Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Bảo vệ quyền con người bằng những quy định về trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự việt nam năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.97 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG AN

B¶O VƯ QUN CON NGƯờI
BằNG NHữNG QUY ĐịNH Về TRáCH NHIệM HìNH Sự
TRONG Bé LT H×NH Sù VIƯT NAM N¡M 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HỒNG AN

B¶O VƯ QUN CON NGƯờI
BằNG NHữNG QUY ĐịNH Về TRáCH NHIệM HìNH Sự
TRONG Bé LT H×NH Sù VIƯT NAM N¡M 2015
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Những kết quả được trình bày trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
bảo đảm tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả
các mơn học và thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc
gia Hà Nội xem xét để tơi có thể bảo vệ luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng An


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ......................................9
1.1.

Khái quát chung về quyền con người và trách nhiệm hình sự ...............9

1.1.1.


Khái niệm, đặc điểm quyền con người .........................................................9

1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự ............................................10

1.2.

Khái niệm, ý nghĩa, nội dung của việc bảo vệ quyền con người
bằng những quy định về trách nhiệm hình sự trong luật hình sự ........14

1.2.1.

Khái niệm bảo vệ quyền con người bằng những quy định về trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự .................................................................14

1.2.2.

Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con người bằng những quy định về
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự ........................................................17

1.2.3.

Nội dung bảo vệ quyền con người bằng những quy định về trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự .................................................................20

1.3.

Khái quát lịch sử luật hình sự từ sau Cách mạng tháng 8 năm

1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 về bảo vệ
quyền con người bằng những quy định về trách nhiệm hình sự ..........23

1.3.1.

Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự năm 1985 ...................................................................23

1.3.2.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................................28

1.3.3.

Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ............................................................32


Chương 2: SỰ THỂ HIỆN NỘI DUNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
BẰNG NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 VÀ THỰC
TIỄN THỰC THI ......................................................................................36
2.1.

Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng những quy định
về trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 .........36

2.1.1.


Cơ sở của trách nhiệm hình sự ....................................................................36

2.1.2.

Các hình thức thực hiện của trách nhiệm hình sự .......................................41

2.2.

Thực tiễn thực thi việc bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự ...............................58

2.2.1.

Các kết quả đạt được ...................................................................................58

2.2.2.

Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản ..........................................66

2.2.3.

Các nguyên nhân cơ bản .............................................................................78

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬTHÌNH SỰ NĂM 2015 LIÊN QUAN ĐẾN TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ THEO HƯỚNG TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ...... 80
3.1.

Yêu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự

năm 2015 liên quan đến trách nhiệm hình sự theo hướng tăng
cường bảo vệ quyền con người và các giải pháp bảo đảm áp dụng .....80

3.1.1.

Về mặt chính trị - xã hội..............................................................................81

3.1.2.

Về lý luận và thực tiễn ................................................................................82

3.1.3.

Về mặt lập pháp...........................................................................................84

3.2.

Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự
năm 2015 liên quan đến trách nhiệm hình sự theo hướng tăng
cường bảo vệ quyền con người .................................................................85

3.2.1.

Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật,
nâng cao đạo đức, ý thức trách nhiệm của mọi cán bộ và quần chúng
nhân dân ......................................................................................................85

3.2.2.

Tăng cường cơng tác hướng dẫn, giải thích quy định của Bộ luật hình

sự năm 2015 liên quan đến trách nhiệm hình sự .........................................86


3.2.3.

Tăng cường năng lực pháp luật, ý thức pháp luật và nâng cao trách
nhiệm nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự..........................87

3.2.4.

Tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát việc áp dụng pháp luật hình
sự, áp dụng hình phạt và hồn thiện cơ chế xử lý trách nhiệm đối với
cán bộ tư pháp .............................................................................................89

KẾT LUẬN ..............................................................................................................91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

CAND:

Cơng an nhân dân

NXB:


Nhà xuất bản

PLHS:

Pháp luật hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền con người luôn là vấn đề được mỗi
quốc gia đặc biệt quan tâm; việc thúc đẩy, bảo vệ hạnh phúc, phẩm hạnh của con
người luôn là mục tiêu cao nhất của các dân tộc trên thế giới. Ngày nay, việc bảo
vệ, tôn trọng, phát huy quyền con người đang dần trở thành thước đo của nền văn
minh, tiến bộ của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, công lý phải luôn luôn được
bảo đảm trên mọi phương diện. Quyền con người và những bảo đảm pháp lý về
quyền con người ngày càng được coi trọng, chú ý và phát triển thành hệ thống phù
hợp với tiêu chuẩn quốc tế, mang tính bắt buộc đối với mọi quốc gia.
Mặc dù không phải là quốc gia đầu tiên nêu ra các vấn đề về quyền cơ bản

của con người, nhưng Việt Nam là một trong số ít các quốc gia sớm tiếp cận về
quyền con người, đồng thời có nhiều nỗ lực để đạt được những kết quả tích cực
trong việc bảo đảm quyền con người. Có thể nói, dù cịn nhiều thách thức, Việt
Nam luôn nỗ lực để người dân ngày càng được thụ hưởng tốt hơn quyền con người
và thành quả của công cuộc phát triển đất nước.
Cùng với quá trình hội nhập và phát triển với các quốc gia trên thế giới, Việt
Nam cũng đã có những nỗ lực mạnh mẽ trong việc bảo vệ và phát triển quyền con
người. Một trong những minh chứng cho điều này phải kể đến những quy định của
pháp luật hình sự (PLHS) nói chung và đặc biệt quy định về trách nhiệm hình sự
(TNHS) nói riêng - lĩnh vực có những ảnh hưởng sâu sắc, nghiêm khắc, có khả
năng xâm phạm cao đến quyền và số phận pháp lý của con người, trong việc bảo vệ
quyền con người. Vì vậy, Tun ngơn Quốc tế Nhân quyền (về các quyền cơ bản
của con người) được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 10/12/1948, tại
Ðiều 11, khoản 1, đã quy định như sau: “Khi truy tố trước pháp luật, mọi người
được xem là vô tội, cho đến khi pháp luật chứng minh là có tội, trong một phiên tịa
cơng khai và tịa án này phải cung ứng tất cả mọi bảo đảm cần thiết cho quyền biện
hộ của đương sự”. PLHS cần thiết cho việc duy trì trật tự xã hội. Đời sống xã hội
chỉ ổn định và phát triển nếu tự do của mỗi người được thực thi trên cơ sở tôn trọng
quyền tự do của người khác.

1


Khẳng định về quyền con người, mở đầu Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai
đoạn văn bất hủ trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789. Tuyên bố trước quốc
dân đồng bào và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do”.

Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên sự phát triển quyền tự nhiên
của con người đến quyền độc lập, tự do của dân tộc; khẳng định sự thống nhất biện
chứng giữa quyền dân tộc và quyền con người với tư duy pháp lý của nhân loại tiến
bộ, không xa lạ với những chân lý phổ biến đã được coi là thành quả văn minh của
lồi người. Nói cách khác, thông qua khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền
bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn
nhấn mạnh quyền con người chỉ thực sự được bảo đảm khi gắn liền với quyền độc
lập, tự do của dân tộc.
Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp năm 1946,
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001
đến Hiến pháp năm 2013 luôn giữ một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con
người và quyền công dân. Đặc biệt, việc thông qua bản Hiến pháp này đánh dấu
bước tiến quan trọng của Việt Nam trong nhận thức về quyền con người cũng như
trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực.
Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 khẳng định nguyên tắc chung về quyền con
người, quyền công dân như sau: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong các trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng; Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân;

2


Mọi người có nghĩa vụ tơn trọng quyền của người khác; Cơng dân có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; Việc thực hiện quyền con người,
quyền cơng dân khơng được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác; Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Khơng ai bị

phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị được thể hiện
trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, đã nhận định:
Địi hỏi của cơng dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng
cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm [2, tr.1].
Hiến pháp năm 2013 ra đời, cùng với hàng loạt các đạo luật mới được thông
qua với các chế định tăng cường hơn nữa việc ghi nhận tôn trọng bảo vệ và bảo đảm
quyền con người, trong đó có những quy định về việc bảo vệ quyền con người trong
PLHS. Tuy nhiên, với đó tình hình tội phạm hiện tiếp tục diễn biến phức tạp về chất
và lượng, số liệu thống kê năm 2019 thể hiện: tội phạm về tham nhũng, chức vụ
tăng 32,23%, đã khởi tố nhiều vụ án tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng, liên quan
đến nhiều cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước; tội phạm trật tự xã hội tăng
(3,95% về số bị can với nhiều vụ án giết người dã man, giết nhiều người; tội phạm
về ma túy tăng 12,62%, phát hiện nhiều vụ án về ma túy với số lượng ma túy vận
chuyển, mua bán trái phép rất lớn [75]. Thực trạng đó, đặt ra yêu cầu phải xử lý
nghiêm các hành vi phạm tội, bảo đảm an ninh trật tự, an tồn và mơi trường phát
triển lành mạnh cho tồn xã hội. Ngồi ra, q trình đấu tranh phịng, chống tội
phạm đồng thời phải bảo đảm việc tôn trọng và hạn chế đến mức thấp nhất việc ảnh
hưởng đến những quyền con người, quyền công dân không bị pháp luật tước bỏ
hoặc không cần thiết phải tước bỏ. Xã hội càng văn minh, PLHS cũng theo qui luật
tất yếu là ngày càng phát triển. Khuynh hướng phát triển cho thấy PLHS sẽ càng
ngày tôn vinh các giá trị nhân bản, bảo vệ quyền con người qua việc chế tài hành vi

3


cá nhân đối với xã hội, chẳng hạn như bị xem là phạm pháp nếu từ bỏ nghĩa vụ cấp

cứu người bị nạn hoặc vu khống nhằm bôi nhọ người khác. Hơn nữa, để hướng tới
một xã hội công bằng văn minh, tỷ lệ tội phạm giảm, một nền kinh tế phát triển
mạnh, bảo đảm cuộc sống bình yên của Nhân dân, việc nghiên cứu một cách có hệ
thống những quy định về TNHS đặt trong mối liên hệ với yêu cầu bảo vệ quyền
con người và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm là hết sức cần thiết, góp
phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, xã hội mà ở đó quyền tự do, dân chủ
của con người, của công dân được tôn trọng ở mức tối đa và pháp luật được đặt ở
vị trí tối thượng.
Với ý nghĩa đó, học viên quyết định lựa chọn thực hiện nghiên cứu đề tài:
"Bảo vệ quyền con người bằng những quy định về trách nhiệm hình sự trong Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 2015" để làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây vấn đề bảo vệ quyền con người bằng PLHS nói
chung và bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS nói riêng đã được
quan tâm nghiên cứu, trên một số khía cạnh khác nhau thể hiện trong các sách, giáo
trình, luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu, các bài báo khoa học … có thể liệt kê một
số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu, như:
Sách chun khảo: Hiện chưa có tài liệu chuyên khảo nào nghiên cứu một
cách chuyên sâu, riêng biệt về “Bảo vệ quyền con người bằng những quy định về
TNHS trong BLHS Việt Nam năm 2015”, tuy nhiên, có một số tài liệu chuyên khảo
có đề cập đến nội dung này như: Lê Văn Cảm, Sách chuyên khảo Sau đại học Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2005; Lê Văn Cảm, Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Trịnh Tiến Việt, Tội
phạm và TNHS, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013 Nguyễn Ngọc Chí (chủ
biên), Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Nxb Hồng Đức, Hà Nội,
2015; Khoa Luật, ĐHQGHN, Hỏi và đáp về quyền con người, Nxb Hồng Đức, Hà

4



Nội, 2011; Trịnh Tiến Việt (chủ biên), Bảo vệ tự do và an ninh cá nhân bằng PLHS
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2015; Khoa Luật, ĐHQGHN, Quyền con người:
Tập hợp những bình luận/khuyến nghị chung của Ủy ban Cơng ước Liên Hợp Quốc,
Nxb CAND, Hà Nội, 2010….
Giáo trình: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung) của Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2001; Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, Hà Nội,
2000; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2016; GS.TS Nguyễn Đăng Dung,
TS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận và
pháp luật về quyền con người”, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010…
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến nội dung bảo vệ quyền con người
bằng PLHS ở góc độ nghiên cứu chung với những quy định khác trong BLHS, vì vậy
mà chưa đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách độc lập về bảo vệ quyền con người
bằng những quy định về TNHS trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng.
Bên cạnh đó cịn có các bài viết, các cơng trình nghiên cứu khác đã đề cập
đến các khía cạnh khác nhau của việc bảo vệ quyền con người bằng những quy định
về TNHS trong luật hình sự: Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản
(đồng chủ trì), Bảo vệ các quyền con người bằng PLHS và pháp luật tố tụng hình sự
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QL. 04.03, Hà Nội, năm 2006; Lê Văn
Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp hình sự, Tạp chí Tồ án nhân dân, số 13/2006, tr. 8-17; Lê Văn
Cảm, Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong
lĩnh vực tư pháp hình sự, tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2010, tr. 3-9; Lê Lan Chi,
Bảo vệ quyền con người bằng PLHS trong tiến trình nội luật hóa Cơng ước chống
tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vơ nhân đạo làm mất phẩm giá khác,
tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 4/2017, tr. 3-8; Đào Trí Úc, Cải cách tư pháp hình
sự và vấn đề phịng, chống oan, sai, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 04/2005….

Ở cấp độ luận văn: Phùng Thanh Mai, Bảo vệ quyền con người bằng các quy

5


phạm về các biện pháp tha miễn trong PLHS, luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật,
ĐHQGHN, 2014; Giáp Mạnh Huy, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các
quyền con người bằng PLHS Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật,
ĐHQGHN, 2014; v.v...
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu về mặt pháp lý và thực tiễn về bảo vệ
quyền con người bằng PLHS Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu ở góc độ luận
văn thạc sĩ. Tuy nhiên, rất ít có cơng trình nghiên cứu cụ thể nào về việc bảo vệ
quyền con người bằng những quy định về TNHS trong luật hình sự Việt Nam, đặc
biệt từ khi BLHS Việt Nam năm 2015 đến nay. Bên cạnh đó, các luận văn nghiên cứu
về bảo vệ quyền con người bằng PLHS Việt Nam dựa trên quy định của các văn bản
pháp luật cũ trước đây. Do đó, việc nghiên cứu nội dung pháp lý về bảo vệ quyền con
người bằng những quy định về TNHS trong luật hình sự Việt Nam vẫn là đề tài mới
có tính thời sự cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS trong
BLHS Việt Nam hiện hành. Trên cơ sở đó, đề ra những kiến nghị tiếp tục hoàn
thiện quy định về TNHS trong PLHS Việt Nam theo hướng tăng cường bảo vệ
quyền con người và các giải pháp bảo đảm áp dụng.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ khái niệm, ý nghĩa, nội dung của việc bảo vệ quyền con
người bằng những quy định về TNHS trong luật hình sự.
- Phân tích sự thể hiện của những quy định về TNHS trong BLHS Việt Nam

hiện hành trong việc bảo vệ quyền con người.
- Đề xuất kiến nghị tiếp tục hoàn thiện những quy định về TNHS trong
BLHS Việt Nam, cũng như các giải pháp khác theo hướng tăng cường bảo vệ quyền
con người bằng những quy định về TNHS.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định về TNHS trong BLHS
năm 2015 thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người và thực tiễn thi hành những
quy định này đối với người phạm tội.
b. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung: luận văn nghiên cứu những quy định về TNHS trong việc
bảo vệ quyền con người trong PLHS, trong đó tập trung nghiên cứu những quy định
về TNHS trong việc bảo vệ quyền con người trong BLHS Việt Nam năm 2015 đối
với người phạm tội (không nghiên cứu đến pháp nhân thương mại phạm tội).
Về không gian và thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn áp dụng
những quy định về TNHS trong việc bảo vệ quyền con người trên địa bàn cả nước
ta từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp luận
Việc nghiên cứu nội dung luận văn, dựa cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng Hồ
Chí Minh và chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
b. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chung, cũng như các phương pháp nghiên cứu đặc thù đối với ngành

luật hình sự, cụ thể là:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp lịch sử
- Phương pháp thống kê, đánh giá dựa trên số liệu thực tế kết quả đấu tranh
phòng chống tội phạm của các ngành tư pháp và một số phương pháp khác

7


6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
a. Ý nghĩa khoa học
Trước hết, kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa lý luận quan trọng
trong việc nâng cao nhận thức của các cán bộ tư pháp trong việc khởi tố, điều tra,
truy tố và xét sử bảo đảm áp dụng có căn cứ và đúng pháp luật những quy định của
PLHS liên quan đến TNHS.
Ngoài ra, với kết quả nghiên cứu, luận văn góp phần làm phong phú, đa dạng
them kho tàng lý luận PLHS về TNHS và việc bảo vệ các quyền con người bằng
những quy định về TNHS.
b. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn cũng có ý nghĩa thực tiễn trong việc phịng ngừa oan, sai, khơng
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, khơng bỏ lọt tội phạm,
khơng làm oan người vơ tội, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người để tăng
cường lòng tin của nhân dân với cơ quan tư pháp.
Đặc biệt, với một số kiến nghị và giải pháp bảo đảm áp dụng, luận văn cịn
góp phần tăng cường hơn nữa yêu cầu bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về TNHS trong PLHS nước ta, nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng
ngừa và chống tội phạm, cũng như hoàn thiện cơ chế xử lý trách nhiệm đối với
các cán bộ tư pháp làm chưa đúng những quy định về TNHS trong việc bảo vệ

quyền con người.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về TNHS trong luật hình sự.
Chương 2. Sự thể hiện nội dung bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về TNHS trong BLHS năm 2015 và thực tiễn thực thi.
Chương 3. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm
2015 liên quan đến TNHS theo hướng tăng cường bảo vệ quyền con người và các
giải pháp bảo đảm áp dụng.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về quyền con người và trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền con người
Có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người: Trên phương diện
nghiên cứu khoa học pháp lý, thì quyền con người là "những nhu cầu, lợi ích tự
nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [29, tr.15]”. Tại buổi quán triệt
Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) của Đảng ủy TAND tối cao ngày 26/02/2014
khi nói về những điểm mới về quyền con người, quyền công dân được quy định
trong Hiến pháp năm 2013, PGS.TS Trần Văn Độ khái quát: "Quyền con người là
quyền của cá nhân mà khi sinh ra vốn dĩ là đã có, cịn quyền cơng dân là quyền
được quy định cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước nó gắn liền với
quốc tịch của mỗi cơng dân". Đây là cách khái quát dể hiểu và cơ bản nhất về

quyền con người. Nó phù hợp với học thuyết về “quyền tự nhiên”(natural rights)
cho rằng quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra
đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ là thành viên của gia đình nhân loại. Như
vậy, khó có thể đưa ra một khái niệm chung, thống nhất về quyền con người, tuy
nhiên, trong xu thế tồn cầu hóa có thể nêu ra một số thuộc tính cơ bản của khái
niệm quyền con người như sau:
Thứ nhất, quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người vừa với tư
cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Về nội dung này, chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng: "Về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội [5, tr.4] ". Vì vậy,
quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân
tộc, cộng đồng.
Thứ hai, quyền con người là những giá trị phải được xã hội hóa bằng cách
thể chế hóa thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi người,
không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngơn ngữ, giới tính…
Thứ ba, quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là

9


những giá trị sản sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một Nhà nước cụ thể.
Ghi nhận quyền con người, pháp luật phản ánh các nhu cầu và khả năng khách quan
phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân chí cụ thể… Chỉ có thơng qua
pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội mới trở
thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Với
ba yếu tố trên đây, quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị
nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch
sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc [22, tr.9].
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự
TNHS là một trong những vấn đề lý luận phức tạp, là một thuật ngữ pháp lý
được sử dụng đối với người có hành vi vi phạm PLHS.
TNHS là hậu quả pháp lý trực tiếp của tội phạm, “TNHS khơng có gì khác

chính là hình thức Nhà nước mà phản ứng trước hiện tượng tội phạm” [80, tr.27].
Do đó, trước khi tìm hiểu về khái niệm TNHS, chúng ta phải tìm hiểu về hiện tượng
dẫn đến TNHS đó là tội phạm. Theo quy định của BLHS hiện hành:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS,
do người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích
hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị
xử lý hình sự [56, Điều 8].
Như vậy, dưới góc độ khái qt TNHS ln thể hiện mối quan hệ giữa hai
chủ thể là Nhà nước và người phạm tội, phải có việc truy cứu TNHS từ phía Nhà
nước mới dẫn đến việc phải chịu TNHS của người phạm tội. Bên cạnh đó, về chủ
thể phải chịu TNHS, nếu trước đây, quan niệm truyền thống và quy định của BLHS
năm 1985, sửa đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997, BLHS năm 1999, sửa đổi,

10


bổ sung năm 2009 đều coi TNHS là trách nhiệm cá nhân. Đến BLHS năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 để đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong xử lý những vi phạm
trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn
quyền lợi của những cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây
ra, BLHS năm 2015 đã bố sung thêm quy định về TNHS của pháp nhân thương
mại. TNHS của cá nhân hay TNHS của pháp nhân có sự khác nhau về chủ thể, hình
thức của TNHS mà chủ thể phải gánh chịu, tuy nhiên, lại có mối liên hệ chặt chẽ,
tác động qua lại biện chứng lẫn nhau vì cùng xuất phát trên cơ sở là việc thực hiện
hành vi mà BLHS quy định là tội phạm.

Từ những phân tích trên, theo học viên có thể đưa ra định nghĩa tổng quát về
TNHS như sau: TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất
lợi mà chủ thể phải gánh chịu trước Nhà nước do việc thực hiện tội phạm, được thể
hiện bằng việc Nhà nước áp dụng một hoặc nhiều chế tài do BLHS quy định đối với
người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội.1
Trên cơ sở định nghĩa về TNHS, học viên chỉ ra được một số đặc trưng cơ
bản của TNHS như sau:
Thứ nhất, TNHS là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất. Trách
nhiệm pháp lý gồm nhiều loại có thể kể đến như: TNHS, trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm kỷ luật… Tính nghiêm khắc áp chế vượt trội hơn của TNHS so với tất
cả các dạng trách nhiệm pháp lý khác thể hiện ở việc người phải chịu TNHS bị Tòa
án kết tội bằng bản án hoặc quyết định và có thể phải chịu hình phạt, các biện pháp
tư pháp và mang án tích trong lý lịch, trích lục tiền án, tiền sự. Hình phạt, biện pháp
tư pháp và án tích vừa là nội dung của TNHS vừa là hình thức thể hiện TNHS.
Thông qua việc quyết định bản án kết tội đối với một người, Tịa án đã thay mặt
Nhà nước chính thức kết án người phạm tội. Trong các hình thức thể hiện của
TNHS thì hình phạt là biện pháp cưỡng chế chủ yếu và nghiêm khắc nhất, hình
phạt khơng chỉ tước đi hoặc hạn chế quyền tự do, quyền tài sản, quyền chính trị
mà có thể tước bỏ cả quyền sống của người phạm tội. Tuy nhiên, trong luận văn,
học viên nghiên cứu TNHS chỉ gắn với người phạm tội, từ đó nghiên cứu việc

11


bảo đảm quyền con người thông qua những quy định về TNHS của BLHS năm
2015 hiện hành. Ngoài ra, người bị kết án có thể bị áp dụng các biện pháp tư
pháp như bị tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, trả lại tài sản, sử a
chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi, bắt buộc chữa bệnh, giáo
dục tại phường xã thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng. Sau khi chấp hành xong
hình phạt, người bị kết án cịn phải mang án tích trong một khoảng thời gian nhất

định hoặc vĩnh viễn tùy theo tội phạm mà họ thực hiện được quy định trong
BLHS. Việc có án tích cũng là điều kiện để xác định tái phạm, tái phạm nguy
hiểm trong vụ án hình sự nếu người bị kết án thực hiện hành vi phạm tội trong
thời gian chưa được xóa án tích.
Thứ hai, TNHS là sự phản ứng, lên án của Nhà nước trước hiện tượng tội
phạm. Nhà nước lên án, phản ứng đối với tội phạm thông qua việc truy cứu TNHS và
quy định việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với chủ thể thực hiện
hành vi phạm tội trong trong BLHS. Khi một chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, thì
Nhà nước sẽ thể hiện sự phản ứng bằng việc buộc họ “phải chịu sự tác động của hoạt
động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (như: hình
phạt, biện pháp tư pháp) và mang án tích" [24, tr.281].
Thứ ba, TNHS chỉ phát sinh trong quan hệ PLHS giữa một bên chủ thể là
Nhà nước mà đại diện là các cơ quan tư pháp có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
xử lý tội phạm và một bên là chủ thể phạm tội. Khi tham gia vào mối quan hệ
này, cả Nhà nước và chủ thể phạm tội đều có những quyền và nghĩa vụ nhất
định. Về phía Nhà nước khi phát sinh sự kiện phạm tội, Nhà nước có quyền khởi
tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với chủ thể phạm tội, tuy nhiên, Nhà nước cũng
phải có nghĩa vụ tuân thủ đầy đủ thủ tục tố tụng hình sự mà pháp luật quy định,
chỉ được thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn mà pháp luật quy định đang có hiệu
lực thi hành. Ngược lại, về phía chủ thể phạm tội, có nghĩa vụ phải thực hiện đầy
đủ các biện pháp cưỡng chế do Nhà nước quy định và áp dụng, tuy nhiên, có
quyền yêu cầu cơ quan tư pháp của Nhà nước phải thực hiện đúng quy định của

12


pháp luật, bảo đảm tính cơng bằng và nghiêm minh xun suốt trong tồn bộ q
trình giải quyết vụ án.
Hai nội dung (quyền và nghĩa vụ) thực hiện luôn song hành với hai chủ thể của
quan hệ PLHS là Nhà nước và người, pháp nhân thương mại phạm tội. “Các nội dung

này phát sinh và tồn tại khi còn tồn tại cơ sở pháp lý của TNHS phát sinh mối quan hệ
giữa hai chủ thể này đã được thể hiện ở Điều 2 BLHS năm 2015” [80, tr.33].
Thứ tư, TNHS mang tính chất cơng. Tính chất cơng của TNHS được thể hiện
ở việc trong mối quan hệ của PLHS luôn có một bên chủ thể là Nhà nước, trong đó
chỉ Nhà nước mới được trao quyền buộc chủ thể phạm tội phải chịu TNHS, đồng
thời, các chủ thể phạm tội phải chịu TNHS trước Nhà nước, trước pháp luật chứ
không phải trước cơ quan, đơn vị hay cá nhân nào. TNHS được thể hiện bằng bản
án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, ở đây Tịa án là cơ quan tư pháp nhân
danh quyền lực Nhà nước, có quyền kết tội bất kỳ chủ thể nào thực hiện hành vi
phạm tội, mà khơng có sự phân biệt về gia cấp, tầng lớp hay địa vị xã hội, hay nói
cách khác TNHS đặt ra đối với mọi chủ thể khi họ thực hiện hành vi mà luật hình sự
quy định là tội phạm; “định nghĩa tội phạm không để xảy ra trường hợp một tầng
lớp người thực hiện hành vi thì khơng bị pháp luật xử lý trong khi tầng lớp người
khác cũng thực hiện hành vi đó lại bị pháp luật xử lý" [72, tr.68.].
Thứ năm, hình phạt là một hình thức thực hiện TNHS đặc biệt. TNHS là một
khái niệm có nội hàm rộng hơn hình phạt, bởi lẽ TNHS được thực hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau các biện pháp tư pháp, các biện pháp cưỡng chế, trong đó việc áp dụng
hình phạt là một dạng đặc trưng, điển hình và phổ biến của TNHS. Sở dĩ, chúng ta nói
hình phạt là một hình thức thực hiện TNHS đặc biệt là do hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do BLHS quy định và chỉ có Tịa án mới có thẩm
quyền áp dụng đối với chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội để tước bỏ hoặc hạn chế
quyền, lợi ích của chủ thể đó, nói cách khác “mục đích cuối cùng của việc thực hiện
TNHS từ phía Nhà nước đối với các chủ thể này chính là được thể hiện ở mục đích của
việc áp dụng hình phạt” [23, tr.7]. Vì vậy, hình phạt có ý nghĩa như là cơng cụ quan
trọng để thơng qua đó Nhà nước đạt được mục đích của TNHS.

13


1.2. Khái niệm, ý nghĩa, nội dung của việc bảo vệ quyền con người bằng

những quy định về trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
1.2.1. Khái niệm bảo vệ quyền con người bằng những quy định về trách
nhiệm hình sự trong luật hình sự
Khoa học PLHS, chưa có định nghĩa thống nhất về bảo vệ quyền con người
bằng những quy định về TNHS. Việc nghiên cứu khái niệm bảo vệ quyền con người
bằng những quy định về TNHS trong luật hình sự, cần xuất phát từ khái niệm bảo
vệ quyền con người, do đây đều là các hoạt động có chung mục đích hướng tới việc
bảo đảm các giá trị cốt lõi, tự nhiên, vốn có của con người. Có nhiều quan điểm
khác nhau về việc bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền con người có thể được
hiểu là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện, bảo đảm về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp
lý để các cá nhân, tổ chức thực hiện được các quyền, tự do và được hưởng các lợi
ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Có quan điểm cho rằng bảo vệ
quyền con người, quyền công dân là việc xác định các biện pháp pháp lý, các biện
pháp tổ chức, cơ chế để bảo vệ các quyền con người, quyền cơng dân khi bị xâm
phạm từ phía cơ quan công quyền, hay từ các chủ thể khác nhằm khôi phục các
quyền đã bị xâm phạm [60, tr.2]. Theo học viên, bảo vệ quyền con người, dưới góc
độ pháp lý là việc tạo ra các điều kiện, quy định về mặt pháp lý và các biện pháp tổ
chức thực hiện để ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm các điều kiện để con người thực
hiện được các quyền và lợi ích chính đáng được pháp luật ghi nhận. Việc bảo vệ
quyền con người được bảo đảm thực hiện bằng cả hệ thống pháp luật, thể hiện trên
nhiều lĩnh vực từ Luật Hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự (các luật công)…
đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật hơn nhân gia đình (các luật tư)... Mỗi lĩnh vực
pháp luật đều có cơ chế bảo vệ các quyền con người khác nhau một cách chun
biệt, trong đó có khơng thể không nhắc đến những quy định về PLHS, bởi lẽ đây là
một trong những lĩnh vực luật công cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc đến quyền con
người bằng việc hạn chế thậm chí là tước bỏ quyền con người.
PLHS, trong đó đặc biệt là những quy định về TNHS bên cạnh ý nghĩa đấu
tranh phòng chống tội phạm, nó cịn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm

14



các quyền con người, điều này được lồng gắn trong từng quy định của luật hình sự
về TNHS. Do đó việc bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS là
một yêu cầu quan trọng được đặt ra trong quá trình xây dựng PLHS, nhằm bảo đảm
sự hài hịa giữa lợi ích của Nhà nước và người phạm tội, giữa việc khơi phục các lợi
ích bị xâm phạm với các giá trị phổ quát tự nhiên của con người cần phải bảo vệ.
Với ý nghĩa đó, bảo đảm quyền con người bằng những quy định về PLHS là một
trong những hợp phần có tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung,
bởi đây là lĩnh vực trực tiếp ảnh hưởng tới các quyền cơ bản của con người (quyền
sống, quyền tự do thân thể, quyền sở hữu về tài sản...). Bảo vệ quyền con người
bằng những quy định về TNHS là chức năng của các cơ quan tư pháp nói riêng và
của Nhà nước nói chung với cơ chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp
lý của mình. Các quy phạm pháp luật về quyền con người chỉ trở thành hiện thực
khi có những bảo đảm ràng buộc của Nhà nước.
Trong nhiều năm qua, bảo vệ quyền con người đang trở thành vấn đề lớn thu
hút nhiều sự quan tâm của dư luận quốc tế do nhiều nhân tố mới xuất hiện có ảnh
hưởng ngày càng mạnh mẽ tới quan hệ quốc tế đòi hỏi lãnh đạo mỗi quốc gia phải
quan tâm giải quyết tốt vấn đề này. Do vậy trong thời đại ngày nay khi phán xét về
quyền con người ở cấp độ quốc gia thì ngồi việc xem xét nó trong bối cảnh lịch sử
và những điều kiện cụ thể (về chính trị- xã hội, kinh tế, truyền thống,vv...) ra vấn đề
chủ yếu nhất đối với cộng đồng quốc tế vẫn là ở chỗ trên thực tế quốc gia đó quan
tâm đến việc bảo vệ chúng bằng pháp luật như thế nào- Nhà nước đã ghi nhận về
mặt lập pháp, thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp ra sao.
Qua nghiên cứu GS.TSKH Lê Văn Cảm đã nêu bật ra hai khái niệm về
quyền con người và bảo vệ quyền con người có tính khoa học và sức thuyết phục
cao như sau:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể là giá trị xã hội cao quý
nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng tự
nhiên vốn có cần được tơn trọng và khơng thể bị tước đoạt của bất kỳ cá

nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng

15


pháp luật bởi các quốc gia thành viên Liên Hợp quốc cũng như bởi các
quốc gia, thành viên Liên Hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế.
Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật là sự ghi nhận về mặt lập pháp,
thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp bởi các quốc gia thành
viên Liên Hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế giá trị xã hội cao quí
nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại với tư cách là đặc
trưng tự nhiên vốn có cần được tơn trọng và không thể bị tước đoạt của bất
kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất [12, tr. 224].
Từ các phân tích về khái niệm quyền con người và khái niệm về TNHS, trên cơ
sơ nghiên cứu khoa học của GS.TSKH Lê Văn Cảm, theo học viên có thể đưa ra khái
niệm đang nghiên cứu như sau: Bảo vệ quyền con người bằng những quy định về
TNHS là tổng hợp những yếu tố, điều kiện để quyền con người được ghi nhận, thực thi
trong những quy định của BLHS về việc buộc người phạm tội phải gánh chịu hậu quả
pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện và nhân thân người đó thơng qua
việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước.
Như vậy, bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS được thực
hiện ở hai khía cạnh khác nhau bao gồm việc áp dụng những quy định về TNHS để
truy cứu TNHS đối với chủ thể phạm tội để bảo vệ quyền con người bị tội phạm
xâm phạm, ở khía cạnh khác là việc áp dụng đúng đắn những quy định của TNHS
và các chủ trương, đường lối xử lý người phạm tội của Nhà nước để bảo đảm các
quyền con người không bị pháp luật tước bỏ của người phạm tội phải được tôn
trọng, bảo vệ. Trong phạm vi của luận văn này, học viên khai thác việc bảo vệ
quyền con người bằng những quy định về TNHS dưới góc độ áp dụng những quy
định về TNHS trong việc bảo đảm sự tôn trọng, bảo vệ các quyền con người không

bị pháp luật tước bỏ của người phạm tội.
Bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS nói riêng và bảo vệ
quyền con người bằng PLHS nói chung có vai trị quan trọng trong việc biến những nỗ
lực, những ý tưởng tiến bộ của nhân loại ở các điều luật trở thành hiện thực trong thực

16


tiễn giải quyết vụ án hình sự. Nói cách khác, bản thân các quy phạm pháp luật về
quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự đã là một thành tố quan trọng trong
việc bảo vệ quyền con người nhưng chỉ dừng lại ở đó quyền con người sẽ khơng có
trong thực tế và những quy phạm pháp luật sẽ trở thành vơ nghĩa. Vì vậy, hình thành cơ
chế bảo đảm quyền con người trong PLHS là đòi hỏi khách quan mang tính chất quyết
định mà Nhà nước pháp quyền nào cũng cần quan tâm. Bảo đảm quyền con
người bằng PLHS mang tính chất đặc thù xuất phát từ những đặc điểm do nó là
một lĩnh vực hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước mà ở đó việc hạn chế các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội là khó tránh khỏi và có thể
xâm phạm một cách nghiêm trọng các quyền và lợi ích đó bởi những chủ thể
đại diện cho cơng quyền. Trong đó, trước hết là bảo vệ quyền con người bằng
những quy định về TNHS - chế định trực tiếp quyết định việc có áp dụng các
biện pháp cưỡng chế đối với người bị buộc tội hay không. Bởi việc buộc người
phạm tội phải chịu TNHS đã tước bỏ hoặc hạn chế quyền con người của người
phạm tội do họ đã thực hiện hành vi phạm tội xâm hại đến những khách thể
được PLHS bảo vệ. Do đó, việc quy định TNHS cần được cân nhắc thật sự kỹ
lưỡng, để vừa bảo đảm được yêu cầu của công tác đấu tranh phịng chống tội
phạm, phù hợp với các điều kiện, hồn cảnh kinh tế chính trị, văn hóa của đất
nước; vừa phải bảo đảm hạn chế tới mức thấp nhất việc xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của con người. Hay nói cách khác phải cân nhắc đến tính
chất nguy hiểm của hành vi phạm tội đó, cân nhắc đến việc bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi hành vi phạm tội đó với việc hạn chế

quyền con người của người phạm tội, để bảo đảm lợi ích sao cho hài hịa và tối
đa nhất vừa có lý lại vừa có tình.
1.2.2. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con người bằng những quy định về
trách nhiệm hình sự trong luật hình sự
Bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về TNHS nói riêng mà học viên đề cập trong nội dung luận văn là một vấn đề
mang nội hàm rất sâu rộng nhiều tầng ý nghĩa cần phải có sự nghiên cứu, tìm tịi đánh

17


giá một cách hết sức nghiêm túc toàn diện và phải hồn tồn tơn trọng các chuẩn mực
được quốc tế cơng nhận, trong đó các quyền con người căn bản phải được tơn trọng
trong mọi hồn cảnh và những bảo đảm này phải được giải thích theo tiêu chuẩn tiên
tiến được cập nhật thường xuyên nhằm đạt được khát vọng cơng lý đúng đắn. PLHS là
cơng cụ quan trọng góp phần đắc lực trong cơng tác đấu tranh phịng ngừa và chống tội
phạm, tạo cơ sở giữa vững an ninh quốc gia, các lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, của tổ chức trong đó có quyền con người. Là
một chế định lớn với tầm quan trọng đặc biệt bên cạnh hai chế định: Tội phạm và Hình
phạt, chế định TNHS là bộ phận không thể thiếu khi đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền
con người. Với tầm quan trọng như vậy, việc bảo vệ quyền con người bằng những quy
định về TNHS có những ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, về mặt lập pháp. Với điểm bắt đầu từ vấn đề TNHS đối với chủ
thể thực hành vi phạm tội và phải gánh chịu hậu quả pháp lý do việc thực hiện hành
vi ấy gây ra. Qua nghiên cứu, cho tới nay, vẫn còn rất nhiều quan điểm khác nhau
về vấn đề TNHS từ khái niệm, đặc điểm đến các hình thức thể hiện. Từ sự khác
nhau này sẽ dẫn đến những sự khác biệt khi nghiên cứu những chế định liên quan
như: điều kiện của TNHS, cơ sở của TNHS, tuổi chịu TNHS, hay các vấn đề về
miễn TNHS, loại trừ TNHS, miễn hình phạt... Thêm vào đó, chế định TNHS còn
phản ánh trực tiếp các nguyên tắc PLHS, thơng qua đó chỉ ra được những vấn đề cốt

lõi trong chính sách hình sự của một quốc gia. Bởi, những quy định về TNHS gắn
với việc giải quyết đúng đắn, có căn cứ một vụ án hình sự, tạo ra những tác động
trực tiếp đến những quyền con người cơ bản của một cá nhân. Như vậy, trên cơ sở
chọn lọc những ưu điểm của những nghiên cứu về TNHS trong nước và quốc tế,
việc nghiên cứu bảo vệ quyền con người bằng những quy định về TNHS càng có ý
nghĩa to lớn. Đặc biệt trong giai đoạn đất nước ta đang tiến hành công cuộc cải cách
tư pháp, việc nghiên cứu những quy định về TNHS còn góp phần chỉ ra những quy
định cịn hạn chế hay khơng cịn phù hợp trong việc bảo vệ và khơng ngừng nâng
cao quyền con người. Từng bước xây dựng và hồn thiện những quy định pháp luật
về TNHS. Qua đó, góp phần hồn thành mục tiêu xây dựng thành cơng Nhà nước

18


×