Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tuc kieng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.98 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> </b>



<b> Tục kiêng “huý” và hiện tượng </b>


<b> biến đổi từ trong ngôn ngữ địa phương </b>



Theo “<i>Hán Việt từ điển</i>” của Đào Duy Anh, “h” được giảng nghĩa: kiêng khơng
được nói đến. Nhiều triều đại phong kiến, tục kiêng huý như là quy tắc bắt buộc trong các
văn tự.


Ở nước ta, tục lệ này không biết xuất hiện từ đời nào, chỉ biết rằng sách “<i>Đại Việt sử ký</i>
<i>tồn thư</i>”, quyển V có chép “...<i>năm Nhâm Thìn, Kiến Trung năm thứ 8 (1232), vào mùa </i>
<i>hạ, tháng 6, (Trần Thái Tông, tức Trần Cảnh - P.T.M chú giải) ban bố chữ quốc huý và </i>
<i>miếu huý. Vì nguyên tổ tên huý là Lý mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng để </i>
<i>dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng”</i> (sđd, t.2, bản dịch của NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1983).


Khơng biết ngun tổ nhà Trần có phải tên h là Lý hay khơng, nhưng lệnh vua đã
ban thì thần dân phải thi hành; và đương nhiên con cháu nhà Lý phải từ bỏ gốc gác họ
hàng của mình để được tồn tại(!). Và từ đó đến mãi thời nhà Nguyễn, lệnh kiêng huý tiếp
tục duy trì, nhiều thời được áp dụng một cách khắt khe.


Ngoài tên riêng là nguyên tổ và vua, nhiều khi tên của những người thân thuộc với vua
cũng được kiêng như: cha, mẹ, vợ, con, anh, em,... và có khi đến hàng ơng nội, bà nội,
tên giả, chữ đệm của vua cũng được kiêng.


Sau khi lên ngôi, Vua Gia Long cấm thần dân nói và đọc tên riêng của mình là Ánh
(Nguyễn Phúc Ánh) và cả tên con trai của mình đã chết trước đó là hồng tử Cảnh
(Nguyễn Phúc Cảnh) nên các trường hợp trùng âm phải đọc chệch thành yến, kiểng (ví
dụ: ánh sáng - yến sáng, cây cảnh - cây kiểng...).


Vua Tự Đức vốn là nhà thơ, uyên thâm chữ nghĩa nhưng tính tình hẹp hịi và lắm cố


tật, dễ giật mình nên bắt thần dân kiêng nhiều chữ đến mức vô lý trong đời sống ngôn
ngữ và xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ngày xưa sĩ tử thi cử, trước hết phải thuộc các chữ cần phải kiêng để mà làm bài khỏi
phạm huý (đồng nghĩa với phạm quy). Theo PGS.TS Lê Trung Hoa trong “<i>Họ và tên </i>
<i>người Việt Nam</i>” (NXB Khoa học xã hội, 2005), Phan Văn San phải đổi thành Phan Bội
Châu để được đi thi, vì lẽ chữ San trùng với tên huý “Vua Duy Tân là Vĩnh San. Tuy
nhiên theo chúng tôi, Vua Duy Tân sinh năm 1900, đúng năm Phan Bội Châu thi hương
và đỗ đầu, mãi đến năm 1907 (khoa Canh Tý) Vĩnh San mới lên ngơi, vì vậy việc đổi tên
của cụ Phan là vấn đề cần nói lại cho rõ.


Từ quy định của vua ra lệnh, nhiều thời đã thành lệ “bất thành văn” được phổ biến đến
dòng tộc riêng và cả thái độ ứng xử với người lớn tuổi. Việc đặt tên cho trẻ sơ sinh cũng
phải tra cứu gia phả của cả dòng tộc hai bên nội-ngoại để mà tránh trùng tên với bậc bề
trên; nếu mắc phải được xem như là hỗn láo. Thời chưa trưởng thành, người viết bài này
(sinh cuối năm 50 thế kỷ trước) vẫn không biết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của
mình tên thật là gì, vì thời ấy mọi người thường gọi những người lớn tuổi theo tên con cả
(ở miền Nam thường gọi là con thứ hai).


Lý giải các hiện tượng tộc <i>Huỳnh</i> hiện diện từ Quảng Nam trở vào Nam, nhiều nhà
nghiên cứu gia phả của tộc này đều cho rằng: xuất xứ của nó là tộc <i>Hồng</i> có gốc gác
vùng Thanh Hố - Nghệ An, do kiêng tên huý của Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) mà nói
trại thành (tương tự: Võ - Vũ, Châu - Chu, Phúc - Phước...). Dấu tích các hiện tượng này
dễ thấy rõ ở miền Nam, ở miền Bắc hầu như không kiêng mấy (?). Tuy nhiên, ngay tại
Huế (kinh đô dưới triều Nguyễn) và các vùng lân cận thì hiện tượng này khơng rõ lắm. Vì
ngay ở Huế vẫn tồn tại tộc Hoàng(?).


Ngồi hiện tượng nói trại do kiêng h, nhiều danh từ khác cũng được nói trại so với
ngơn ngữ phổ thông như: <i>đàn</i> (nhạc cụ) thành <i>đờn</i>, <i>hoa</i> thành <i>huê</i>, <i>sinh</i> (đẻ) thành <i>sanh</i>,



<i>chính</i> (chính trị, hành chính, chính sách, chính nghĩa,...) thành <i>chánh</i>, <i>nàng</i> thành <i>nường,</i>
<i>hồng</i> (hoa hồng) thành <i>hường</i>, <i>phụng</i> (loài chim) thành <i>phượng</i>, <i>long</i> thành <i>luông</i> v.v...
Những trường hợp này chưa thấy một ai giải thích cặn kẽ dưới gốc độ ngơn ngữ học.
Mong rằng sẽ có lời giải đáp khoa học.


Ngày nay, những quy định về kiêng h khơng cịn tác dụng nữa. Bởi lẽ nó là hình
thức q vơ lý với đời sống ngơn ngữ và xã hội một thời; mặt khác nó khơng phải là
phong tục tốt đẹp mà chúng ta cần phải giữ gìn.


Do vậy, người viết bài này mong những người có trách nhiệm hãy trả lại tên thật cho
những danh nhân đất Việt đã một thời do kiêng huý hoặc lý do nào đó mà biến thành tên
khác như Ngơ Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm), Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh), Châu
Thượng Văn (Chu Thượng Văn)...


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×