho trịn lòng trinh”.

<b> Các bài vè về Bánh</b>



Bà con cô bác, lẳng lặng mà nghe
Tơi nói cái vè, vè các thứ bánh


Mấy tay phong tình h nguyệt, thì sẵn có bánh trung thu
Mấy gã thầy tu, bánh sen thơm ngát


Ai mà hảo ngọt, thì có bánh cam
Những kẻ nhát gan, này là bánh tét


Cịn như bánh ít, để mấy ơng câu
Hủ lậu xưa nay, thì ưa bánh tổ
Mấy tay háo võ, bánh thuẫn sẵn sàng
Các thứ bánh bàn, kỉnh chư chấp bút


Nên dùng bánh gừng
Cịn bánh ít trần, cu ly chia lấy
Kẻ nào trồng rẫy, thời sẵn bánh khoai


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bánh kẹp bánh cồng, để cho đạo tặc.
Lại như quai vạc, đạo chốp nên ăn


Ai bị thoát gian, thì ăn bánh lọt
Trơi nước rất ngọt, để các thợ chài
Dầm mưa hồi hồi, thì ăn bánh ướt



Bất toại vơ phước, thì sẵn bánh bị
Những kẻ hay lo, phải ăn tai yến
Ai ham trồng kiểng, có bánh bơng lan


Cịn như bánh tráng, để hạng trai tơ
Mấy ả giang hồ, bánh bèo sẵn đó
Ai mà mặt rỗ, kìa bánh chơm chơm
Mấy chú tạ sơn. Bánh bao khá ních
Những tay bán thịt, da lợn sẵn dành
Còn trả bánh canh, cho ba chú lính


Chủ nhân Lục tỉnh, thì có bánh in
Đầu bếp mấy tên, phải ăn bánh rế
Này là bánh nghệ, mấy chị nằm nơi


Kẻ dệt lụa tơ, bánh tằm sẵn để
Còn như bánh quế, mấy đấng y sanh
Tọc mạch mấy anh, nên ăn bánh hỏi


Hễ là thầy bói, ăn đỡ bánh qui
Mấy ổ bánh mì, cho người nho nhã
Quảng Đơng mấy gã, ăn bánh cà na


Béo thịt thẳng da, thì ăn bánh ú
Rộng đường mấy chú, như để sẵn đây
Phật giáo mấy thầy, xin ăn bánh cúng
Phận tôi lúng túng, trái đất tơi dành
Ai có lanh chanh, tôi cho bánh khọt.



Tô canh Việt Nam qua ca dao



Tô canh ngọt ngào đưa cơm trôi tuột qua cổ họng còn để lại dư vị dễ chịu và giải
nhiệt. Canh được nấu bằng nhiều thứ rau, cải, củ và các loại thịt cá tùy theo địa phương
để làm nổi vị ngọt. Có lẽ ngày xưa thịt cá không nhiều, nên người dân Việt Nam đã sáng
chế ra món ăn hỗn hợp này để nhiều người cùng được hưởng mùi vị thịt cá thơm ngon.
Từ xưa ông bà ta đã có ý thức là phần “cái” là phần bổ dưỡng hơn “nước” nhiều (Khác
với người Hoa trọng phần nước hơn nên thường hầm ninh thật lâu cho thịt cá ra nước),
nên đã có câu tục ngữ: “Khôn ăn cái, dại ăn nước”.


Ba miền trên dải đất hình chữ S đều có những tơ canh đặc sản riêng, thứ canh cũng
ngon và mang đậm hồn quê. Miền Bắc thì có:


“Cá rô, canh cải nấu gừng
Ăn thì ăn chớ xin đừng mỉa mai”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

“Chồng chê thì mặc chồng chê
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.”


Những ruộng rau cần là một nét đẹp của đồng quê miền Bắc, là niềm ao ước của các
bậc sinh thành, mong sao khi tuổi già xế bóng có con cháu quây quần bên cạnh:


“Có con mà gả chồng gần


Có bát canh cần, nó cũng đem cho”.


Một loại rau cũng mang nặng lời tự tình dân tộc, nhắc ra các bạn sẽ à lên một tiếng
vì sự quen thuộc của nó: rau muống. Rau muống nấu canh là món ăn biết bao thân
thương, càng thân thương khi do bàn tay người con gái mà ta yêu quý nấu lên:
“Anh đi anh nhớ quê nhà



Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.”


Ở miền ngược, người ta cũng nấu canh bằng những thứ rau rừng có cái tên lạ lẫm,
nhưng không kém phần thiết tha, bởi người nấu đã gởi tâm hồn mình vào đó:


“Em ăn thịt nai tươi


Chớ quên bát canh suông rau mác”.


Ở miền Trung, có món canh “giựt chồng” của một người đẹp nào đó kiêu hãnh với
tài nội trợ quán quân của mình, đã tuyên chiến với các bà vợ:


“Cá nục nấu với dưa hồng
Lơ mơ có kẻ mất chồng như chơi”


Mấy anh chàng Bình Định thực tế , vốn quê hương xứ dừa, không bỏ qua cơ hội lấy
tô canh quê hương để “nhem thèm” các cô gái xứ lạ:


“Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa”.


Cịn miền Nam, ruộng đồng bát ngát cị bay, tơm cá đầy sơng, lại có thói quen tận
dụng tất cả các thứ cây lá ăn được ngồi đồng thì món canh đương nhiên là phong phú,
mời bạn đọc một lượt:


“Canh chua điên điển cá linh
Ăn có một mình thì chẳng biết ngon”
“Khơng gì bằng cá nấu canh



Bỏ bông so đũa mới rành dân quê”
“Rau đắng nấu với cá trê
Ai đi lục tỉnh thì mê không về.”
“Thịt chuột nấu chua lá giang
Chẳng có gì bằng cái thú đồng quê”.


Tính ra thì phở, bún, mì, hủ tiếu… cũng là những thứ canh cao cấp, ca dao cũng
không bỏ qua đề tài hấp dẫn này, nhưng kể ra còn nhiều, xin hẹn lại dịp khác. Có tác giả
nói thế này: “Đời đời đi về với canh, dân Việt mình có người rủ nhau ngoi đến cái tình lý
của canh như đã làm với bánh dầy, bánh chưng để mà cho rằng cái món nửa nước nửa cái
này biết đâu chẳng là ảnh tượng sâu xa về quê hương nửa nước nửa cạn lúc ban sơ, về
một cội nguồn có nửa anh theo mẹ lên núi, nửa em theo cha xuống biển. Có người cịn
khẳng định rằng trong canh có cả âm dương, ngũ hành.”




<b>Bó rau tương tư </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

đi hành tội những cọng rau yếu đuối trong vườn nhà hay trên bờ ruộng vậy chớ? Rau mà
biết nói chắc cũng phải “ui da” vì bàn tay “vũ phu” của mấy anh chàng có bản tính… thỏ


đế:


“Thò tay ngắt cọng rau ngâu
Thấy em còn nhỏ, giữ trâu anh buồn”


“Ngồi buồn ngắt cọng rau mơ
Anh thương em bậu, nỡ làm ngơ sao đành”


“Thị tay vói ngắt cọng ngị


Thương em đứt ruột, giả đị ngó lơ.”


Khơng biết chàng ngập ngừng bao ngày bao tháng, chỉ tội cho cái vườn rau xác xơ khơng
cịn một cọng! Bữa nọ, chàng chắc uống mật gấu nên bạo dạn xơng tới “tỉnh tị” làm nàng


hoảng kinh:


“Rau muống bắt cuống rau răm
Làm chi đến nổi chàng cầm cổ tay?”


Ôi, cầm cái cổ tay ngà ngọc có nghĩa lý gì so với tháng đợi năm chờ cái cơ hội ngàn năm
một thuở này chớ:


“Chờ em cho hết sức chờ
Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông”


Vậy mà người ta nỡ nào “bốp chát” bằng một câu phũ phàng hết sức:
“Rau muống trổ bơng lên bờ nó trổ


Ai biểu anh chờ mà kể cơng lao.”


Ừ, giỏi thì cứ “già kén chẹn hom” đi! Chắc chắc ngày nào đó cơ nàng đỏng đảnh này sẽ
gặp quả báo cho coi:


“Chê tôm lại phải ăn tôm
Chê rau muống luộc, lại ôm rau già”.


Rau già ở đây là một ông chồng không vừa đôi phải lứa, để cho nàng phải than thở nỉ
non:



“Cực lòng em phải lấy anh
Rau lang chấm muối, ngon lành gì đâu”


Thấy em như vậy, anh cũng đau lòng lắm nhưng ván đã đóng thuyền, cịn cứu vãn gì
được nữa. Thơi thì anh cũng nối một tiếng than gửi cho… rau cỏ vơ tình:


“Rau lang trắng ngọn ngắn ngọn dài
Cải tần ô cọng dọc cọng ngang
Trái dưa gang sọc đen sọc trắng
Ngọn rau đắng trong trắng ngoài xanh


Con chim quyên uốn lưỡi trên cành
Bởi vì em ở bạc, ông trời đành rẽ đôi.”


Vậy là trọn tình trọn nghĩa với cố nhân, bây giờ anh lo tìm duyên khác kẻo “ê sắc” thì
nguy. Kỳ này, chàng rút kinh nghiệm hơn nhiều nên đắn đo cân nhắc:


“Đói lịng ăn đọt rau lê


Tìm nơi nhân hậu, hơn bề giàu sang.”


Và cách thổ lộ của chàng cũng táo bạo hơn nhiều lắm. Không biết nàng nghe câu đố này
có đỏ mặt thẹn thùng hay khơng:


“Chàng áo xanh, thiếp cũng áo xanh
Rủ nhau xuống tắm bờ sơng Ngân Hà


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Mình trắng như ngà, lại đội nón xanh”


Đố bạn đó là giống rau gì? Nó là cọng giá, sinh ra từ hột đậu xanh , nảy thành cái mầm


trắng nõn, cịn dính vỏ xanh trên đầu, câu đố nghe thật văn vẻ và tình tứ. Thật may mắn


cho chàng, lần này gặp được người hữu tình:
“Mưa lâm râm, ướt dầm lá cải


Em cảm thương người áo vải mong manh.”


Trải qua bao sóng gió, rồi họ cũng nói được lời thề giản dị nhưng son sắt:
“Thiếp nguyện với chàng một sàng rau má


Chàng nguyện với thiếp một lá rau mưng
Chàng ăn, thiếp nhịn, xin đừng bỏ nhau”.

<b> Đặc sản Quảng Nam</b>



Mời các bạn cùng điểm qua những món mon vật lạ của đất Quảng, nơi có phố
cổ Hội An và dịng sơng Thu Bồn:


“Tiếng đồn mì Quảng Phú Chiêm
Cao lầu Phố Hội, mắm nêm Cẩm Hà


Tam Kỳ có món cơm gà
Nam Ô nước mắm đậm đà thơm ngon


Đại Lộc nhiều trái bịn bon


Khoai lang Trà Đóa, Quế Sơn nếp mường
Cẩm Sa có giống lúa vàng


Gạo ngon thơm phức, trăng trịn mùa thu
Bàn Lãnh có gốc mù u



Cá trôi mùa lũ, sông Thu chảy về
Vĩnh Điện chả lụa khỏi chê
Xu xoa Khúc Lũy, thịt bê Chợ Cầu


Quán Rườn, Chợ Đước Câu Lâu
Bánh tráng cá hấp ở đâu ngon bằng?


Cá thu, cá rựa, cá phèn


Kho rim nước mắm đâu bằng Hội An
Tằm dâu là xứ Trường Giang
Đông Yên bủa kén, nhộng non mít xào


Mỹ Xuyên bí rợ bí đao
Mía mưng, nón lá quai thao tóc thề


Duy Trinh đắp đập khai đê
Cho cây thêm trái sum suê đầy vườn


Đó là đặc sản quê hương


Quảng Nam, Đà Nẵng tình thương q nhà
Tứ Câu có giống vịt ta


Khế non, chuối chát, ớt pha mắm gừng.”


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

các bạn sáng tác cho Sài Gòn coi, hổng chừng sau này hóa thành ca dao thì sao?

<b>Chẩn đoán bệnh anorexie (chán ăn) trong ca dao</b>




Nguyên nhân đầu tiên và phổ biến nhất của bệnh chán ăn theo như ca dao tả là do
thất tình hoặc tương tư. Lúc đó dẫu ăn cao lương mỹ vị bực nào cũng khơng biết ngon.
Ơi, trong tim vang dội chữ nhớ, nhớ… và nhớ…


“Nhớ ai cơm chẳng buồn ăn
Hồ bưng lấy bát lại dằn xuống mâm”


“Thương ai trong dạ lao lư


Cơm ăn đôi đũa rớt răng chừ không hay.”
“Ăn cơm sao được mà mời


Nước mắt lênh láng, rã rời hạt cơm.”


Nỗi nhớ khiến cho cơ gái đau lịng nhìn mâm thức ăn hấp dẫn mà sầu dâng như sóng
biển:


“Mâm thau chùi sáng
Để dưới ván thấy hình


Cháo đậu xanh kia, đường cát trắng nọ, nhớ mình quên ăn.”


Đặc biệt hơn, có anh chị vì nhớ nhung mà ăn… khơng thèm nhai, nếu vậy thì chắc
chắc sau này sẽ đau bao tử vì thất tình chứ khơng phải ho ra máu chết như Lương Sơn Bá
hay Trà Hoa Nữ:


“Ngủ mười đêm, đêm nào cũng nhớ
Ăn mười bữa, mười bữa quên nhai
Sầu tương tư ruột ngắn tình dài



Trách ông tơ bà nguyệt xe chi một lát một ngày rồi chịu xa nhau.”
Trước mắt, người thất tình khơng chịu nhai cơm phải… mắc nghẹn:
“Cơm ăn cũng nghẹn, nước uống cũng nghẹn


Theo lời bạn hẹn, đứng giếng mà trông
Giếng thì thấy giếng, mà khơng thấy người.”


Một mình ên bỏ ăn đã đành, có khi vì một người thất tình mà cả nhà nhịn đói bởi
hậu quả của nỗi đau bất ngờ đến bàng hoàng là:


“ Em đang vút nếp đồ xôi


Nghe anh lấy vợ, thúng trơi nếp chìm”.


Buồn quá không ăn đã đành, mà vui mừng hưng phấn q, cũng khơng thiết gì đến
ăn uống. Hãy nghe cô nàng ham vui sau đây tâm sự:


“Em đang so đũa ăn cơm
Tai nghe hát hố đầu hôm trên này
Ra đi, chị đánh, mẹ rầy


Không đi, bạn ở trên này bạn trông.”


Cịn chàng thì sợ ăn no q sẽ ảnh hưởng đến mối tình đang dào dạt trong lịng, hay
sợ nàng cho mình là hạng ham ăn hóc uống:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Uống nước cầm chừng, để dạ thương em.”


Khi chưa lấy được nhau, ăn ít vì nhớ nhung, hồi hộp, cịn lấy được cũng khơng
thèm ăn vì q hạnh phúc:



“Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp vợ đẹp những nhìn mà no”


Nhưng ngồi lý do tình cảm, có những bữa ăn nuốt khơng nổi vì q kham khổ:
“Mẹ nghèo cơm hẩm cá ươn


Con ơi nín khóc mà thương mẹ nghèo”


Dầu bữa cơm của mẹ có đơn sơ đạm bạc nhưng vẫn chan chứa tình thương, chớ
bữa ăn “đổ mồ hôi sôi nước mắt” nhờ vả người dưng nước lã mới thật sự là nuốt không
trôi:


“Cơm cha cơm mẹ đã từng
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người
Cơm người khổ lắm mẹ ơi


Chả như cơm mẹ, vừa ngồi vừa ăn.”


Mà thường thì chán ăn là chán cơm, tức bữa ăn cơ bản, hình như khơng ai chán
bánh!


<b> Những đôi đũa lệch </b>



Trong tình duyên chồng vợ, ngồi những cặp un ương vừa đơi phải lứa như
“cốm hồng đẹp đơi” thì có những cặp gắng gượng mà sống với nhau trong cảnh bằng mặt
chẳng bằng lòng. Họ là những đôi đũa lệch, hay bị người đời đàm tiếu. Thật ra, người
trong cuộc nhiều khi cũng chỉ là nạn nhân của những cuộc hôn nhân ép uổng:


“Mẹ em tham thúng xôi rền


Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng


Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào


Bây giờ chồng thấp vợ cao
Như đôi đũa lệch kê sao cho bằng.”


Những đơi đũa lệch dở khóc dở cười này có thể là chồng già mà vợ trẻ nên sinh ra cái
cảnh:


“Cơm rồi múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm


Tối thì dắt cụ đi nằm


Than thân phận gái, phải chăm lão già”


Có cơ đành an phận, tự an ủi mình một cách gượng gạo bởi chồng tuy già nhưng lắm tiền
nhiều bạc:


“Có duyên lấy được chồng già
Ăn cơm bỏ cháy, ăn gà bỏ xương”.


Thế nhưng, đa phần nhắn lại một lời khuyên chua chát:
“Mua thịt thì chọn thịt mơng


Lấy chồng chớ chọn dở ơng dở thằng”


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

“Thứ nhứt vật vợ xó nhà


Thứ nhì vật chó, thứ ba vật mèo


Thứ tư vật đến nồi niêu


Thứ năm vật bát bún riêu làng Nghè”.


Những mối dun cắc cớ ấy để lại trong lịng cơ gái và bà con thân thuộc bao sự tiếc
rẻ kiếp “hồng nhan bạc phận” (chớ không phải bạc triệu!) được diễn tả rất cụ thể qua
nguyên liệu nấu ăn “trớt quớt” như sau:


“Lỡ duyên nên phải ưng anh
Tiếc con tôm bạc nấu canh rau dền”
“Tiếc con tôm rằn mà nấu canh rau má


Tiếc con cá bống mà nấu lá cỏ hôi”
“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục, lại vần lửa rơm”


“Tiếc thay hạt gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan tương cà.”


“Gỗ trắc đem bắc ván cầu
Yến sào đem nấu với đầu tôm khô”.


Các bạn cũng thấy những món được coi là cao quý như gạo tám xoan, yến sào mà
lại đi với những phụ gia quá tệ như tương cà hay đầu tơm khơ thì thật phí phạm, ví như
thân phận người con gái may nhờ rủi chịu ngày xưa.


Cứ tưởng làm trai thì sướng, nhưng nếu vì ham tiền, ham tài sản mà cưới vợ già
cũng kỳ lắm lắm:



“Vô duyên lấy phải vợ già
Ăn cơm phải đút, bẩm bà nuốt đi”.


Dầu sao anh này cũng tự an ủi rằng vợ già cũng khéo như… má anh:
“Canh bầu mà nấu cá trê


Ăn vô cho mát mà mê vợ già”.


Nếu có điều kiện nhận ra kịp thời để tránh những đời trớ trêu như trên thì thật may mắn,
như cơ nọ hú hồn hú vía dừng lại đúng lúc:


“May khơng chút nữa em lầm


Khoai lang xắt lát, mà tưởng nhân sâm bên Tàu”.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×