Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Cảm nhận về bài thơ Tràng Giang của Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.69 KB, 24 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN
BÀI MẪU SỐ 1:
Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện
rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại q trình viết nó. Cảm hứng thơ
được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này
đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết
Tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sơng nước, vắng lặng, đẹp và buồn
đúng như trong bài thơ đã tả.
Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ
bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ơng cịn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông
học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa". Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi
Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai” để tả nỗi buồn
của lịng mình: Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà. Chính khơng gian Đường thi trong
hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. Nếu viết ở thể thơ khác,
chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thơi Hiệu. Huy Cận thừa biết
mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng khơng chắc mình có chiều cao hơn người
ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hồng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ
khơng phải ở câu kết so đo ấy.
Bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại
thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu
cũng thấy. Mơ hồ vì buồn khơng rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì khơng rõ sắc thái, không rát
bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời
rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ
đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm.
Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn
thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận
nhược tiểu, một linh hồn nho nhỏ/ mang mang thiêng cổ sầu. Chất tâm hồn bất thường
bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người
đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lịng mình. Nghe trời nặng nặng,
nghe ta buồn buồn thì khơng gian trời nước qng sơng Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng


với lịng ơng mà thành thơ là điều khơng khó hiểu.
Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu đầu tiên vốn ít dùng trong ngôn
ngữ giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại chọn dùng... Có người giảng là để khỏi
nhầm với sơng Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ


căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng
đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dàn theo chiều ngang, bát ngát bao la hơn là
trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thn lại trong
khi tràng mở ra. Mặt sơng dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm,
chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ
sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn
sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật.
Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song" có người cũng cho là câu thơ
buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là khơng gắn bó gì với
nhau. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng
văn chương. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí
hài hồ xi chèo mát mái. Câu thơ này khơng buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước
song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn đến cái
buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy
là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường
nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sơng nước đến đây đã nhập vào thân
phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu... cho
thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn - Trăng
trong để mà khuyết - Bèo hợp để chia tan - Người gần để li biệt). Thuyền và nước song
song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sơng nước, sầu trăm ngả.
Từ hình ảnh trăm ngả dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.
Trên sơng Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trơi, thân gỗ trơi, vật vã nổi
chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mạd cảm xúc Huy

Cận ở bài này. Ơng nói ơng phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của
kiếp người. Chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một
cành mà lạc mấy dịng thì đắt q, chưa kể nó cịn ứng với sầu trăm ngả ở ưên.
Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và
ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu,
bến rộng... không gian mở ra rộng - cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên
tịnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một
phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này
mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “Nắng
xuống, trời lên sâu chót vót”. Sâu chứ khơng cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều
năm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"... Không màu sắc, không âm thanh,
không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.


Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt
sông, về chỗ bắt đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ
bặt dấu người. Hai đoạn trên cịn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sơng chỉ cịn có bèo,
duy nhất bèo, hàng nối hàng. Khơng đị ngang, khơng cầu bắc, khơng thấy một cơng trình
nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn
trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc". Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu
người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớ q, lịng q. Tình thế trơi dạt nổi nênh của ngoại
cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ. Bài thơ
khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính lơgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi
trọng trong bài thơ này. Có lẽ vì thế Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình,
và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn


BÀI MẪU SỐ 2:
Nhắc tới Huy Cận chúng ta không thể bỏ qua được một nhà thơ với những sáng tác

mang cảm hứng buồn trước khi bước vào phong trào thơ mới. Những sáng tác của ông
mang đậm tâm hồn và tài năng của ông xuyên suốt thời gian sáng tác. Tràng giang là một
trong số những sáng tác tiêu biểu, thể hiện nỗi buồn sâu thẳm sự xao xuyến bâng khuâng
của cái tôi Huy Cận trước cuộc sống, nhưng cảnh vật hiện ra trước mắt của thi nhân vẫn
mang một vẻ đẹp ẩn chứa những bất ngờ trong sáng tác.
Cảm hứng để sáng tác bài thơ là khi tác giả đứng trước sông Hồng mênh mông bao
la, và khi nhìn thấy sự kì vĩ của thiên nhiên , khiến tác giả lại ngẫm lại chính cuộc sống
của mình hiện tại, cũng thật nhỏ bé, không biết sẽ như thế nào trước cuộc đời rộng lớn
này. Tràng Giang mang một vẻ đẹp cổ điện, như được chấm phá bằng các nét vẽ linh hoạt
của các nghệ sĩ trước bức tranh thủy mặc sơn nước hữu tình. Hai chữ tràng Giang vốn là
hai từ hán việt ghép vào nhau mà tạo thành. Tràng có nghĩa là mênh mơng, trải rộng cịn
giang chính là sơng. Đây lại là một âm mở,cứ thế nếu cứ ngân dài hai chữ này thì mãi
mãi khơng có kết thúc. Mọi thứ cứ trải dài, trải dài khơi gợi cho độc giả nhiều liên tưởng
thú vị. Đầu đề chỉ là 2 chữ đó thơi mà tồn bài thơ lại lấy được cảm xúc của độc giả nhiều
đến như vậy. Quả thật sự tài tình của ngịi bút Huy Cận trong miêu tả và thể hiện trong
suốt những câu từ của bài thơ. Đứng trước cảnh tượng thiên nhiên hùng vĩ như thế, lịng
ơng lại dấy lên một nỗi buồn mơ hồ, khơng hiểu rõ là gì và bắt nguồn từ đâu. Nhưng có lẽ
trước sự nhỏ bé của con người trước trời đất, cảnh khiến ta ngẫm nghĩ và chiêm nghiệm
về những gì đã xảy ra và những gì đang tới.một nỗi buồn vơ cớ, nhưng cái cớ đó lại cho
chúng ta những phút giây trải nghiệm và tìm ra câu trả lời cho chính bản thân mình.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ lại càng gợi ra vẻ mênh mông và một nỗi trống vắng
mênh mang của dịng sơng và trong chính tâm hồn thi sĩ. Cái hay của bài thơ là ở chỗ,
mặc dù những từ ngữ được sử dụng rất đơn giản nhưng chính nó lại được sử dụng đúng
chỗ nên càng tăng thêm vẻ đẹp và chiều sâu ý nghĩa cho bài thơ. “ điệp điệp” là từ láy
dùng để miêu tả những gợn sóng trên sơng, nhưng nó lại kết hợp với từ buồn khiến chúng
ta liên tưởng đến nỗi buồn điệp điệp,đến từng đợt trong lịng thi sĩ. Và hình ảnh tiếp theo
cũng được cho là một câu thơ mang sắc thái buồn. Xuất hiện giữa dịng sơng là hình ảnh
con thuyền,nhưng dường như nó cũng là con thuyền cơ độc, hai từ “ song song” được
Huy Cận sử dụng như nói tới cảnh khơng có điểm chúng. Nhưng có lẽ câu thơ hay nhất
phải kể đến câu “Củi một cành khơ lạc mấy dịng”. Hình ảnh củi khơ chứ khơng phải

hình ảnh của một chiếc lá xanh hay một sự vật khác đầy sức sống. Nó đã trở thành một
thứ mà trên dịng nước ấy, bị trơi dập khơng biết về nơi đâu.lại với cọm từ” lạc mấy
dòng” càng tỏ ra sự đời trơi nổi, khơng có sự lựa chọn hay khơng biết phải chọn cái gì.
Đứng trước cuộc đời bao nhiêu ngã rẽ, biết đâu là nơi mà mình có thể đi tiếp, cũng như
hình ảnh củi khơ, mặc cho gió tấp sóng dập mà vẫn cuộn trịn giữa dịng xốy cuộc đời.


Những hình ảnh của đoạn thơ tiếp theo cũng khơng có gì vui hơn, những chi tiết mà
ngay khi chúng ta đọc lên đã có một cảm giác ảm đạm thiếu sức sống. Phải chăng nó là
cảnh tượng của một buổi chiều tà. Hình ảnh “ cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng”..như
tác giả đang vẽ khiến không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Mọi thứ
trở nên “thưa vắng và yên tịnh” . sự tính lặng đó lại càng nổi bật làm nền cho âm thanh,
chỉ có một âm thanh xa vang vọng về nhưng lại khiến cho bài thơ, càng chìm vào trong
khơng khí cổ kính, nhuốm màu q khứ và hồi niệm. Âm thanh đó mơ hồ là cách đặc tả
cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang giãn dần ra
theo nắng, theo trời: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. Từ “ sâu “ được sử dụng miêu
tả độ cao của trời khiến cho hình ảnh miêu tả này rất đắt. Sâu chứ khơng cao là một sáng
tạo, nó gây ấn tượng cho người đọc.tất cả như chịm vào bến cơ liêu. Mỗi chữ mỗi hình
ảnh của bài thơ đều ngấm cái buồn, cái trống vắng và cô độc, ngay cả bến chờ cũng là
Bến cơ liêu. Hình ảnh bèo dạt mây trơi khiến chúng ta liên tưởng về những bài thơ, bài
ca dao về sự trơi nổi bấu víu. Khơng biết từ bao giờ bèo trôi về mặt sông, về chỗ bắt đầu
bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Giờ đây, trên sơng chỉ cịn có bèo, duy nhất bèo,
hàng nối hàng. Khơng đị ngang, khơng cầu bắc, khơng thấy một hình ảnh hay cơng trình
nào mang dáng dấp con người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Nỗi buồn miên
man theo cảnh.mọi thứ đều nhuốm một nỗi buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng” và dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Qua đơi cánh chim nhỏ và rơi
xuống một lịng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng càng dội lên nỗi nhớ q, lịng
q. Tình thế trơi dạt thiên nhiên khiến chính con người chúng ta càng thêm ngậm ngùi
thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình quần tụ.Tính logic trong những bước chuyển
của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. Kết thúc của bài thơ là nỗi nhớ nhà, mọi

thứ trong bài thơ được đẩy đến cao điểm và do đó nỗi buồn đó có lí do của nó
Huy Cận đã mang tới cho người đọc những phút chới với trong cảnh sắc của thiên
nhiên với vẻ buồn bã cô độc, mọi thứ trỉa dài theo chiều sâu và chiều rộng nhưng nó càng
làm cho sự mênh mang thêm sâu sắc. Cảnh khiến lòng xao động, cảnh khiến người ngậm
ngùi và cũng chính là lúc khiến con người nhận ra bản thân mình nghĩ gì.Có lẽ vì thế Huy
Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.


BÀI MẪU SỐ 3:
Huy Cận (1919 – 2005) cũng như nhiều thanh niên thời đó nhận thức được cuộc đời
sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường hay có nỗi buồn cơ đơn. Bài thơ Tràng
Giang được trích trong tập thơ Lửa Thiêng và được xem là một bản ngậm ngùi dài. Bài
thơ được viết vào mùa thu năm 1939 và cảm hứng sáng tác được khơi gợi từ hình ảnh
sơng Hồng mênh mơng sóng nước, bốn bề bao la vắng lặng. Khi cảm thụ bài thơ này các
em lưu ý từ ngoại ảnh (những điều tác giả miêu tả) mà cảm nhận tâm cảnh (nỗi lòng
người trong cảnh).
Khổ 1: Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khơ lạc mấy giịng.
- Hình ảnh quan sát được trên dịng sơng rất chân thực nhưng đầy sức gợi.
+ Sóng gợn tràng giang thật nhẹ nhàng, lan tỏa đến vô cùng – gợi nỗi buồn mênh
mang (buồn điệp điệp)
+ Con thuyền buông xuôi mái chèo một cách thủ động, mặc cho dòng nước đẩy đưa
gợi sự lênh đênh. So với sơng nước tràng gian nó cũng hết sức lẻ loi, bé nhỏ.
+ Hình ảnh “nước song song” “thuyền về nước lại” không hứa hẹn về sự hội tụ, gặp
gỡ mà chỉ là chia lìa, xa cách.
+ Đặc biệt gợi cảm là câu thơ “Củi một cành khơ lạc mấy dịng”. Hồn tồn là tả
thực, khơng sa vào ước lệ sáo mịn. Một cành khơ nhỏ bé, mỏng manh, lạc lồi giữa
mênh mơng sóng nước biết trơi dạt về đâu. Người trong cảnh khơng thể khơng chạnh
lịng nghĩ đến thân phận mình: một cá thể nhỏ nhoi, bơ vơ trơi dạt giữa dịng đời.
+ Chú ý khai thác nghệ thuật của khổ thơ: Phép đối (buồn điệp điệp – nước song

song; sầu trăm ngả - lạc mấy dòng); từ láy âm (điệp điệp, song song); tương phản giữa cá
thể và vũ trụ (một cành / mấy dòng).
- > Khổ thơ gợi nỗi buồn về sự chia li, tách biệt thiếu giao cảm giữa các cá thể với
nhau, đặc biệt là nỗi buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời.
Khổ 2: Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống,
trời lên sâu chót vót; Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.
- Hai câu đầu làm nổi bật sự đìu hiu, vắng lặng của cảnh chiều. Đứng trong cảnh
khơng gian đó, con người lại càng cơ đơn, càng khát khao được nghe những tiếng vọng
thân thiết của cuộc đời (nghê thuật dùng từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” vừa có giá trị tạo hình
vừa có khả năng biểu đạt tâm trạng sâu sắc: gợi lên được sự buồn bã, quạng vắng, cơ
đơn…. Nhà thơ tìm kiếm âm thanh cuộc sống của con người (đâu tiếng …. Chợ chiều)
nhưng đồng thời phụ định ngay trong cách dùng từ “đâu” (không có). Chợ ở một làng xa,
lại là chợ chiều, mà chợ đã vãn thì làm sao cịn tiếng. Tất cả đều vắng lặng cơ tích.


Những từ: chiều, xa, vãn, góp phần triệt tiêu âm thanh, triệt tiêu điều tác giả khát khao
tìm kiếm).
- Hai câu cuối khổ thơ, không gian được mở rộng ra nhiều chiều: cao, sâu, rộng, dài.
Trong vụ trũ vô cùng, thăm thẳm ấy không chỉ cảnh vắng, cô lieu mà lòng người cũng
như rợn ngợp, bởi sự bé nhỏ, lạc lồi của cá thể trước cái mênh mơng của đất trời. (Hàng
loạt từ mở không gian ra nhiều hướng: xuống, lên, sâu chót vót, dài, rộng). Các kết hợp
từ rất độc đáo “sâu chót vót” vừa gợi được độ cao của bầu trời vừa gợi được chiều sâu
thăm thẳm của vũ trụ. Cách ngắt nhịp thơ có hiệu quả diễn ý: “Sông dài, trời rộng, bến cô
lieu”, tô đậm thêm tính chất phân li của các sự vật).
Khổ 3: Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đị ngang.
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật. Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Tiếp tục khắc sâu, tô
đậm mạch cảm xúc đã thể hiện ở hai khổ đầu.
- Cái hiện hữu trước mắt vẫn là những hình ảnh gợi sự lênh đênh, vô định (bèo dạt về
đâu) và tĩnh vắng, cô liêu (bờ xanh tiếp bãi vàng). Chú ý khai thác hiệu quả nghệ thuật: từ
ngữ gợi sự liên tiếp, nối tiếp của hình ảnh buồn (hàng nối hàng; bờ…tiếp…bãi…); Đạo

ngữ (lặng lẽ).
- Hình ảnh mà thi sĩ khát khao tìm kiếm là “Chuyến đị ngang”, là “cây cầu” nhưng
sự phụ định đãn nằm ngay trong điệp từ “khơng”. Cảm thức về sự cơ đơn lạc lồi trước
cảnh sông dài trời rộng đã khiến nhà thơ mong được đón nhận tiếng nói của con người
(Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều), mong được nhìn thấy sự giao lưu, gần gũi giữa con
người với con người nhưng tất cả vẫn là sự cách ngăn (Hình ảnh con đị, chiếc cầu tượng
trưng cho sự giao lưu đôi bờ nhưng khơng có). Nhà thơ khơng chỉ buồn khi đối diện với
vụ trũ bao la, mà còn buồn về cuộc đời, về nhân thế.
Khổ 4. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc... Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa Lịng
q dợn dợn vời con nước, Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.
- Khổ thơ này mang màu sắc. Đường thi khá rõ từ hình ảnh ước lệ (cánh chim hướng
về núi chỉ cảnh chiều tối) đến cách dùng một số thi liệu thơ Đường (Hình ảnh “Lớp lớp
mây cao đùn núi bạc” lấy ý từ câu thơ của Đỗ Phủ trong bài Thu hứng “Lưng trời sơng
rợn lịng sơng thẳm – Mặt đất mây đùn cửa ải xa” đều nhằm chỉ sự hùng vĩ của thiên
nhiên. Tuy nhiên câu thơ của Huy Cận miêu tả thiên nhiên lấp lánh, tráng lệ mang nét
độc đáo riêng). Hoặc hai câu thơ cuối phảng phất ý vị thơ Thơi Hiệu “Q Hương khuất
bóng hồng hơn – Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai”
– Nêu cái buồn của Thôi Hiệu bắt nguồn trực tiếp từ ngoại cảnh thì nỗi sầu nhớ của
Huy Cận có căn ngun từ cõi lịng). - Hình thức ngơn ngữ mang màu sắc cổ điển nhưng
cảm xúc chứa đựng trong lớp ngơn từ đó lại mang tình hiện đại: cái tơi bơ vơ, cố đơn, rợn
ngợp trước cuộc đời. Hình ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ” gợi cảm giác chấp chới, rợn


ngợp. Nỗi nhớ nhà “dợn dợn” trong lịng. Đó chính là nỗi khát khao tìm một chỗ dựa cho
tâm hồn cô đơn trống vắng của tác giả, chứ không phải là nỗi nhớ nhà thông thường của
một người xa quê. Bài thơ Tràng giang gợi lên nỗi bơ vơ, buồn bả của con người trước
không gian mênh mông, vô biển và nỗi khát khao giao cảm hòa hợp giữa người với người
trong tình đất nước.



BÀI MẪU SỐ 4:
Hình ảnh những con sơng q hương đã biết bao nhiêu lần trở đi trở lại trong thơ ca.
Mỗi một con sông lại gắn liền với tên của từng thi sĩ, nếu như nhà thơ Hoàng Cầm gắn
tên mình với con sơng Đuống lấp lành hiền hịa, Tế Hanh nhớ con sông Quê Hương,
Thanh Hải xao xuyến với dịng sơng xứ Huế, Quang Dũng kết thân với dịng sơng Mã thì
Huy Cận lại chọn dịng sơng Hồng để làm nên tứ thơ của mình. Dịng sơng ấy được vẽ
lên thật đẹp qua bài thơ Tràng Giang.
Huy Cận là một chàng sinh viên của trường Đại Học Canh Nơng, mỗi buổi chiều ơng
thường một mình đạp xe lên con đê chèm để ngắm con sơng Hồng chảy. Chính cảnh vật
sông nước nơi đây đã gợi lên tứ thơ Tràng Giang trong Huy Cận. Có thể nói biết bao
nhiêu tâm sự nhà thơ chọn sông Hồng là nơi bầu bạn chia se mọi điều. Và cứ thế nó trở
thành một thói quen, chiều nào cũng thế nhà thơ ln đạp xe lên đê để ngắm dịng sơng.
Thêm nữa hồn thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám mang một nỗi sầu rất lớn.
Và có thế mà Tràng Giang hiện lên tuy đẹp những cũng chất chưa biết bao nhiêu nỗi
buồn, nỗi sầu của nhà thơ. Đó là cái buồn trước thời đại cuộc đời.
Về nhan đề của bài thơ thì ban đầu bài thơ có nhan đề là chiều bên sơng. Nhan đề ấy
q cụ thể và ít sức gợi không tạo được sức hấp dẫn và thu hút người đọc chính vì thế mà
sau này nhà thơ có đổi thành Tràng Giang và cái nhan đề ấy tồn tại đến tận bây giờ.
Tràng Giang là một từ hán việt cho nên nó tạo nên một sự trang trọng cổ kính hấp dẫn
người đọc hơn. Tràng Giang cũng có nghĩa là sông dài nhưng tại sao tác giả không chọn
nhan đề sông dài mà lại chọn Tràng Giang?. Mỗi người nhà thơ khi đặt tên cho đứa con
tinh thần của mình đều có cái lý riêng của mình. Để giải thích cho cách đặt nhan đề ấy
chúng ta có thể thấy rằng Tràng và Giang đều có chung một vần “ang” nó tạo nên sự
cộng hưởng của âm điệu làm cho nhan đề nghe hay hơn. Không những thế “ang” còn là
một âm mở cho nên khi đọc lên người ta thấy được sự âm vang của câu chữ.
Lời đề từ của bài thơ cũng mang đến những tâm trạng bao trùm cả bài thơ “Bâng
khuâng trời rộng nhớ sơng dài”. nó gợi lên cả tứ thơ tràng giang với nội dung và tâm
trạng. Tràng Giang hiện lên với hình ảnh của cảnh sơng trời dài rộng và tâm trạng của
con người là thương nhớ bâng khuâng.
Đến với khổ thơ thứ nhất chúng ta được chiêm ngưỡng hình ảnh của một dịng sơng

với sóng gợn và con thuyền trơi trên mặt nước:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.”


Hình ảnh sóng Tràng Giang hiện lên đầy tâm trạng, nó được truyền tải hết qua hình
ảnh của những đợt sóng tràng giang, con thuyền xi mái và cành củi khơ lạc dịng. Sóng
Tràng Giang hay là sóng trong lịng tác giả?. Con sóng kia như mang màu tâm trạng
“buồn điệp điệp”. Người ta thường nói núi trùng trùng điệp điệp nhưng ở đây nhà thơ lại
nói là sóng điệp điệp. Qua câu thơ chúng ta thấy hiện ra trước mắt hình ảnh những đợt
sóng trùng điệp nối tiếp nhau nhưng không ồ ạt dữ dội mà chỉ “gợn”. Ở đây ta thấy hay
một điều là nghe “điệp điệp” thì có vẻ dữ dội lắm nhưng mà chỉ là gợn mà thơi. Ngược
lại sóng gợn chút thơi nhưng lại mang đến sự dữ dội trong lịng người. Có lẽ hiểu theo ý
thứ hai hợp lí hơn. Nhà thơ đứng trước những gợn sóng nhẹ nhàng của Tràng Giang mà
lại thấy buồn dữ dội. Trên dịng sơng mênh mơng ấy ta thấy có con thuyền nhỏ nhoi rẽ
nước xi mái song song. Thuyền về nước lại đi thể hiện sự chia ly buồn bã. Đặc biệt là
hình ảnh củi một cành khơ tượng trưng cho chủ thể trữ tình với tâm trạng cô đơn và lạc
lõng vô định không biết trôi về đâu. Tóm lại qua khổ thơ đầu ta nhà thơ đã mở ra một
không gian mênh mông của Tràng Giang, đối lập với sự mênh mông ấy là những hình
ảnh nhỏ bé. Và những hình ảnh ấy bộc lộ lên một tâm trạng, đó là buồn sầu, rợn ngợp.
Nhà thơ như thấy mình nhỏ bé trước cuộc đời.
Để nối tiếp dịng cảm xúc với làn nước điệp điệp trơi ấy, nhà thơ tiếp tục hướng con
mắt của mình ra xa sang hai bên bờ sơng. Để rồi từ đó ta lại thấy được bức tranh cảnh
Tràng Giang với không gian ba chiều đẹp nên thơ nên nhạc. Thế nhưng nó vẫn mang một
nỗi buồn phảng phất mãi khơng thơi:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sơng dài, trời rộng, bến cô liêu.”
Từ láy “lơ thơ” thể hiện sự thưa thớt của những cồn đất cịn đìu hiu là khơng khí nơi
đây mang một vẻ hiu hắt đến rợn người. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại dùng hai tính
từ chỉ sự thưa thớt, vắng vẻ ấy trong cùng một câu thơ mà dụng ý của Huy Cận là làm
tăng thêm sự vắng vẻ của không gian nơi Tràng giang gợn sóng. Một tính từ thơi đã đủ
làm cho người ta cảm nhận được cái vắng vẻ rồi thế mà thêm một tính từ nữa thì càng
làm cho người ta thấy cái vẻ u tịch hiu hắt như từng tiếng thở dài của nhân vật trữ tình.
Từng tiếng thở dài miên man như nhỏ giọt rồi hịa mình vào sóng. Ngay đến cai khung
cảnh mà nhà thơ chọn cũng thật sự buồn, đó là cảnh chiều nó gợi lên sự tan hoang, từ giã,
vắng vẻ. Có cảnh có gió rồi giờ là lại xuất hiện thêm âm thanh chỉ tiếng chơ chiều. “đâu”
thể hiện âm thanh ấy thật mơ hồ khơng thể xác định được chính xác nó phát ra từ nơi nào.
Phải chăng trước sự cô đơn nhà thơ như muốn tìm kiếm một âm thanh cuộc sống náo
nhiệt như tiếng chợ đông vui thế nhưng lại chỉ là mờ ảo. Sau đó là khơng gian ba chiều


của Tràng Giang được nhà thơ gói gọn trong hai câu thơ. Hồng hơn như đang bng
xuống ánh nắng xà xuống thấp hơn và như đang dần tắt lịm dưới chân trời. Ánh nắng
càng xuống thì nhìn bầu trời sâu hun hút, sơng thì như dài rộng hơn. Có lẽ đó chính là lý
do nhà thơ dùng từ “sâu chót vót” chứ khơng phải là “cao chót vót”. Thế nhưng càng
rộng càng dài bao nhiêu thì lại càng cơ liêu càng nhỏ nhoi đơn độc bấy nhiêu.
Trên con sông ấy những hình ảnh đã hiếm hoi mà khi có hình ảnh xuất hiên thì lại
ln là những hình ảnh q đỗi nhỏ bé so với con sông rộng lớn mênh mông ấy:
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đị ngang.
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh những đám bèo trơi xuất hiện, xua nay bèo ln là hình ảnh để người ta ví
von cho thân phận trơi nổi vơ định nay đây mai đó của con người. và ở đây có lẽ nhà thơ
cũng dùng với dụng ý nghệ thuật ấy. Có lẽ những hàng bèo nối tiếp nhau kia để chỉ cho
thân phận nhà thơ lênh đênh vô định khơng biết cuộc đời mình sẽ đi về đâu. Trước sự

mênh mơng ấy khơng có một chuyến đị ngang qua sơng, để cho sơng chỉ tồn sóng nước,
đã mênh mông lại càng mênh mông hơn. Trên sông cũng không có một chiếc cầu nào bắc
ngang để nhà thơ tìm sự kết nối và cứ thế sông nước lặng lẽ buồn thiu chỉ có bờ cỏ xanh
rồi tiếp đến bãi cát vàng. Khung cảnh thì nên thơ như thế nhưng chao ôi sao mà buồn
man mác. Cái nỗi buồn ấy nó lan tỏa vào trái tim người đọc để rồi thấu hiểu và đồng cảm
với con người nhỏ bé trước thực tại.
Sông thường đi liền với núi và ở đây nhà thơ cũng hồn thành bức tranh Trang Giang
của mình bằng nhưng hình ảnh mây núi:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.”
Có thể nói trong việc miêu tả cảnh đẹp sơng nước nhà thơ sử dụng triệt để những từ
láy gợi hình. “Lớp lớp mây cao” giúp chúng ta cảm nhận được một cảnh tượng những
đám mây cuồn cuộn thành từng lớp một bồng bềnh ở chân trời như sà xuống đứng trên
núi. Khiến cho những dãy núi chuyển thành màu bạc trắng. Trên khơng gian bầu trời
mênh mơng ấy có cánh chim nhỏ khẽ chao nghiêng như trở bóng chiều sa. Hình ảnh mây
đùn nui bạc và cánh chim kia đều là những hình ảnh cổ điển. Nó gợi lên sự cổ kính trang
trọng biết nhường nào. Cánh chim nghiêng thường gắn với buổi chiều, Hồ Chí Minh
cũng từng sử dụng hình ảnh cánh chim ấy trong thơ của mình:


“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chịm mây trơi nhẹ giữa tầng không”
Đặc biệt hai câu thơ cuối khiến cho ta nhớ đến hai câu thơ của Thôi Hiệu:
“Quê hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai”
Nếu như Thơi Hiệu nhìn thấy khói sóng thì chạnh lịng nhớ đến q nhà thì ở đây
nhà thơ Huy cận khơng cần đến khói sóng mà trong long cũng dợn dợn nhớ quê hương.
Nhà thơ cũng có đi đâu xa, nhà thơ vẫn đứng trên mảnh đất quê hương mình. Có thể thấy

đứng trên q hương nhưng nhà thơ vẫn thấy thiếu quê hương.
Qua bài thơ này chúng ta như được trở về quãng thời gian trước đây để ngắm tồn
cảnh sơng Hồng vào buổi chiều gió hiu hắt. Khung cảnh ấy gợi lên cho biết bao nhiêu
con người tình yêu quê hương đất nước mình, những cảnh đẹp đã làm nên hình hài đất
nước. Thế nhưng cũng mỗi lần đến với bào thơ này chúng ta lại thêm yêu thêm thương
nhà thơ Huy Cận với nỗi bâng khuâng, cô đơn của ông trước thực tại cuộc sống.


BÀI MẪU SỐ 5:
Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông
rất giàu chất suy tưởng,triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng
Giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong
cách thơ của nhà thơ
Ngay ở câu đề từ của bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của
cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chính xác
cả cảnh lẫn tình của bài thơ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Củi mội cành khô lạc mấy dịng
Đứng trước cảnh mênh mơng sơng nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên.
Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã dùng ngơn ngữ giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua
những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh "sóng gợn" gợi
cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra đến vô tận cũng giống như nổi
buồn của nhà thơ âm thầm mà da diết khơn ngi. Con sóng ở giữa một dịng sơng dài và
rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật
đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lịng khơng biết bày tỏ tâm
trạng cùng ai. Tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ơng và
đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống , trời lên sâu chót vót
Sơng dài , trời rộng bến cơ liêu
Lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh "cồn, gió , làng , chợ , bến" để giãi
bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vậy trở nên thưa và vắng mang
đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên
nhà thơ cảm nhận được:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm
thanh đó khơng rõ ở chỗ nào. Nhà thơ đã cố gắng tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh
mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và nhà thơ đã chuyển nhãn quan của mình
đến một điểm mới.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sơng dài , trời rộng bến cô liêu


Nhà thơ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự chuyển động hai
chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng
mênh mông sông nước, đất trời hun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài
vơ tận.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Hình ảnh cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo
trôi không biết dạt về đâu, khơng có một cái cầu, khơng chuyến đị để đưa khách, cảnh
tưởng như vậy thì làm sao con người thốt được nỗi buồn. Miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã
thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc
đời để có cuộc sống tốt đẹp hơn.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướngnhãn quan của
ơng đã hướng lên vũ trụ và ơng thấy hình ảnh đầu tiên là những đám mây, với từ "đùn"
cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hồng hơn chiếu
vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là "núi bạc". Hình ảnh này tuy rực rỡ
nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ơng tích tụ như núi.cùng với
đám mây cịn có hình ảnh cánh chim.
Lịng q dợn dợn vời con nước
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Tác giả đã dùng tự láy "dợn dợn" để diễn tã những con sóng vời theo con nước lan
tỏa ra tích tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra
khắp nơi.
Bài Tràng Giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ.
Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm
chân thành với quê hương đất nước của nhà thơ. Với cách tiếp cận với những vấn đề gần
gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt
Nam.


BÀI MẪU SỐ 6:
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước
Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên
nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau
cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới
cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày
lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phầm không thể khơng kể đến đó là
tác phầm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên
nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trơi
nổi giữ dịng đời vơ định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sơng dài” đã gợi cho người đọc một không
gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển
trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dịng “Trường giang” trong thơ Đường
thi, một dịng sơng của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mơng đó lại là
nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.
Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả
bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sơng dài" lại
khiến cho lịng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng"
được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu,
cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lịng đầy
ưu tư, sầu não như thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng”
Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không
gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song
song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được khơng gian mênh mơng, bát
ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong
thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn
kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vơ cùng lớn, cứ
nối tiếp nhau mãi khơng hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn
dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi
người luôn ln trơi nổi giữa dịng khơng biết đi đâu về đâu. Dịng sơng thì bát ngát vơ
cùng, vơ tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả


Củi một cành khơ lạc mấy dịng.”
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia

lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong
lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua
câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ
kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một"
gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khơ" gợi sự khơ héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi
sầu vô định, trơi nổi, bập bềnh trên "mấy dịng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mơng.
Cành củi khơ đó trơi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, khơng tơ vẽ mà sao đầy rợn ngợp,
khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn cơi.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngơn từ những hình tượng hết sức gần
gữi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không
gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vơ định trong lịng người ẩn chứa trong bức tranh
thiên nhiên hung vỹ
Và nỗi lịng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã
vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu
hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cơ độc khiến cho con người
trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc
đến khung cảnh chợ , mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn
người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi
người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sơng dài, trời rộng, bến cơ liêu.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về khơng gian, nhưng vẫn gợi
cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là
cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời,
điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà
cịn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy
được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh

tượng mênh mơng đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ
thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó cịn là cảnh vật của lịng người. Nhà thơ lại
nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi


ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao
khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đị ngang.
Khơng cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trơi bồng bềnh trên sơng là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ
điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trơi của kiếp người vơ định giữa dịng đời.
Nhưng trong thơ Huy Cận khơng chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”
chứng tỏ rằng khơng có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc
long trong cuộc sống
“Mênh mông không một chuyến đị ngang
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật.”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những
kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây khơng có chút gì gợi niềm thân mật để
kéo mình ra khỏi nỗi cơ đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mơng,
mênh mơng. Cầu hay chuyến đị ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như
đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trơi đi nơi nào.
Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để
diễn tả nỗi lòng
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật
trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực

từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ
kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên
cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian
bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả
hồng hơn trong thơ ca cổ điển.
Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so
sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngàt của thiên nhiên cùng với nỗi
buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ
Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều
này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng


đơi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lịng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc
một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận cịn bày tỏ tình u q
hương đất nước con người của chính bản thân ơng.


BÀI MẪU SỐ 7:
Huy Cận là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào “Thơ Mới”. Ông
nổi tiếng với các tác phẩm như: Lửa Thiêng, Vũ trụ ca, Kinh cầu tự…Bạn đọc biết đến
ông nhiều nhất qua bài thơ Tràng giang rút từ tập Lửa thiêng là một trong những bài thơ
nổi tiếng nhất của Huy Cận.
Huy Cận tâm sự rằng, bài thơ Tràng Giang là do con sơng Hồng gợi tứ, lúc đầu bài
thơ có tên là Chiều bên sơng nhưng sau đó nhà thơ đổi tên là Tràng Giang. Nhan đề bài
thơ Tràng giang gợi lên khơng khí cổ kính bởi hai từ Hán Việt gợi hình ảnh một dịng
sơng dài rộng mênh mơng. Khơng chỉ vậy, âm “ang” gợi âm hưởng mênh mang như tiếng
sóng vỗ vào lịng ta biết bao nỗi niềm. Và nỗi niềm ấy còn lắng đọng hơn, da diết hơn bởi
câu đề từ mang cảm xúc chủ đạo cho toàn bài “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Bài thơ mở đầu bằng một Tràng Giang mênh mang sơng nước:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dịng”
Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi: dịng sơng, con thuyền, gợn
sóng,… Nhưng cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng khuâng. Hai chữ
“điệp điệp” gợi hình ảnh những con sóng từng gợn nhẹ nhấp nhơ hịa mình vào Tràng
giang rồi biến mất trong dịng chảy mênh mơng. Sóng của dịng sơng, của thiên nhiên
trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lịng của thi nhân với từng nỗi buồn cứ thế trùng
điệp ở trong lòng. Nguyễn Du từng viết “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có lẽ vì
lịng người buồn mà tâm cảnh cũng nhuốm lên ngoại cảnh. Nhìn đâu thi nhân cũng chỉ
thấy cảnh vật rời rạc chia ly, u sầu cứ thế mà hiện lên trong từng câu chữ. Xưa nay,
thuyền – nước vốn là hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như
không ăn nhập vào nhau “Con thuyền cũng không buồn lái, để mặc xuôi theo dòng nước
lặng lờ. Ngay cả dòng nước trong bản thân con sông cũng không thiết đến nhau, cứ âm
thầm mà chảy “song song”, vờ không quen biết nhau trong đời”.
Rồi bất ngờ thay, trên dịng chảy mênh mơng ấy, thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn
độc “Củi một cành khơ lạc mấy dịng”. Nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét rằng
“Lần đầu tiên trong lịch sử thi ca, một cành củi khô trôi vào thơ Huy Cận như nỗi cô đơn
của một kiếp người trong xã hội cũ”. “Cành củi” thôi đã gợi lên sự nhỏ bé, đơn độc lại
cịn “củi khơ” nữa thì lại càng bé nhỏ tội nghiệp hơn. Phải chăng hình ảnh cành củi khơ
trơi nổi phù du trên sóng nước Tràng giang chính là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho
kiếp người như thi nhân đang nổi trôi, bơ vơ, vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa
cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền ?


Vẫn tiếp nối cái u sầu, buồn bã của khổ một, khổ thơ tiếp theo như đẩy đưa con
người lên đến đỉnh sầu:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót.

Sơng dài, trời rộng bến cơ liêu.”
Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm: “Non Kỳ
quạnh quẽ trăng treo/ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gị”. Và thần thơ cổ điển ấy đã nhuốm
vào Tràng giang mang cái buồn thương hiu hắt. Trên dịng Tràng giang mênh mơng, mọc
lên “lơ thơ cồn nhỏ”. Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất nhỏ
nhoi mọc lên giữa dịng sơng gợi cảm giác hoang vắng, cơ tịch, tiêu điều, xơ xác. Hai chữ
“đìu hiu” như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một
tiếng thở dài man mác.
Trong tiếng gió buổi chiều là âm thanh của cuộc sống con người nhưng nghe mơ hồ
quá “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Đâu là ở đâu ? Không xác định. Đó là thứ âm
thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo làn gió lan xa mãi. Nó chỉ thống qua trong
gió rồi tắt lịm giữa bóng chiều đang xuống càng làm cho cảnh chiều hư vô, càng gợi thêm
sự vắng vẻ, quạnh hiu. Nhà thơ như đang bị vây giữa không gian ba chiều rộng lớn
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sơng dài trời rộng bến cơ liêu”. Vũ trụ được đẩy lên
cao bởi khi nắng chiều xuống, bầu trời như được nâng lên hẳn làm nên độ cao “sâu chót
vót”. Chữ “sâu” rất ấn tượng. Nếu dùng từ “cao” thì chỉ tả được độ cao vật lý của bầu trời
còn chữ “sâu” vừa tả được độ cao vừa gợi được cảm giác của con người trước chiều cao
ấy. Đó chính là sự rợn ngợp của hồn người trước cái vơ cùng của vũ trụ. Vì thế đọc câu
thơ lên ta có cảm giác hồn mình như đang mênh mang cùng thiên địa. Con người trong
phút ấy trở nên nhỏ bé cô đơn hơn bao giờ hết. Nhà thơ gọi qng mình đứng là “bến cơ
liêu” hay chính tâm hồn thi nhân đang lẻ loi và hoang vắng. Có lẽ Huy Cận và Xuân Diệu
đã đồng điệu khi gọi hồn mình là “bến cơ liêu” hay “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” (Xuân
Diệu)
Nhưng chưa dừng lại ở đó, cái tơi cơ đơn của thi nhân cịn đi sâu hơn nữa vào
ngọn nguồn của nỗi buồn thương:
“ Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đị ngang.
Khơng cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”



Hình ảnh cánh bèo trong “bèo dạt về đâu” mang thân phận con người: lạc lồi, trơi
nổi. Đó chính là hình ảnh của số phận con người “hàng nối hàng” không biết đi về đâu
trong xã hội cũ khi chưa có cách mạng về. Cảm giác cơ đơn khiến nhà thơ muốn tìm đến
một sự gần gũi, một sự kết nối. Phóng tầm mắt ra sơng rộng thấy “Mênh mơng khơng
một chuyến đị ngang”; “Khơng cầu gợi chút niềm thân mật” để rồi thấm thía một sự đơn
độc trọn vẹn. Hai từ “khơng” hai lần phủ định “khơng đị”, “khơng cầu” trong hai câu thơ
như hai cái lắc đầu buồn bã. Chỉ có con người đơn độc giữa khơng gian vơ tình, vơ cảm.
Nhìn đâu cũng chỉ thấy “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.
Khổ thơ cuối cùng khép lại mang niềm tâm sự sâu kín của thi nhân về tình yêu quê
hương đất nước:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lịng q dợn dợn vời con nước,
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.”
Một khơng gian quen thuộc, đúng là hình ảnh trong một bức tranh cổ : một rặng
núi xa, những đám mây bạc từ mặt đất chầm chậm dâng cao. “Có thể nói cảnh vật hiện
lên ở khổ cuối là cảnh vật cô đọng nhất nhưng cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa nhất. Tầng
tầng lớp lớp những áng mây chồng chất lên nhau như chất chứa cả nỗi niềm ẩn khuất của
nhà thơ. Động từ “đùn” diễn tả trạng thái hoạt động tràn đầy sức sống, ánh sáng chiếu
vào lấp lánh như màu bạc. Cả bài thơ chỉ có mỗi dịng này le lói sự sống tươi mới, rực
rỡ” (Hồ Minh Tú trường THPT Chun Lê Q Đơn, Bình Định). Cảnh thật hùng vĩ
tráng lệ nhưng đối lập với cái hùng vĩ ấy là hình ảnh cánh chim nhỏ bé đơn cơi đang
“nghiêng cánh nhỏ”. Bóng chiều bng xuống đè nặng lên cánh chim bé nhỏ, lạc lõng
giữa bầu trời rộng thênh thang. Cánh chim như chở nặng nỗi niềm thi nhân hay chính là
hình bóng thi nhân đang lạc lõng, bơ vơ giữa vịng xốy cuộc đời?
Khơng nhìn vào khơng gian nữa, nhà thơ nhìn vào chính tâm hồn mình. Thi sĩ gọi
tâm hồn mình là “lịng q”. “Lịng q dợn dợn vời con nước”, "dợn dợn" là một từ láy
nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Cho thấy một nỗi niềm bâng
khng, cơ đơn của "lịng q" đang “dợn” lên trong tâm hồn thi nhân làm cho hồn người

nơn nao khơng n. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê
hương của chính mình nhưng q hương đã khơng cịn. Đây là nét tâm trạng chung của
các nhà Thơ Mới lúc bây giờ.
Câu thơ cuối cùng khép lại “Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”. Nhà thơ đã
mượn ý thơ Thôi Hiệu để nói lên nỗi lịng của mình. Cách đó mười thế kỷ Thơi Hiệu
nhìn khói sóng trên sơng mà lịng nhớ quê hương da diết khôn nguôi:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị


Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hồng hơn
Trên sơng khói sóng cho buồn lịng ai)
Huy Cận khơng nhìn thấy "khói" nhưng vẫn nhớ nhà da diết. Đó chính là tâm trạng
và lịng u q hương sâu kín của nhà thơ. Từ đó bài thơ mở ra một tình yêu lớn lao
hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình u đó mang nỗi buồn sơng núi, nỗi buồn về đất
nước. Phải chăng đó chính là sự đồng điệu của hai tâm hồn thi sĩ cách nhau mười thế kỷ?
Tràng giang mang đậm phong vị cổ điển và hiện đại qua việc vận dụng nhuần
nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng đối; bút pháp tả cảnh
ngụ tình, gợi hơn là tả …nhiều từ Hán Việt cổ kính cịn tình cảm thi nhân mang màu sắc
hiện đại.
“Tràng giang” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó là
ngọn lửa thiêng liêng, ngọn lửa vĩnh cửu toả sáng một hồn thơ đẹp. Thi sĩ đã chọn thể thơ
thất ngôn với bốn khổ thơ, như một bức hoạ tứ bình tuyệt tác. Như Xn Diệu đã từng
nói“Tràng giang là bài thơ ca hát non sơng đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu
Giang sơn Tổ quốc” . Đọc “Tràng giang” ta thêm yêu, thêm nhớ đất trời sông núi quê
hương Việt Nam.


BÀI MẪU SỐ 8:
Huy Cận là một nhà thơ lãng mạn sớm đi theo con đường cách mạng. Thơ Huy Cận

có sự kết hợp giữa lịng u nước, u cách mạng. Thơ ông giàu cảm xúc, giàu chất suy
tưởng và triết lý. Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ
mang vẻ cổ điển. Tác giả bộc lộ cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm
đượm tình u, tình người, tình đời. Lịng u nước thầm kín mà thiết tha. Điều đó được
thể hiện qua từng câu từng chữ của bài thơ.
"Sóng gợi tràng giang
………………………………
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà”
Tràng Giang được rút ra từ tập Lúa thiêng năm 1939. Tràng Giang là một bài thơ
hay. Nó hay nó đẹp trước hết là ở nổi buồn và thông thường cái đẹp và buồn là hai nguồn
tâm giao nhất đối với các thi sĩ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Nổi buồn ấy không thể đem ra để đong đếm mà nổi buồn ấy cứ lớp lớp xô vào nhau,
tràn lên nhau càng nặng trĩu. Cái nặng của long người được gợi lên từ sông nước bao la
nên càng hụt hẫng càng chơi vơi. Nỗi buồn ấy khiến thi sĩ….
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
Cũi một cành khơ lạc mấy dịng.
Hình ảnh đời sống của con người là con thuyền là bng trơi theo dịng nước, gợi sự
trơi nổi phó mặc đi đến đâu thì đến. “Thuyền và nước” lại gợi lên nổi sầu. Chia li tan tác.
Hình ảnh “củi một cành khơ lạc mấy dịng”, một cành khơ đã chết là ở dịng nước mênh
mơng. Thể hiện sự nhỏ nhoi và lạc lồi. Những hình ảnh đấy đã cho ta thấy mối tương
quan đối lập giữa không gian bao la với thế giới cõi nhân sinh bé nhỏ. Thể hiện một cảm
giác cô đơn lẻ loi của con người trong trời đất.
Thuyền và cũi là những kiếp người đơn côi lênh đênh quá nhỏ bé, như vơ hình. Bức
tranh tràng giang được cảm nhận một cách cụ thể hơn với không gian là cồn nhỏ, hoang
sơ vắng lặng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vẫn chợ chiều.
Với các từ láy “lơ thơ- đìu hiu”, khơng gian thiên nhiên vắng lặng như tờ, cịn sự

sống của con người thì xa vắng và mơ hồ.-làng xa vẫn chợ chiều. Nổi buồn cô đơn trống
vắng, ln khao khát được giao hịa với con người.
Nắng xuống trời lên sâu chót vót


Sông dài trời rộng bến cô liêu.
Màu sắc của bức tranh thiên nhiên mang âm hưởng của đường thi, không gian được
mở rộng ở nhiều chiều khác nhau có chiều cao, chiều dài, chiều rộng…Huy Cận đã diễn
tả không gian thật độc đáo, “sâu chót vót” chứ khơng phải “cao chót vót”. Sâu chót vót
diễn tả độ sâu vơ cùng cô tận. Mà không gian hiện lên càng cao, càng dài, càng rộng thì
con người càng trở nên nhỏ bé, như một hạt cát giữa sa mạc, một đốm sáng hiu hắt giữa
vụ trụ bao la, cùng với đó là nổi buồn trống trãi cô đơn. Tác giả đã sử dụng bút pháp vẻ
mây nãy nguyệt để tả cái nổi long của con người.
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang
Khơng cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Sự tĩnh lặng thiếu bóng dáng sự sống của con người. Điệp từ “không” được lặp đi lặp
lại hai lần. “Không cần, không đò” gợi lên chút niềm thân mật. Trong buổi chiều thu
mênh mơng ấy, nhà thơ đã nhìn thấy những cánh bèo trôi dạt về một phương trời vô định
như một âm vang buồn xa bất tận trong tâm hồn của nhà thơ và câu thơ đã tô đậm thêm
sự thèm khát sự hòa hợp của con người với cuộc sống.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
………………
Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà
Ở khổ cuối này, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, cái đẹp của ánh
chiều trước khi vụt tắt, lớp lớp mây chồng chất lên nhau thành núi, mây trắng bao phủ
trông như là núi bạc. Ở câu thơ thứ hai nó vừa mang tính cổ điển, vừa mang tính hiện đại,
trong bức tranh xưa khi vẽ cảnh buổi chiều đều không thiếu cánh chim, nếu như thiếu nó
bóng chiều sẽ khơng rõ nét. Nhưng Huy Cận đã tạo ra những cái mới với cái hiện đại hết

sức độc đáo, “chim nghiêng cánh nhỏ”
Hai câu cuối là nổi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết và ẩn sâu trong đó là nổi lịng
u nước của nhà thơ. Nổi nhớ vừa mênh mông vời vợi, vừa dồn dập trải dài như những
con sóng nước nối đuôi nhau chảy đến vô cùng vô tận của buổi chiều thu thăm thẳm ấy.
Bài thơ Tràng Giang của Huy Cận một vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, bọc lộ cái sầu đơn
của cái tôi nhỏ bé trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời,
tình u nước thầm kín mà thiết tha. Chúng ta cũng vậy, sống phải có tình, biết u q
hương đất nước. Vì vậy, mỗi học sinh cần phải cố gắng học tập tốt để trở thành những
người có ích cho đất nước. Đây cũng là mong muốn mà Huy Cận muốn nhắn gửi qua bài
thơ này.



×