Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

pt chuyen nguoi con gai Nam Xuong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.61 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề cương ôn tập Ngữ văn 9</b>



<b>PHÂN TÍCH: “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG”( Nguyễn Dữ)</b>


<b>A- MỞ BÀI</b>


Trong bài thơ” Bánh trơi nước”, nữ sĩ Hồ Xn Hương đã khắc họa hình ảnh người phụ nữ dưới xã hội phong
kiến đẹp người, đẹp nết nhưng phải chịu số phận bất hạnh:


<i> “Thân em vừa trắng lại vừa tròn</i>
<i> Bảy nổi ba chìm với mước non</i>


<i> Rắn nát mẵc dầu tay kẻ nặn</i>
<i> Mà em vẫn giữ tấm lịng son”</i>


Khơng chỉ Hồ Xn Hương mà các nhà văn, nhà thơ khác cũng lên tiếng bênh vực cho những con người luôn
phải gánh chịu những bất công, ngang trái và tàn nhẫn của những luật lệ hà khắc và những hũ tục lạc hậu của xã hội
phong kiến Việt Nam đương thời. Điều đó chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ở Nguyễn Dữ với “ Chuyện người con gái
Nam Xương”. Đây là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện trong <i>“Truyền kì mạnlục”</i>. Một tác phẩm văn xuôi
viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI . Thời gian đã trôi qua khá lâu nhưng câu chuyện và số phận bất hạnh của Vũ
Thị Thiết vẫn ám ảnh người đọc. Bao thế hệ độc giả đã xót xa về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc,
có đức hạnh, dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của trẻ con mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị
đẫy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ nỗi oan khuất. Một cái chết thật oan uổng, bất công!
<b>B- THÂN BÀI:</b>


<b>1- Tóm tắt ngắn gọn tác phẩm:</b>


Vũ nương, một người phụ nữ toàn vẹn, hiếu thảo thủy chung. Khi chồng vắng nhà, nàng luôn thể hiện là người
dâu hiếu thảo, một người vợ đảm đang tháo vác. Nỗi mong ước ngày chồng về được đoàn tụ, thỏa nỗi nhớ mong và niềm
khát khao hạnh phúc được đánh đổi bằng sự nghi ngờ là thất tiết và nàng đã giải thốt cuộc đời mình bằng cái chết thật
thương tâm.



<b>2- Giá trị hiện thực</b>


Ngay từ đầu tác phẩm, Vũ Nương được giới thiệu là một người con gái “<i><b>có tính đã thùy mị,</b><b>nết</b><b>na, lại thêm tư</b></i>
<i><b>dung tốt đẹp</b>”</i> . Cũng vì mến mộ tính cách của nàng, Trương Sinh vốn là một chàng trai con nhà giàu có xin mẹ đem
trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng bìnhthường, mặc dù chồng nàng thất học, có tính đa nghi, nhưng
nàng luôn là một người vợ đoan trang, khéo léo, chừng mực và khn phép nhờ đó mà gia đình của nàng ln được hạnh
phúc, chưa từng xãy ra chuyện thất hòa.


Giặc Chiêm sang xâm lược, Trương Sinh phải ra chiến trận. Khi tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu và nói những
lời ai nghe cũng <i><b>“ đều ứa hai hàng lệ”.</b></i>Nàng dặn dò chồng bằng những lời đằm thắm xuất phát từ tấm lòng chung thủy
bằng những câu nói rất mực thiết tha: <i><b>“ Chàng đi chuyến</b><b>này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo</b></i>
<i><b>gấm, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang</b></i> <i><b>theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”</b></i><b>. Đó là mong ước hết sức bình</b>
thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên. Những lời tình nghĩa ấy thể hiện sự
yêu thương thực sự, đã vượt lên trên những ước mong vinh hoa phú q, ước mong lập tước cơng hầu. Tình thương chồng
cịn thể hiện qua sự cảm thơng những vất vả gian lao mà chồng nàng phải chịu đựng trong những ngày tháng ở chiến
trường xa xôi đầy gian khổ <i><b>‘’ Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khơn lường. Giặc cuồng cịn lẩn lút, qn triều cịn</b></i>
<i><b>gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có …’’</b></i>, qua nỗi khắc khoải nhớ nhung: ‘<i><b>’ mà mùa dưa chín quá kì khiến cho tiện thiếp băn</b></i>
<i><b>khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ lại sửa soạn áo rét, gởi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn</b></i>
<i><b>thưc tâm tình thương người đất thú! Dù có thư tín ngàn hàng cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng’’</b></i>. Có thể thấy rằng
nàng là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả miêu tả nỗi buồn thương, nhung nhớ khắc khoải triền miên
theo theo thời gian ‘’ <i><b>ngày qua tháng lại , thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi</b></i>
<i><b>buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được’’</b></i> cịn lịng người thì dằng dặc một nỗi buồn thương. Trong nỗi niềm của
người vợ xa chồng , nàng lại càng cảm thông cho cái nỗi niềm của người mẹ xa con .


Nàng lại yêu thương mẹ chồng hơn bao giờ hết, mặc dù nàng một mình nuôi mẹ già con dại, đằng


đẳng tháng ngày đợi chờ, sự xa cách ấy càng tơ đậm tấm lịng thủy chung, nỗi buồn thương khắc khoải triền miên theo
ngày tháng . Nàng còn là người mẹ hiền , dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xơi. Một mình nàng vừa lo con nhỏ, vừa
chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động . Mẹ già đau ốm <i><b>“nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần</b></i>
<i><b>phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”</b></i> . Lời trối trăn của bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận


nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng <i><b>:” Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc</b></i>
<i><b>sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi, chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau</b></i>
<i><b>này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dịng tươi tốt, con cháu đơng đàn , trời xanh kia quyết chẳng phụ con,</b></i>
<i><b>cũng nhưn con đã chẳng phụ mẹ</b>”</i>. Mẹ mất “<i><b>nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ lo liệu như đối với cha</b></i>
<i><b>mẹ đẻ mình</b>”</i>. Nàng làm tất cả những việc đó khơng phải vi trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lịng.


Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đáng lẽ ra
nàng được hạnh phúc khi chồng trở về. Nhưng không ! Xã hội không cho phép, nàng phải chị nỗi oan tình chỉ vì câu nói
vơ tình của con trẻ.


Trước thái độ giận dữ ghen tức của Trương Sinh, nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lịng mình. Nàng
nói về thân phận mình <i>:” <b>Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”</b>, </i>Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và
khẳng định tấm lịng chung thủy trong trắng của mình <i><b>:” Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phơi vì động việc lửa</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Đề cương ơn tập Ngữ văn 9</b>



<i><b>binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tơ son điểm phấn từng đã ni lịng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đau</b></i>
<i><b>có sự mất nết hư thân như lời chàng nói “</b></i>. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan <i><b>“ Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ.</b></i>
<i><b>Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”</b></i> . Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn
gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.


Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin <i><b>:” mắng</b><b>nhiếc nàng và đánh đuổi đi”</b>.</i> Ngay cả
cái quyền bảo vệ mình, nàng cũng khơng có. Lời nói của nàng thâu tóm tất cả những nỗi đau khổ của một đời phụ nữ.
Hạnh phúc gia đình- <i><b>“ cái thú vui nghi gia nghi thất”</b>,</i> niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình u cũng khơng
cịn<i><b>-“ bình rơi, trâm</b></i> <i><b>gãy,mây tạnh, mưa tan,sen rũ trong ao, liễu tàn</b></i> <i><b>trước gió; khóc tuyết bơng</b></i> <i><b>hoa rụng cuống, kêu</b></i>
<i><b>xuân cái én lìa đàn”</b>.</i> Ngay cả cái khổ chờ chồng hóa đá trước đây cũng khơng cịn có thể làm lại được nữa<i><b>:” nước</b></i>
<i><b>thăm buồn xa, đâu</b><b>cịn có thể lại lên núi Vọng phu kia nữa”.</b></i>


Mọi cố gắng của nàng đều trở thành vơ ích, khơng thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đều tan vỡ, nàng đau khổ
và tìm đến cái chết để tỏ rõ tấm lịng trong trắng, mượn nước sơng để rửa sạch tiếng nhuốt nhơ oan ức. <i><b>“ Nàng tắm</b><b>gội</b></i>


<i><b>chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngữa mặt lên trời mà than rằng:</b></i>


-<i><b>Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay bc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sơng</b></i>
<i><b>có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương,</b></i>
<i><b>xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng long chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin</b></i>
<i><b>làm cơm cho diều quạvà xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”</b></i>


Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng, của
một kẻ bạc mệnh đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quả quyết cuối cùng để bảo tồn
danh dự. Ở truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng: <i><b>“ Vũ Nương</b></i>
<i><b>chạy một mạch ra bến</b><b>Hồng Giang đâm đầu xuống nước:”</b>.</i> Cịn trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi
đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia của lí trí<i><b>:” tắm</b><b>gội chay sạch”</b></i> trước khi quyên sinh, và lời nguyền của
nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên đến tột cùng.


Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục lại đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu
thảovới mẹ chồng, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng
hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu chuyện về


Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy
bất công.


Cái chết của nàng đã tố cáo những hũ tục lạc hậu của chế độ phong kiến, lên án các thế lực thần quyền trong
xã hội, đặc biệt là thói‘<i><b>’ trọng nam khinh nữ’’</b></i>. Cái chết ấy đã phơi bày những tàng bạo, khổ đau của chiến tranh phong
kiến mà gia đình Vũ Nương là tiêu biểu cho sự ‘’tang đàn xẻ nghé’’


Với Trương Sinh là con nhà hào phú nhưng khơng có học. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ
<i><b>“mến vì dung hạnh</b></i> <i><b>xin với mẹ</b><b>đem</b><b>trăm lạng vàng cưới về</b>”</i> mầm móng bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ
những yếu tố này. Cuộc hơn nhân vốn đã khơng bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương
<i><b>“ vốn con kẻ khó”</b> ,</i> lấy Trương Sinh nàng được nương tựa nhà giàu. Vũ Nương sẽ là một nạn nhân trong xã hội đầy bất
công.



Trong đời sống vợ chồng Trương Sinh la: <i><b>“ người chồng có tính đa nghi, đối với vợ phịng ngừa q sức”.</b></i> Một
trong những nguyên nhân gây ra tai họa cho vợ.


Hết chiến tranh Trương Sinh trở về đối diện với nỗi mất mát: mẹ già vì thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua
đời. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng cũng dễ bị xúc động. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã kích
động tính ghen tng, nóng nảy của Trương Sinh. Tác giả xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính.
Chàng bế con<i>” <b>đứa trẻ khơng chịu, ra đến đồng nó quấy khóc”</b></i> chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói<i>” <b>Ơ hay! Thế ra</b></i>
<i><b>ơng cũng là cha tơi ư ? ng biết nói, chư khơng như cha tơi trước kia chỉ nín thi thít”.</b></i> Lời nói được tách ra thành hai
phần, phần sau thông tin càng <i>“ghê gớm”</i> hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh lại không khỏi bàng hồng khi biết đứa
trẻ có hai người cha, người cha Trương Sinh biết nói và người cha kia chỉ nít thin thít. Sau đó lại thêm những thơng tin<i><b>:”</b></i>
<i><b>Một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”.</b></i>
Tục ngữ có câu<i>:”<b>Ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ”,</b></i> trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con
khiến người cha không thể không nghĩ đến cảnh tượng của một đôi gian phu, dâm phụ, huống chi là Trương Sinh: “
<i><b>Tính chàng hay ghen, nghe con nói vây, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”</b></i><b>. Một</b>
cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo


Tuy nhiên, điều đáng trách là cư xử của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông
nỗi và hồ đồ. Không cần hỏi vợ đến nữa lời, vừa về đến nhà, chàng đã<i><b>”la um lên cho hả giận”</b>.</i> Chàng khơng cịn bình
tĩnh để phân tích, phản đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi <i><b>” họ hành, làng xóm bênh vực và biện</b></i>
<i><b>bạch cho nành, cũng chẳng ăn thua”.</b></i> Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân
gây xung đột: kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Những điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan
khi nhất quyết <i><b>” giấu</b><b>khơng kể lời con nói</b></i>”. Trương Sinh từ một người chồng độc đốn, ghen tng mù qng đã trở
thành một kẻ vũ phu, thô bạo<i><b>” mắng nhiếc nàng và</b><b>đánh đuổi đi”</b>.</i> Trước hành động ấy đã buộc người phụ nử đáng
thương phải chét một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương Sinh
tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn <i><b>“ giận nàng thất tiết”</b></i> và chỉ <i><b>“ động lịng thương”.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Đề cương ơn tập Ngữ văn 9</b>



Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đốn, chun quyền, sự


nịng nảy, ghen tng đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.


<b>3- Giá trị nhân đạo:</b>


Qua câu chuyện về Vũ Nương , tác giả muốn gởi gắm lòng thương cảm đối với những con người bất hạnh, đặc
biệt là những người phụ nữ với những nỗi oan tình. Tác giả đã cảm thông, chia xẻ với một kiếp người bất hạnh, đồng
thời muốn đề cao, ca ngợi họ. Bên cạnh là những lời tố cáo sắc bén về những hũ tục lạc hậu những luật lệ hà khắc của
xã hội phong kiến. Điều đó, chúng ta thấy được khi Nguyễn Dữ không cho Vũ Nương trở về nhân gian ở cuối truyện
chính là muốn tìm cho họ một con đường giải thoát khỏi những đau thương của xã hội phong kiến dành cho họ. Lời nói
của Vũ Nương là lời buột tội xã hội, tố cáo xã hội phong kiến thối nát khơng có chỗ cho những người như nàng dung
thân. Có thể đó là tiếng lịng của tác giả muốn gởi gắm trong câu chuyện này. Nguyễn Dữ muốn để lại một bài học sâu
sắc cho các đức ông chồng đặc biệt là những ông chồng đa nghi thất học như Trương Sinh.


<b>4- Giá trị nghệ thuật:</b>


Truyện có lối kể như một câu chuyện cổ tích nhưng hấp dẫn li cuống người đọc bằng những kịch tính đầy
những bất ngờ. Đặc biệt là hình ảnh chiếc bóng trở thành điểm thắt và mở của câu chuyện. Có thể nói làm nên giá trị
nghệ thuật của câu chuyện là những yếu tố kì ảo ở cuối truyện. Trong truyện cổ tích: <i><b>“ Vợ chàng Trương”</b></i> kết thúc ở
chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường. Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế là đã có hậu vì nỗi
oan của Vũ Nương đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.
Câu chuyện ở trâøn gian chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sư hấp dẫn của đoạn truyện này,
trước hết là nhờ yếu tố hoang đường, yếu tố kì ảo: Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai
xanh; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương; câu chuyện của Vũ Nương được
tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế; Hình ảnh Vũ
Nương hiên ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với <i><b>“ một chiếc</b></i>
<i><b>kiệu hoa đứng ở giữa dịng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sơng, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi</b></i>
<i><b>sau đó “ bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”</b></i> trong chốc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tố
hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực. Bởi tác giả khéo kết hợp những yếu tố thực về địa
danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu
chuyện của Phan Lang về tỉnh cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng chết.



Các yếu tố kì ảo có một ý nghĩa hết sức sâu sắc. Trước hết, những yếu tố kì ảo có ý nghĩa hồn chỉnh thêm nét
đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thế giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần
mộ tổ tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh q nhà, nàng <i><b>” ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết</b></i>
<i><b>đổi giọng mà rằng:</b></i>


<i><b>-Có lẽ khơng thể gửi hình, ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bấc, chim</b></i>
<i><b>Việt đậu cành non. Căm vì nỗi ấy, tơi tât phải tim về có ngày”.</b></i>


Và dù khơng cịn là con người của trần gian, nàng vẫn cịn đó, nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát phục hồi danh
dự: <i><b>“ Nhờ nói hộ với cháng Trương</b></i><b>, </b><i><b>nếu cịn nhớ đến chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt</b></i>
<i><b>cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.</b></i>


Điều quan trọng hơn, là những yếu tố kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện mơ ước
ngàn đời của người dân về lẽ công bằng: người tốt dù có trãi qua bao nhiêu oan khuất, cuối cùng cũng đã đền trả xứng
đáng, cái thiện bao giờ cũng thắng.


Tuy nhiên, kết thúc có hậu khơng làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng
chỉ thấp thoáng, lúc ẩn, lúc hiện ở giữa dịng sơng. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi thiếp <i>“ <b>đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở</b></i>
<i><b>về dân gian được nữa”.</b></i> Mà điều chủ yếu là nàng chẳng cịn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người
bạc phận chứ khơng thể nào làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự khơng tìm lai được.
Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu lộ thái độ phủ định cõi trần với xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người
phụ nữ khơng thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của
người phụ nữ trong chế độ phong kiến. So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm tính
trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương khơng trở về, Trương Sinh: càng phải cắn rứt càng ân hận về lỗi lầm của
mình.


<b>III- KẾT BÀI</b>


Bằng cốt truyện dân gian có sự sáng tạo, Nguyễn Dữ đã cho người đọc một câu chuyện đầy cảm động về số


phận của những người phụ nữ bất hạnh dưới xã hội phong kiến bất cơng và tàn bạo. Với tấm lịng u thương con người
sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện già dặn và những tình tiết lúc chân thực đời thường, lúc hoang đường kì ảo, tác giả
đã xây dựng hình tượng nhân vật vô cùng sống động mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó tác phẩm của ơng đã giáo dục
chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc của con người.
Tác phẩm là câu chuyện tình đầy cảm động với những đau thương bất hạnh của người phụ nữ ngày xưa, là bài học quí
giá về đạo đức vợ chồng từ xưa đến nay và mãi mãi sau này.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×