Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

BAI DU THI TIM HIEU 65 DANG BO TINH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.9 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

BÀI THI TÌM HIỂU 65 NĂM


<b> NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG BỘ TỈNH GIA LAI</b>


Họ và tên: <i><b>Phan Trung Bộ</b></i>


Sinh ngày 24 tháng 03 năm 1985 Nam/ Nữ: Nam
Dân tộc : Kinh Tôn giáo: Phật giáo


Đơn vị công tác: Trường THPT Lý Thường Kiệt – Ayun Pa – Gia Lai




<b>BÀI LÀM </b>



<b>Câu 1. </b><i><b>Bối cảnh ra đời và ngày tháng thành lập Đảng bộ Đảng cộng sản Đông Dương </b></i>
<i><b>tỉnh Gia Lai? Ý nghĩa của việc thành lập Đảng bộ tỉnh Gia Lai?</b></i>


<b>- Bối cảnh ra đời: </b>


Tỉnh Gia Lai ngày nay, đầu thế kỷ trước có tên gọi Pleiku. Nằm phía Bắc Tây
Ngun núi sơng hùng vĩ, giữ mợt vị trí chiến lược quan trọng ở miền Trung đất nước,
tỉnh Gia Lai có lịch sử lâu đời với nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tợc của đồng bào
Jrai, Bahnar, Kinh và nhiều dân tộc thiểu số khác cùng chung sống đoàn kết.


Trải qua lịch sử lâu dài chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến đấu với nhiều
kẻ thù xâm lược, ghi bao chiến công oanh liệt đã hun đúc cho nhân dân trong tỉnh truyền
thống quý báu của dân tộc Việt Nam: lao động cần cù, sáng tạo trong dựng nước; yêu quê
hương đất nước, anh dũng, kiên cường, bất khuất trong đấu tranh giữ nước. Lịch sử hoạt
động và lãnh đạo các phong trào cách mạng trong tỉnh của Đảng bộ Gia Lai từ khi ra đời
đến năm 2005 đã trải qua hơn 60 năm. Trong chặng đường lịch sử vẻ vang đó, đã xuất hiện


biết bao tấm gương sáng chói về tinh thần tận trung với nước, tận hiếu với dân, trung thành
vô hạn đối với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào, cán bộ, đảng viên nhiều thế hệ sinh sống,
sản xuất, chiến đấu và xây dựng trên vùng đất Gia Lai thân yêu. Những chặng đường lịch sử
của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh nhà đã trải qua là cả một chặng đường biết bao
gian khổ hy sinh. Nhờ có Đảng, có Bác Hồ đã dẫn đường chỉ lối mà chúng ta mới có c̣c
sống ấm no, hạnh phúc như ngày nay.


Ngày 25-11-1945, chi bộ Đảng ở An Khê được thành lập gồm có 3 đảng viên do
đồng chí Đỗ Trạc làm Bí thư. Từ tháng 11 đến tháng 12-1945, các chi bộ công nhân Biển
Hồ, Bàu Cạn và một chi bộ trong lực lượng vũ trang của tỉnh (chi bộ trong chi đội Tây
Sơn) cũng lần lượt ra đời, nâng tổng số đảng viên trong toàn tỉnh lên 24 đồng chí.


Trước u cầu bức xúc, địi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất và tập trung, ngày
<b>10-12-1945, </b><i><b>Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương tỉnh Gia Lai</b></i> được thành lập, lấy tên


là <i><b>Đảng bộ Tây Sơn</b></i>. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lâm thời gồm 5 đồng chí. Đồng chí


Phan Thêm, phái viên Xứ ủy làm Bí thư, các đồng chí Nguyễn Đường, Nguyễn Xuân, Trần
Ren, Phạm Thuần làm ủy viên Ban Chấp hành. Đây là Tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Gia
Lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

lực cách mạng dồi dào trong tỉnh.


<b>Câu 2 : </b><i><b>Từ khi thành lập đến nay, Đảng bộ tỉnh Gia Lai trải qua mấy kỳ Đại hội ? Thời</b></i>
<i><b>gian và địa điểm tổ chức các Đại hội đó? Nêu tên các đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ qua các</b></i>
<i><b>nhiệm kỳ từ khi thành lập Đảng bộ tỉnh đến nay?</b></i>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần nhất</b>


<b>Ngày 21-2-1949, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần đầu tiên được tở</b>


chức tại Gị Cầy, thơn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê (Bình Định) có 50 đại biểu,
thay mặt cho các tở chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bợ.


Bí thư: <i><b>đồng chí Nguyễn Xuân được bầu làm Bí thư. </b></i>


Để thống nhất và tăng cường sự chỉ đạo chiến trường Bắc Tây Nguyên, từ tháng
12-1949, Liên khu ủy có chủ trương và quyết định đề nghị cấp trên cho sáp nhập hai tỉnh Gia
Lai và Kon Tum thành tỉnh Gia - Kon. Đến đầu năm 1950, Chính phủ mới có quyết định
chính thức đơn vị hành chính tỉnh Gia - Kon. Các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể
hai tỉnh hợp nhất, đi vào hoạt động.. Đến tháng 4-1950, Liên khu ủy mới chỉ định Ban cán
sự Đảng tỉnh và phân cơng đồng chí Nguyễn Xn Nhĩ, Ủy viên Liên khu ủy làm Bí thư
Ban cán sự Đảng. Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh do cụ Nay Der làm Chủ tịch, đồng
chí Nay Phin làm Phó Chủ tịch.


Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu V, lần thứ II (7-1951) đặt nhiệm vụ công tác
vùng sau lưng địch là: Tích cực tranh thủ nhân dân địch hậu, kiên trì xây dựng cơ sở, tạo
điều kiện phát triển chiến tranh du kích, phá chính sách "bình định" của giặc.


Đồng chí Trịnh Huy Quang, Liên khu ủy viên được phân cơng làm Bí thư Ban cán
sự Đảng kiêm Chính ủy Mặt trận Miền Tây. Đồng chí Trương Quang Tuân, Liên khu ủy
viên được phân cơng về thay đồng chí Trịnh Huy Quang, làm Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh
Gia - Kon, kiêm chính ủy E 120. Đầu năm 1952, Đồng chí Trương An, Bí thư Ban cán sự
Đảng tỉnh kiêm Chính ủy E120.


Hợi nghị Liên khu ủy lần thứ ba (10-1952) đồng chí Đỗ Hằng, Bí thư Ban cán sự
kiêm Chính trị viên Huyện đợi An Khê và Ban chỉ huy Tiểu đoàn 30.


Tháng 10-1954, Liên khu ủy V chỉ định Tỉnh ủy Gia Lai gồm 5 đồng chí: Trương
An, Bí thư; Võ Trung Thành (Năm Vinh), Phó Bí thư; các đồng chí: Phạm Chánh (Sáu
Thân), Đỗ Hằng (Hà), Siu Nang (Siu Tám) là Tỉnh ủy viên. Tháng 5-1955, đồng chí


Trương An về Khu ủy V, đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Bí thư, trực tiếp phụ
trách cơng tác tở chức cán bợ. Đồng chí Nguyễn Hồng Ưng làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tháng 12-1959, tại Đak Hlôh (khu 2), Tỉnh ủy Gia Lai quyết định mở Hội nghị đại
biểu (được cấp trên chuẩn y như Đại hội), gồm 45 đại biểu được chỉ định từ các Đảng bộ
khu và chi bộ trực thuộc. Đại hội đã kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng bộ từ sau Hiệp định
Giơnevơ (7-1954) đến cuối năm 1959 và đề ra phương hướng nhiệm vụ tiếp tục thực hiện
Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ gồm 13 đồng chí (9 Tỉnh ủy viên chính
thức và 4 Tỉnh ủy viên dự khuyết) do đồng chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Bí thư.


Tháng 9-1960, đồng chí Võ Trung Thành dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng, sau đó chuyển về Khu ủy V, đồng chí Phạm Chánh được chỉ định quyền Bí thư
Tỉnh ủy (sau là Bí thư).


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ hai</b>


<b>* Từ ngày 12 đến ngày 22-7-1965, tại xã Đak Kơpiar (khu 10), Đại hội đại biểu</b>
<b>Đảng bộ tỉnh lần thứ hai được khai mạc. Tham dự Đại hợi có 67 đại biểu chính thức, 20</b>
đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 2.321 đảng viên, 147 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng
bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành tỉnh Đảng bợ gồm 15 ủy viên (có 2 ủy viên dự khuyết),


trong đó có 5 ủy viên người dân tợc thiểu số. Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 5 đồng chí, <i><b>đồng</b></i>


<i><b>chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Tháng 11-1967, Hội nghị liên tịch giữa Đảng ủy và Ban chỉ huy Mặt trận Tây


Nguyên với đại diện các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk thống nhất kế hoạch tởng cơng
kích và nởi dậy, bàn kế hoạch phối hợp hoạt động giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa
phương, giữa tấn công và nổi dậy, thống nhất chỉ đạo, chỉ huy, thành lập Ban chỉ huy mặt
trận mỗi tỉnh. Tỉnh Gia Lai, Ban chỉ huy chung toàn tỉnh mang ký hiệu "Mặt trận 300" do
đồng chí Nguyễn Văn Trân, Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên, làm Chỉ huy trưởng;
đồng chí Võ Trung Thành, Khu ủy viên khu V, Bí thư Tỉnh ủy làm Chính ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III.</b>


<b>* Vào mùa thu 1969, từ ngày 5 đến ngày 14-8 tại làng Tengleng thuộc xã</b>
<b>Krong, khu 10 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III. Tham dự Đại hợi</b>
có 110 đại biểu, đại diện cho trên 4.000 đảng viên của Đảng bộ. . Đại hội bầu Ban Chấp
hành Đảng bợ khóa III gồm 19 ủy viên (4 ủy viên dự khuyết), Ban Thường vụ Tỉnh ủy


gồm 6 đồng chí. <i><b>Đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy</b></i>, 3 đồng


chí được bầu làm Phó Bí thư là: Phạm Xong (Hồng), Ksor Ní (Ama Nhan), Kpă Thìn
(Bơhâm).


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV</b>


<b>* Ngày 14 đến ngày 24-9-1971 đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ</b>
<b>IV, tại làng Kon Tơmok, xã Đakhleh, khu 1. Có 126 đại biểu thay mặt cho 4.544 đảng</b>
viên toàn Đảng bộ về dự. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa IV gồm 26 đồng


chí, Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí. <i><b>Đồng chí Trần Văn Bình (Đẳng) được bầu</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ V</b>


<b>Từ ngày 23 đến ngày 30-10-1973, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ</b>


<b>V họp tại làng Salam Vir, xã Krong, khu 10. Dự Đại hợi có 169 đại biểu thay mặt hơn</b>
5.000 đảng viên toàn Đảng bộ.


Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ khóa V gồm 27 ủy viên (có ba ủy viên dự


khuyết), bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 8 đồng chí, <i><b>đồng chí Trần Văn Bình được bầu</b></i>


<i><b>lại làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Ngày 19-4-1974, đồng chí Trần Văn Bình, mợt cán bợ lãnh đạo tận tụy bám sát
phong trào, bốn nhiệm kỳ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, là Khu ủy viên Khu V, sau một
thời gian đau nặng đã từ trần tại vùng căn cứ của tỉnh. Lễ tang đồng chí được tổ chức trọng
thể tại căn cứ. Đồng bào, cán bộ vô cùng tiếc thương một cán bộ lãnh đạo luôn gần gũi


dân... Thường vụ Khu ủy V quyết định chỉ định <i><b>đồng chí Ksor Ní làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


Cuối tháng 9-1975, Tỉnh ủy Gia Lai họp Hội nghị mở rợng có 21 đồng chí trong Ban Chấp
hành và 40 cán bộ lãnh đạo các ngành tham dự. Hội nghị xem xét đánh giá tình hình trong


tỉnh năm 1975 và bàn những công tác cấp bách chuẩn bị hợp nhất với tỉnh Kon Tum. Thực


hiện Nghị quyết Bợ Chính trị và Nghị quyết Khu ủy V về hợp nhất hai tỉnh Gia Lai và
Kon Tum thành tỉnh Gia Lai - Kon Tum, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ Gia Lai - Kon


Tum được Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa III) chỉ định gồm 39 Ủy viên. <i><b>Đồng chí</b></i>


<i><b>Trần Kiên (Nguyễn Tuấn Tài), Ủy viên Thường vụ Khu ủy V làm Bí thư Tỉnh ủy</b></i>, đồng
chí Võ Trung Thành (Năm Vinh) làm Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, các đồng chí Ksor
Ní, Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai và đồng chí Phan Quyết, Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum làm Phó Bí
thư Tỉnh ủy Gia Lai - Kon Tum. Cuối năm 1976, Trung ương quyết định bổ sung đồng chí


Rơchơm Thép (Ama Quang), Khu ủy viên làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI</b>


Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI có 295 đại biểu tham dự. Vịng mợt họp tại Hội
trường 19-5 thị xã Pleiku từ ngày 11-11 đến ngày 20-11-1976. Vịng hai của Đại hợi Đảng
bợ họp tại trường Đảng tỉnh (nay là Trường Chính trị tỉnh Gia Lai) từ ngày 1-3 đến ngày
10-3-1977


Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh gồm 37 đồng chí (33 ủy viên chính thức, 4


ủy viên dự khuyết). Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí, <i><b>đồng chí Nguyễn Văn Sĩ,</b></i>


<i><b>Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i> Đồng chí
Y Pah (Y Mợt), Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Võ Trung
Thành (Năm Vinh), được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII</b>


<b>- Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII tiến hành từ ngày 26-6 đến ngày 2-7-1979 tại</b>
Pleiku..Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa VII gồm 45 ủy viên (có 4 ủy viên dự khuyết).


Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí<i><b>, đồng chí Nguyễn Văn Sĩ được bầu làm Bí thư Tỉnh</b></i>


<i><b>ủy</b></i>; đồng chí Võ Trung Thành làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b> Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

tại Pleiku.. Dự Đại hợi có 473 đại biểu chính thức thay mặt cho 13.199 đảng viên của 564
tổ chức cơ sở Đảng trong toàn Đảng bộ. Đại hội bầu Ban Chấp hành gồm 45 đồng chí.



Ban Thường vụ có 13 đồng chí. <i><b>Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ, Ủy viên Trung ương Đảng</b></i>


<i><b>được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.</b></i>


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX diễn ra từ ngày 21 đến ngày </b>
29-10-1986 tại Pleiku. Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa IX gồm 58 đồng chí.
Trong đó có 45 đồng chí ủy viên chính thức và 13 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hội nghị


Tỉnh ủy lần thứ nhất bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí. <i><b>Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ</b></i>


<i><b>(Ksor Krơn), Ủy viên Trung ương Đảng, được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai</b></i> - Kon
Tum. Các đồng chí Sơ Lây Tăng, Nguyễn Văn Tiềm, Ngơ Thành (Chinh) được bầu làm
Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X (vòng II) từ ngày 20 đến ngày </b>
23-1-1992 tại Pleiku. Dự Đại hợi có 209 đại biểu, đại diện cho 518 tổ chức cơ sở và 11.316
đảng viên. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ Gia Lai khóa X gồm 41 thành viên.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Văn Sĩ (Ksor Krơn) được
<b>bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; hai đồng chí Nguyễn Duy Khanh và Nguyễn Hùng (Lê Tam)</b>
được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI. Đại hội diễn ra từ ngày 6 đến ngày</b>
10-5-1996 tại Pleiku., có 250 đại biểu tham dự thay mặt cho 12.582 đảng viên sinh hoạt,


công tác trong 575 tổ chức cơ sở đảng. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh Gia
Lai khóa XI gồm 47 ủy viên, Ban Thường vụ Tỉnh ủy có 13 đồng chí. Đồng chí Lê Tam
<b>được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Đại hợi bầu 13 đại biểu chính thức và hai đại biểu dự</b>
khuyết đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII</b>


* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII được tổ chức trọng thể từ


ngày 26 đến ngày 30-12-2000 tại Pleiku. Dự Đại hợi có 300 đại biểu, đại diện cho 17.491
đảng viên, sinh hoạt tại 647 tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ.


Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa XII (2001-2005) gồm 47 đồng
chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Gia Lai khóa XII gồm 13 đồng chí; đồng chí Ksor Phước
<b>được bầu lại làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Đỗ Tiến Hoàng, Nguyễn Vĩ Hà được bầu</b>
làm Phó Bí thư. Đại hợi đã bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng gồm 13 đại biểu chính thức và 1 đại biểu dự khuyết.


<b>Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII</b>


<b>* Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh. Đại hội được</b>


tổ chức từ ngày 10 đến ngày 12-12-2005 tại Pleiku, đúng vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bợ tỉnh khóa XIII gồm 49
đồng chí. Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XIII gồm 13 đồng chí, đồng chí Hà Sơn Nhin
<b>được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đồng</b>
chí Hà Sơn Nhin được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng.


<b>Câu 3 : </b><i><b>Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam được tổ chức vào ngày tháng năm nào?</b></i>


<i><b>Địa điểm tổ chức Đại hội? Nêu nội dung và ý nghĩa thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi</b></i>
<i><b>các dân tộc thiểu số miền Nam tại Đại hội? </b></i>


Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước đã tở chức hai Đại hội các dân tộc thiểu
số ở hai miền Nam và Bắc: Ngày 19-4-1946, Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam
<b>được tổ chức tại thị xã Pleiku với hơn 1000 người tham dự, bao gồm đại biểu các dân</b>
<b>tộc Tây Nguyên và miền núi các tỉnh Nam Trung Bộ và ngày 3-12-1946 tại Hà Nội. </b>


Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ nhất, được tổ chức tại Hà
Nội trong hai ngày vào trung tuần tháng 5-2010. Hội nghị sẽ khai mạc vào ngày 12 tháng
5 năm 2010.


<b>THƯ GỬI ĐẠI HỘI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ</b>
<b>MIỀN NAM TẠI PLÂYCU</b>


<i>Cùng các đồng bào dân tộc thiểu số,</i>


Hôm nay đồng bào khai hội, sum họp một nhà thật là vui vẻ.


Tiếc vì đường sá xa xơi, tơi khơng đến dự được. Tơi tuy xa, nhưng lịng tơi và
Chính phủ vẫn gần gũi đồng bào.


Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na
và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta
sống chết có nhau, sướng khở cùng nhau, no đói giúp nhau.


Trước kia chúng ta xa cách nhau, mợt là vì thiếu giây liên lạc, hai là vì có kẻ xui
giục để chia rẽ chúng ta.


Ngày nay nước Việt Nam là nước chung của chúng ta. Trong Quốc hợi có đủ đại


biểu các dân tợc. Chính phủ thì có "NHA DÂN TỘC THIỂU SỐ" để săn sóc cho tất cả các
đồng bào.


Giang sơn và Chính phủ là giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên
tất cả dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hợ Chính phủ
ta.


Chúng ta phải thương yêu nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu
hạnh phúc chung của chúng ta và con cháu chúng ta.


Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đoàn kết của chúng ta khơng bao giờ
giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự do, độc lập của
chúng ta.


Xin chúc Đại hội thành công.


Lời chào thân ái


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<b>Câu 4 </b><i><b>: Đại hội lần thứ mấy của Đảng bộ tỉnh đề ra các nhiệm vụ phát triển kinh tế </b></i>
<i><b>-xã hội, giữ vững q́c phịng an ninh theo đường lối đổi mới của Đảng. Nêu nội dung</b></i>
<i><b>trọng tâm của các nhiệm vụ ? </b></i>


Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI (1996-2000). Đại hội đã xác định năm
2000 là năm bản lề chuyển sang thế kỷ XXI; đồng thời là năm kết thúc kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000 mà Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Việc
thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh tế - xã hội đến năm 2000 có ý nghĩa quyết định tạo thế
và lực mới cho Gia Lai tự tin vững bước vào thế kỷ XXI. Do vậy, tại Hội nghị Ban Chấp
hành Đảng bợ tỉnh lần thứ 16 (Khóa XI), Tỉnh ủy chủ trương tiếp tục đẩy mạnh công cuộc
đổi mới theo hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy nội lực nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hợi, an ninh quốc


phịng, xây dựng và củng cố hệ thống chính trị, thực hiện đồng bợ các giải pháp để đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng, phấn đấu tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao sức cạnh
tranh và hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Tỉnh ủy cũng chủ trương tiếp tục ưu tiên các
nguồn lực đầu tư phát triển, nhất là phát triển nông nghiệp và nông thôn. Chủ trương phát
triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật ni phù hợp với điều kiện về
môi trường sinh thái của từng vùng với sự tham gia của mọi thành phần kinh tế. Tập trung
các nguồn vốn đầu tư cho thủy lợi, giao thông nông thôn, điện và các cơ sở hạ tầng kinh
tế, xã hợi. Khuyến khích thị trường nơng thơn phát triển…


<i><b>Nội dung trọng tâm của các nhiệm vụ</b></i>


1 - Nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân phải
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng; sự quản lý của chính


quyền các cấp, nhân dân tham gia, Cơng an làm nịng cốt.


2 - Chủ đợng đởi mới các mặt cơng tác bám sát và phục vụ có hiệu quả việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, dựa vào nhân dân để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự.
3 - Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh, trật tự phải giữ vững nguyên tắc,
đồng thời có sách lược mềm dẻo, linh hoạt, tranh thủ sự đồng thuận của mọi tầng lớp xã
hội và ủng hộ của quốc tế.


4 - Coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Cơng an nhân dân vững mạnh
về chính trị, tư tưởng và tở chức, trong đó cơng tác cán bộ là khâu đột phá để tạo chuyển
biến trong toàn bộ các mặt công tác công an.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.


Để thực hiện thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng về nhiệm vụ đảm


bảo an minh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, thời gian tới chúng ta cần tập trung
thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau đây:


<i>Một là, các cấp uỷ đảng cần tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền giáo dục, làm cho </i>
cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức rõ về tầm quan trọng của công tác bảo vệ an
ninh, trật tự trong tình hình hiện nay, nâng cao cảnh giác cách mạng, xác định trách nhiệm
tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hợi. Tiếp
tục quán triệt và triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng và Nhà nước
trên lĩnh vực này. Đẩy mạnh giáo dục nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự trong các trường
đại học, cao đẳng, dạy nghề và phổ thông trung học; bồi dưỡng kiến thức về công tác bảo
vệ an ninh, trật tự cho cán bợ chủ chốt của Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể ở
cơ sở.


<i>Hai là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng </i>
với bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nợi bợ. Tở chức tốt cơng tác nắm tình hình, phát
hiện và đấu tranh phịng, chống địch thâm nhập, tác động phá hoại nội bộ: Thực hiện
nghiêm những quy định về kỷ luật Đảng, nợi quy bảo vệ cơ quan, bảo vệ bí mật nhà nước.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với công tác xuất bản, thông tin,
báo chí. Kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng ''đa ngun chính trị'', khơng để hình thành
tở chức chính trị đối lập.


<i>Ba là, tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn nữa sức mạnh tởng hợp của hệ thống chính </i>
trị. Xác định rõ vai trị, phạm vi trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, cơ quan Nhà nước, các
đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, tở chức xã hợi trong cơng tác phịng chống tợi phạm,
phịng chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có kết quả các quy
chế phối hợp giữa cơ quan chuyên trách với các ngành, các đoàn thể trong việc thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự; nhất là trong đánh giá, dự báo tình hình, xây dựng và tở
chức diễn tập phương án đối phó với các tình huống khủng bố, phá


hoại, gây rối, gây bạo loạn...



<i>Bốn là, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh của toàn dân </i>
trong công tác đảm bảo an ninh, trật tự. Tập trung phát hiện, khắc phục kịp thời những sơ
hở, thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách quản lý kinh tế - xã hợi, chính sách về đất
đai, tơn giáo, dân tợc, chính sách đối với người có cơng, chính sách đối với đồng bào ở
vùng sâu, vùng xa... Giải quyết triệt để, kịp thời những mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện
trong nhân dân, nhằm tăng cường sự đồng thuận trong xã hội. Hoàn thiện và thực hiện
nghiêm quy định của pháp luật về các quyền tự do dân chủ; đồng thời kiên quyết đấu tranh
ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tự do, dân chủ để phá hoại an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Sáu là, tiếp tục xây dựng kiện toàn các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ </i>
an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội vững mạnh về mọi mặt. Nghiên cứu xây
dựng một tổ chức phù hợp, đủ mạnh để tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chỉ đạo tổ chức
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Tiếp tục xây dựng lực lượng Công an nhân
dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nâng cao chất lượng,
hiệu quả các mặt công tác, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ


trong giai đoạn mới.


Bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hợi là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, có vị trí đặc biệt quan trọng. Để hoàn thành nhiệm vụ đó chúng ta phải chủ động
phát hiện, đấu tranh ngăn ngừa mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, các loại tợi
phạm, tạo mơi trường hoà bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hợi
Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra.


<b>Câu 5 :</b><i><b> Ông, bà, anh, chị hãy nêu phương hướng, nhiệm vụ tổng quát và những mục</b></i>
<i><b>tiêu chủ yếu do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII đề ra? </b></i>



Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XIII đã xác định mục tiêu chủ yếu của


giai đoạn 2006-2015: Coi trọng phát triển nông - lâm nghiệp theo hướng kết hợp giữa mở
rộng quy mô với nâng cao chất lượng cây trồng, vật nuôi, phát triển mạnh thủy lợi; đồng
thời chuyển trọng tâm đầu tư vào khu vực công nghiệp và dịch vụ mà hướng đột phá là
thủy điện, chế biến nông lâm sản, các ngành dịch vụ có lợi thế so sánh gắn với chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tạo việc làm, từng bước cải thiện đời sống nhân dân,
nhất là đồng bào dân tộc thiểu số1<sub>.</sub>


Đại hội cũng đã xác định mục tiêu chủ yếu của giai đoạn 2006-2010; đồng thời nêu
lên những định hướng và giải pháp phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu; văn
hóa xã hợi; xây dựng hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh.


Để thực hiện đạt và vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII đặt ra, Gia Lai sẽ
tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau:


- Ưu tiên tăng nguồn lực đầu tư nhằm phát huy lợi thế của những ngành, những lĩnh
vực quan trọng như thủy điện, chế biến nông thổ sản, chăn nuôi; gắn phát triển vùng
nguyên liệu với giải quyết việc làm cho lao động tại chỗ. Tập trung đầu tư và có chính
sách hỗ trợ đưa tiến bợ khoa học kỹ thuật vào phát triển giao thông, thủy lợi phục vụ sản
xuất.


- Ban hành các cơ chế chính sách thơng thoáng để thu hút đầu tư liên doanh, liên kết
với các địa phương trong và ngoài nước; trên cơ sở đẩy mạnh cải cách hành chính, xây
dựng đợi ngũ cán bợ, cơng chức có đạo đức cách mạng trong sáng, giỏi về chuyên môn,
nghiệp vụ.


- Phát triển kinh tế đi đơi với ưu tiên giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hợi bức
xúc như xóa đói, giảm nghèo; giải quyết đất sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho đồng bào dân tợc
thiểu số tḥc diện đói nghèo; kiên cố hóa trường học...



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

- Tiếp tục củng cố và tăng cường sức chiến đấu của hệ thống chính trị cơ sở, đề cao
vai trị lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của các cấp ủy Đảng. Huy đợng sức mạnh của cả hệ
thống chính trị để giữ vững ởn định chính trị, nhất là những địa bàn trọng điểm, kiên quyết
đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hịa bình" của các thế lực thù địch.


- Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chương trình của các
cấp ủy và chính quyền.


<b>Câu 6:</b><i><b> Ông, bà, anh, chị, hãy nêu những cảm nghĩ của mình về truyền thớng lịch sử và</b></i>
<i><b>vai trị lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Gia Lai qua 65 năm đấu tranh, xây dựng và phát</b></i>
<i><b>triển; đồng thời hiến kế để xây dựng tỉnh Gia Lai ngày càng giàu đẹp? </b></i>


Lịch sử Đảng bộ tỉnh Gia Lai kể từ sự kiện ra đời của các chi bộ cộng sản đầu tiên
và nhanh chóng tiến tới thành lập tỉnh Đảng bợ mang tên Đảng bộ Tây Sơn (10-12-1945),
cho đến nay đã chắn 65 năm. Nhìn lại toàn bợ chặng đường lịch sử sáu thập kỷ hoạt động,
xây dựng, trưởng thành của Đảng bợ, tuy khơng dài trong tiến trình lịch sử của tỉnh và của
Đảng, nhưng là cả mợt quá trình lãnh đạo, phấn đấu đầy gian khổ, thử thách, hy sinh với
những thành tích to lớn và thắng lợi vẻ vang, góp phần tơ đậm những trang sử vàng của
Đảng, của dân tộc.


Đảng bộ tỉnh Gia Lai được thành lập sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945
chưa đầy bốn tháng. Trong khí thế cách mạng hào hùng của kỷ nguyên độc lập, tự do, xây
dựng đất nước và công cuộc chuẩn bị kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lược, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (lúc đó lấy tên Đảng Cợng sản Đông Dương),
Đảng bộ tỉnh Gia Lai ra đời là một tất yếu lịch sử. Đảng bộ ra đời trước hết là kết quả trực
tiếp của phong trào yêu nước, phong trào công nhân kết hợp với tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn đến phong trào cợng sản ở mợt tỉnh miền núi Tây
Ngun có vị trí chiến lược quan trọng nối liền với các tỉnh duyên hải miền Trung và các
tỉnh phía Nam của đất nước, sớm được Trung ương Đảng, Xứ ủy Trung Kỳ chú ý phát


triển tổ chức cơ sở


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

dân Gia Lai trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, mà hạt nhân lãnh đạo là những thanh niên, học
sinh có tinh thần yêu nước và việc làm tiến bộ, đã dần dần chuyển từ tự phát lên tự giác
mang ý thức của phong trào cách mạng giải phóng dân tợc do Đảng Cợng sản lãnh đạo.
Nhờ đó khi thời cơ đến vào giữa tháng 8-1945, mặc dù chưa có tở chức Đảng, chưa lập
được các đoàn thể cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, nhưng nhân dân Gia Lai đã kịp thời
nởi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám. Các c̣c khởi nghĩa
giành chính quyền ở huyện An Khê (20-8-1945), thị xã Pleiku (23-8-1945) và thị trấn
Cheo Reo (25-8-1945) thắng lợi nhanh chóng... là những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn.
Thắng lợi của phong trào khởi nghĩa đó khơng chỉ giải phóng đồng bào Gia Lai khỏi ách
nơ lệ, giành được chính quyền cách mạng, quyền tự do dân chủ, làm chủ quê hương đất
nước của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, mà cịn góp phần vào thắng lợi chung của Cách
mạng Tháng Tám trong vùng, trong cả nước để lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cợng hịa
-Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á do Đảng ta lãnh đạo. Chính quyền
dân chủ nhân dân - mục tiêu cơ bản của c̣c cách mạng giải phóng dân tộc đã được thiết
lập, củng cố ở Gia Lai làm công cụ cho việc xây dựng chế độ xã hội mới, trấn áp bọn phản
động, chống giặc ngoài, thù trong, xây dựng và mở rộng Mặt trận Việt Minh - Mặt trận
đoàn kết dân tộc thống nhất rộng rãi được tiến hành trong tỉnh 10 tháng sau đó. Từ phong
trào cơng nhân đồn điền đấu tranh giành chính quyền, hoạt động yêu nước, tiến bộ của
Đoàn thanh niên Gia Lai, Đoàn thanh niên Chấn hưng An Khê, Đoàn thanh niên Cheo
Reo... đi đầu trong khởi nghĩa, một số cán bộ được tiếp tục rèn luyện giác ngộ trong đấu
tranh củng cố chính quyền, xây dựng xã hợi mới mà hình thành những cốt cán cách mạng,
những nhóm cợng sản của Đảng. Trong bối cảnh đất nước đứng trước họa xâm lăng, nền
độc lập dân tộc bị đe dọa như "ngàn cân treo sợi tóc", trên cơ sở các phong trào cách mạng
trong tỉnh, những chi bộ Đảng đầu tiên ở Gia Lai ra đời: Chi bộ thị xã Pleiku (1-10-1945),
Chi bộ An Khê (25-11-1945), Chi bộ nông trường Bàu Cạn, Chi bộ nông trường Biển Hồ
và Chi bộ trong lực lượng vũ trang, dẫn tới thành lập Đảng bộ tỉnh. Đảng bộ tỉnh Gia Lai
ra đời là một biểu hiện sinh động quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Bác Hồ
sáng lập.



Trong chặng đường 30 năm đầu sau khi Tỉnh ủy lâm thời đầu tiên được thành lập do
Xứ ủy Trung Kỳ chỉ định, Đảng bợ với số lượng cán bợ, đảng viên ít ỏi, dần dần từng
bước phát triển, trưởng thành trong quá trình tổ chức động viên và lãnh đạo nhân dân các
dân tộc trong tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, kinh
qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc - cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược
(1945-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) do Đảng lãnh đạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngày nay tỉnh phải xây dựng nền quốc phòng
toàn dân, an ninh nhân dân trong mọi địa bàn. Nhưng với vị trí chiến lược và truyền thống
cách mạng, kháng chiến, từ thực tiễn địa phương để xây dựng thế trận quốc phòng toàn
dân, an ninh nhân dân vững mạnh bảo vệ vững chắc địa bàn, Đảng bộ và quân dân trong
tỉnh cần phát huy hơn nữa kinh nghiệm truyền thống của căn cứ kháng chiến, chăm lo hơn
nữa đời sống, chính sách xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng căn cứ. Đó là
trách nhiệm lãnh đạo của Đảng bợ tỉnh, cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể các
cấp từ tỉnh đến cơ sở.


Năm tháng qua đi, những giá trị lịch sử, những thắng lợi vẻ vang, những bài học
kinh nghiệm của Đảng bợ sẽ cịn mãi mãi với thời gian. Các thế hệ cán bộ, đảng viên và
nhân dân các dân tộc Gia Lai tự hào về Đảng bợ của mình. Thế hệ hơm nay và con cháu
đồng bào các dân tộc trong tỉnh mai sau sẽ đời đời ghi nhớ công lao của bao lớp cán bộ,
đảng viên trong Đảng bộ đã dũng cảm chiến đấu, hy sinh bảo vệ độc lập dân tộc, giải
phóng q hương; lao đợng cần cù, sáng tạo, cống hiến cơng sức, trí tuệ để xây dựng chủ
nghĩa xã hội, tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng tỉnh Gia Lai giàu đẹp trong
thế kỷ XXI. Trước mắt, những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống u nước, cách mạng
đó là hành trang tinh thần vơ giá để Đảng bộ và nhân dân thực hiện thắng lợi những mục
tiêu, nhiệm vụ của Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, chuẩn bị sẵn sàng mọi điều kiện
chào đón Đại hợi lần thứ XI của Đảng và tiến hành Đại hội lần thứ XIV của Đảng bộ tỉnh
Gia Lai.



<i><b> Ayun Pa, ngày 25 tháng 8 năm 2010</b></i>
<i><b> Người viết</b></i>


</div>

<!--links-->

×