Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Phân tích bài thơ Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.88 KB, 34 trang )

VĂN MẪU LỚP 11
TỔNG HỢP 10 BÀI PHÂN TÍCH BÀI THƠ BÀI CA NGẮN ĐI TRÊN
BÃI CÁT CỦA CAO BÁ QUÁT
BÀI MẪU SỐ 1:
Cao Bá Quát là một trong những nhà thơ nối tiếng sống trong một xã hội coi trọng
người Nam hơn người Bắc. Chính điều này đã gây nên nhiều điều bất bình xảy ra trong
nhà Nguyễn. Ơng là người có bản lĩnh, có cá tính trong cuộc sống thời ấy. Bài thơ “Bài
ca ngắn đi trên bãi cát có thể được tác giả làm trong khi đi thi Hội, là thời điểm ông rất
muốn thi thố tài năng, thực hiện ý chí của mình. Nó biểu lộ sự chán ghét cũa một người
trí thức đối với con đường danh lợi tầm thường đương thời và niềm khao khát thay đổi
cuộc sống.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trẽn đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Plúa bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Mới vào bài thơ ta thấy cụm từ “bãi cát” được lặp lại hai lần: “Bãi cát lại bãi cát
dài". Bãi cát ớ đây là hình ảnh được tác giả tả thực gợi lên một khơng gian khó khăn, dài
thăm thẳm. Thơng thường chúng ta đi trên cát rất khó, khơng giống như đi trên đường đất


bình thường, chân bước tới cứ bị trượt về sau. Trên bãi cát ấy là một con đường rộng lớn,


mờ mịt, rất khó mà xác định phương hướng như đứng ớ bên này nhìn qua bên kia chân
trời. Đó không chỉ là ruột con đường thực, mà là con đường hiểu theo nghĩa tượng trưng
cho một con đường xa xơi, mờ mịt. Để tìm được chân lí, tìm được cái đích thực sự có ý
nghĩa cho cuộc đời thì con người phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ đầy thử thách.
Trên bãi cát ấy có hình ảnh một con người (tác giả), người đi trên bãi cát. Một con
người nhỏ bé, lẻ loi, cô độc đi trên một bãi cát rộng, dài bao la, quanh quanh hình ảnh
con người ấy. Bước chân của người đi cát rất khó khăn, như giậm chân tại chỗ “Đi một
bước như lùi một bước”. Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của tác giả khi thấy mình
hành hạ thân xác để theo đuổi con đường công danh.
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.“
Người đi trên bài cát ở đây lịng ai ốn vì con đường cơng danh của mình mãi
chưa tới đích, khơng đành lịng làm một kẻ “ngủ qn” để có cớ mà rời bỏ đường di.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên dường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người?
Tác giả cịn nói đến sự cám dỗ của công danh đối với người đời. Nhận định mang
tính khái quát về những kẻ ham danh lợi đều phải chạy ngược chạy xi, hình ảnh đó
được tác giả minh hoạ bằng những hình ảnh thực tế của cuộc sống là ở đâu có quán rượu
ngon người nhậu đều đổ xơ đến, có được máy ai tỉnh táo để thoát ra khỏi sự cám dỗ của
rượu. Từ đó tác giả cũng muốn liên tường đến người đọc vấn đề danh lợi cũng là một thứ
rượu dễ làm thay đổi lịng người. Ơng khinh bỉ những phường danh lợi tầm thường kia,

nhưng cũng nhận ra sự cô độc của mình. Phải chăng, con đường mà ơng dấn thân vào, lí
tưởng mà ơng đeo đuổi, chỉ là điều vơ ích, chẳng ai thèm để ý, quan tâm. Ơng khơng có
người ủng hộ, đồng hành. Niềm xúc động ấy đã đưa tác giả trở về với hiện thực. Điều này
chuẩn bị cho kết luận của ơng đó là cần phải thốt ra khỏi cơn say danh lợi vơ nghĩa. Nếu
đi tiếp thì rất có thể ơng cũng chỉ là một trong phường danh lợi mà ông từng khinh miệt,
phê phán. Nhưng nếu dừng lại, ơng cũng khơng biết mình sẽ đi đâu. về đâu. Có cả một
khối mâu thuẫn đang đè nặng lên tâm hồn của tác giả lúc này. Sự dằn vặt ấy là sự nuối


tiếc vì đường đau khổ, mờ mịt nhưng lại quá đẹp đè, cao sang. Thơi thì đành đứng chơn
chân trên bãi cát vậy.
Người đi trên cát bỗng nhiên dừng lại.
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hút khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi muốn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Nỗi băn khoăn choáng váng lấp đầy tâm hồn. Và lần đầu tiẽn, người đã phân vân
tự hỏi, vậy là thế nào, có nên đi tiếp, hay từ bỏ nó “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt".
Nếu đi tiếp, cũng khơng biết phải đi như thế nào. Bởi vì, “Đường bằng thì mờ mịt Đường ghê sợ thì nhiều!” vì thế, có lẽ đã đến bước đường cùng? Nỗi bế tắc và tuyệt vọng
phù trùm lên cả người đi, cả bãi cát dài. Người đi chỉ cịn có thể cất lên tiếng hát về con
đường cùng của mình, về sự tuyệt vọng của mình.
Tóm lại bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát" được thể hiện theo cách đa chiều. Khi thì
được miêu tả như một khách thể, khi thì lại như một người đối thoại. Thậm chí tác giả
cịn cho ẩn chủ thể. Mục đích là nhằm có những tâm trạng khác nhau, thái độ khi đứng
trước những hồn cảnh khác nhau. Nó biểu lộ sự chán ghét của một người trí thức đối với
con đường danh lợi và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.



BÀI MẪU SỐ 2:
Chúng ta biết đến Cao Bá Quát như là ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt
Nam, ông không chỉ là người nổi tiếng học giỏi mà cịn có biệt tài viết chữ đẹp nhưng lại
gặp nhiều khó khăn trắc trở trong con đường cơng danh. Ông có nhiều đóng góp lớn cho
nền văn học Việt Nam ,đặc biệt qua một số bài thơ tiêu biểu ta cũng thấy được hồn thơ
cũng như tâm niệm của tác giả gửi gắm qua những vấn thơ. Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là
một trong số đó, với ẩn ý bãi cát trải dài đó, hay chính con đường công danh mà nhiều
người lúc bấy giờ theo đuổi nhưng mờ mịt, đầy thử thách
Bài thơ được viết khi tác giả có dịp đi qua miền trung, bất chợt thấy những bãi cát
đã nảy lên ý tưởng, cảm xúc dâng trào khiến tác giả khơng cầm lịng được. Mở đầu bài
thơ “ Bài ca ngắn đi trên bãi cát là hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát:
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.”
Những hình ảnh tả thực hiện ra, đó là hình ảnh về những bãi cát nối tiếp nhau,
không biết điểm kết thúc, cứ thế miên man. Từ lại” được tác giả sử dụng như càng thêm
sự vô tận của những bãi cát. Chỉ thấy một màu cát trăng , với cái nắng cà còn tạo ra nhiều
viễn cảnh mà con người ta có thể tưởng tượng nếu đứng trong hồn cảnh đó. Câu thơ thứ
hai lại càng làm độc giả như chứng kiến những bước chân của chính mình trên bãi cát đó
vậy . biện pháp so sánh đã được tác giả sử dụng thật hợp lí ở đây, “ đi một bước như lùi
một bước”,bãi cát đó con người cất cơng đi nhưng càng khó khăn càng mệt nhọc bấy
nhiêu. Rồi dù trời đã tối, nhưng lữ khách vẫn đi, nước mắt rơi chính là những nhọc nhằn
chứ thể kiềm lại được. Hình ảnh con người lúc đó thật kẻ loi, cô đơn và cũng thật nhỏ bé.
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Bãi cát đó hay chính con đường cơng danh dù mờ mịt nhưng nhiều người vẫn bị
cuốn vào đó, bất lực trước những điều mà mình khơng thể chống cự lại được, nên Cao
Bá quát chỉ biết trách bản thân, hay chính ơng đang lấy cái cớ để tâm trí thoải mái hơn.
“Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người ?”
Nhà thơ chỉ tiếc rằng bản thân mình khơng thể học được phép ngủ của tiên ông, cứ
sống mà mặc kệ mọi danh lợi,sống một cuộc sống thanh cao, bỏ qua mọi oán hận của thế


gian. Dẫu biết con đường công danh là gian nan, là phải “tất tả” ở nơi phường danh lợi,
thế nhưng ông một mực vẫn cứ dấn thân vào, càng đi vào, càng thấy hoang mang, không
biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Vất vả chính là vì chạy theo cơng danh,phải cố bước,
nó như hơi men, cuốn con người vào đó, cho nên” người say vơ số,tỉnh bao người?”. Nhà
thơ tỉnh, nhưng rồi tỉnh nhưng vẫn với nỗi băn khoăn khơng biết con đường này có nên đi
tiếp hay không?
Những câu thơ lần nữa lại vang lên như một lời than thở
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?”
Người lữ khách trên bãi cát vơ tận đó loay hoay, cơ độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vô
tri xem phải làm sao với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường
gập ghềnh ghê sợ cũng còn nhiều,con đường nào cũng nhiều cạm bẫy. Đường công danh
cũng vậy, biết bao chơng gai, cạm bẫy ln rình rập con người ta. Làm thế nào để được
sống như mình muốn ,bước đi thỏa nguyện trên con đường ấy đây? Một cảm giác tuyệt
vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ biết cất lên khúc hát
“đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.
Lữ khách chỉ biết nhìn về bốn bề, nhưng xung quanh người chỉ thấy sóng, thấy

núi, chưa có một con đường nào để người lữ khách có thể bước đi cả. Dẫu biết khơng có
một lối đi khơng một định hướng ràng nhưng làm sao có thể bước tiếp trên một hướng đi
mù mịt như vậy? Bãi cát ấy, hay chính con đường mà bao người dấn thân vào ấy, mờ mịt
thế,câu thơ cuối như dự báo một điều sẽ xảy ra, đó chính là chắc chắn tác giả sẽ chọn cho
mình một hướng đi riêng, chứ mãi mãi như thế cũng khơng có cách giải quyết.
Bài thơ mang lời tâm sự, nỗi băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hồi bão
lớn,ơng sẽ khơng bao giờ cam chịu bó buộc của chế độ phong kiến bất công, đồng thời
cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ. Bài ca ngắn đi trên bãi
cát là một thành công của Cao Bá Quát cũng là một bài thơ tiêu biểu thể hiện tâm sự sâu
kín của tác giả.


BÀI MẪU SỐ 3:
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Cao Bá Quát là một nhà nho nổi tiếng học giỏi và viết chữ đẹp nhưng rất lận đận
về đường cơng danh. Sống trong cảnh chính quyền phong kiến hà khắc, chuyên chế, áp
bức dân lành, ông cũng như những người khác thuộc tầng lớp trí thức, dù có tài nhưng
cũng khơng được coi trọng. Khí phách, bản lĩnh và hồi bão lớn lao của ơng đã khiến ông
trở nên chán ghét những khuôn khổ bó hẹp của chế độ phong kiến hủ bại. Các tác phẩm
của ông thể hiện sự bất mãn đối với những bất công, ngang trái trong cuộc đời và đối với
chế độ đương thời. “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” là một tác phẩm được sáng tác sau khi
tác giả đi qua miền Trung, nhìn những bãi cát dài trắng chạy dài vơ tận. Đó là bãi cát –
hay cũng chính như cuộc đời, như đương cơng danh mà những người trí thức lúc bấy giờ
vẫn đang theo đuổi, nhọc nhằn, mờ mịt.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh người đi khó nhọc trên bãi cát:
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.”
Những bãi cát dài cứ nối tiếp nhau không bao giờ ngững nghỉ, tựa như chẳng thấy

điểm kết thúc. Bốn bề đều là một màu cát trắng, núi và biển. Chỉ thấy màu nắng, màu cát
mà thơi. Trong khung cảnh vắng lặng ấy, có một người đang lê từng bước khó nhọc, “đi
một bước như lùi một bước”. Giữa thiên nhiên mênh mông, giữa bốn bề cát trắng, con
người thật nhỏ bé, cô độc biết bao.
“Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Mặt trời đã lặn, nhưng làm sao có thể dừng bước vì giữa biển cát, biết tìm đâu ra
chỗ ngủ cho đêm nay. Một con đường đi, cứ đi, đi mãi mà chẳng thể dừng lại, mà tiếp
cũng chẳng biết bao giờ sẽ tới nơi.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát
Hình ảnh con đương trên cát bất tận, hình ảnh người lữ khách nhỏ bé bất lực giữa
thiên nhiên, hay đó chính là con đường công danh mà Cao Bá Quát, cũng như rất nhiều
những trí sĩ đương thời đang dấn thân vào. Một con đường đầy gian nan, thử thách, cay
đắng, mệt nhọc. Ngay chính nhà thơ, cũng rất lận đận với con đường thi cử, công danh,


rất nhiều lần bị đánh tụt hạng, đánh trượt trong các khoa thi nhưng cũng chỉ biết chấp
nhận.
Bất lực, bế tắc, nhà thơ chỉ biết tự ốn:
“Khơng học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người ?”
Nhà thơ chỉ tiếc mình khơng thể học được phép ngủ của tiên ông, cứ sống mà mặc
kệ mọi danh lợi, mọi ốn hận của thế gian. Mắt khơng thấy thì tâm khơng đau. Nhìn
người, nhìn mình. Biết con đường cơng danh là gian nan, là phải “tất tả” ở nơi phường
danh lợi, thế nhưng vẫn cứ dấn thân vào. Rồi càng đi vào, càng thấy hoang mang, không
biết lối ra cũng chẳng thể dừng lại. Vì cơng danh phải vất vả. Vì cơng danh phải cố bước.

Bởi cơng danh như hơi men rượu, lôi cuốn, hấp dẫn người ta, như hơi men trong gió từ
quán rượu, cũng đủ làm người ta say trong mê muội. Vơ số người tìm đến rượu, bị rượu
hấp dẫn, rồi say trong đó khơng biết lối ra. Có biết bao người say, có được bao nhiêu
người tỉnh táo để không bị cái danh lợi mê hoặc? Nhà thơ tỉnh, nhưng rồi tỉnh vói nỗi băn
khoăn khơng biết con đường này có nên đi tiếp hay không?
Người đi trên bãi cát đã quá cùng cực, chán ngán, tuyệt vọng:
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít ?
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát ?”
Người lữ khách loay hoay, cô độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vơ tri xem phải tính sao
với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường gập ghềnh ghê sợ thì
cũng đâu phải ít. Đường cơng danh là thế, biết bao chơng gai, cạm bẫy ln rình rập.
Làm thế nào để được sống như mình muốn trên con đường ấy đây? Một cảm giác tuyệt
vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ biết cất lên khúc hát
“đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.


Nhìn bốn bề, chỉ thấy sóng, thấy núi, chưa có một con đường nào để người lữ
khách có thể bước đi cả. Nhưng chẳng lẽ đứng mãi nơi cồn cát ấy? Anh cịn đứng làm gì
trên bãi cát ấy. Hãy đi đi, băng qua núi, băng qua biển, có gian trn, có vất vả nhưng có
lẽ sẽ khơng cịn mờ mịt như việc anh đi cứ hoài trên bãi cát kia. Câu hỏi cuối, như dự báo
một hành động dứt khốt lựa chọn rời khỏi đường cơng danh, mà lựa chọn một con
đường, một lí tưởng cho riêng mình.
Bài thơ là lời tâm sự, băn khoăn của một trí thức có tư tưởng, có hồi bão lớn,
khơng cam chịu bó buộc trong những gị bó của chế độ phong kiến bất công, đồng thời
cũng là báo hiệu cho sự thức tỉnh của một con người, một thế hệ.



BÀI MẪU SỐ 4:
Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn Hiên, người làng Phú Thị,
huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội). Là người nổi tiếng
học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá Quát được người đời tôn vinh
là thánh (Thần Siêu, thánh Qt). Khí phách, bản lĩnh và hồi bão lớn lao của ông vượt
khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến.
Cao Bá Quát sống ở giai đoạn nửa đầu thế kĩ XIX, khi nhà Nguyễn đã tiêu diệt
Tây Sơn, thiết lập một chính quyền phong kiến chuyên chế hà khắc, sưu cao thuế nặng,
khơng coi trọng tầng lớp trí thức Bắc Hà. Đây là thời kì có nhiều cuộc nổi dậy của nơng
dân;trong đó có cuộc khởi nghĩa ở Sơn Tây mà Cao Bá Quát đã tham gia. Thơ văn của
ông thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh
nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi thế lực thực dân
phương Tây. Có người cho rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân chính là bóng dáng của Cao Bá Qt.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Qt vào kinh đơ
Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền Trung khiến tác giả liên
tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn đáng ghét mà ông buộc phải theo
đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội đương thời. Một giả định khác là bài thơ ra
đời khi Cao Bá Quát đã làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng
về lí tưởng mà mình theo đuổi bấy lâu nay và âm thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng
đắn hơn.
Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, khơng lối thốt của tầng lớp trí thức
trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể hiện niềm bi phẫn trước
thực trạng xã hội, thái độ khinh bi phường danh lợi và khát khao của những kẻ sĩ chân
chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa.
Phiên âm chữ Hán của bài thơ như sau:
Trường sa phục trường sa,
Nhất bộ nhất hồi khước.

Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
Quân bất học tiên gia mĩ thuỵ ơng,
Đăng sơn thiệp thuỷ ốn hà cùng!
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đố trung.
Phong tiổn tửu điếm hữu mĩ tửu,


Tĩnh giả thường thiểu tuý giả đổng.
Trường sa, trường sa nại cừ hà ?
Thản lộ mang mang uý lộ đả.
Thính ngã nhất xướng cùng đổ ca,
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp,
Quân hổ vi hồ sa thượng lập?
Dịch thơ tiếng Việt:
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm qn rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người ?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây ? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiểu, đâu ít ?

Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng",
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, con đường đi
trên bãi cát và người đi trên bãi cát.
Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mơng khơng có điểm
dừng, gợi ra một con đường bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát dài; … Bãi cát dài, bãi cát
dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật độc đáo vì nó mang tính sáng tạo,
không vay mượn từ văn học Trung Quốc như nhiều hình tượng thơ khác mà được lấy từ
hiện thực là những cồn cát trẳng hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều
lần trên con đường vào kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình,


Quảng Trị bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đơng là biển. Trước mắt
người đi chi thấy cát, núi và sóng biển mà thơi.
Cùng với hình ảnh bãi cát dài là hình ảnh những con đường: Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ, đường cùng. Hai câu thơ: Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng, Phía nam núi
Nam, sóng dào dạt vừa là hình ảnh thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng cho đường đời
đầy gian nan, thử thách.
Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có những nét tương đồng với
con đường cơng danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành cơng thì ít, nhưng đã
lỡ bước vào nên khơng biết tính sao đây?
Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của việc thi cử. Đi thi từ năm
13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh tụt xuống tận chót
bảng. Sau đó ơng cịn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà vẫn không đỗ. Ngay khi bước
chân lên con đường danh lợi gắn với lí tưởng của tầng lớp Nho sĩ trong xã hội phong
kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu thuẫn không giải quyết nổi. Nên đi tiếp hay
dừng lại ? Dừng lại cũng khơng thể được. Cịn đi tiếp thì khơng biết sẽ dẫn đến đâu ?
Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;
Đi một bước như lùi một bước.

Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mất rơi.
Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau. Vơ số kẻ
say vì men thơm qn rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men thơm tượng trưng cho
sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh?! Trước ma lực ấy, liệu mấy người còn giữ
được sự tỉnh táo, sáng suốt?!
Không học được tiên ồng phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vồ số, tĩnh bao người ?
Câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự ốn. Nhà thơ chán nản vì nhận ra rằng mình đã tự
hành hạ thân xác bằng cách theo đuổi cơng danh. Tại sao mình đã biết con đường công
danh là gian nan, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố từng bước, từng bước dấn thân,
nhưng càng đi lại càng như thụt lùi. Theo điển tích về “phép ngủ” của tiên ông trong sách
Thần tiên thập dị thì Hạ Hầu Ấn lúc leo núi hay lội nước vẫn cứ nhắm mắt ngủ say.
Người bên cạnh nghe thấy tiếng ngáy mà ông vẫn bước đều không hề trượt vấp. Vì thế


nên thiên hạ mới gọi ông là tiên ngủ. Cao Bá Qt ước ao có được phép ngũ như tiên
ơng, sống mà khơng nhìn thấy, nghe thấy gì hết trong cuộc đời.
Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta cứ phải trèo non,
lội suối. Đó chính là do cái bả cơng danh cám dỗ. Những kẻ ham danh lợi xưa nay đều tất
tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh
nhau đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một
thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ thái độ khinh rẻ phường danh lợi chi biết
say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông bắt đầu cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục
đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ chất chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp
hay từ bỏ ? Mà câu trả lời thì khơng dễ dàng gì. Nhà thơ nhận rõ sự vô nghĩa của con

đường công danh khoa cử trong hồn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp thì sẽ phải đi như
thế nào đây?
Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi chán ngán, tuyệt vọng choán
đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít? Có lẽ đã đến
bước đường cùng? Nếu khơng đi tiếp thì đi đâu?! Tâm trạng bế tắc và tuyệt vọng bao phủ
lên cả người đi, cả bãi cát dài. Bức xúc đến thế thì người đi chĩ còn cách là cất lên tiếng
hát buồn thảm về con đường cùng của mình:
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía nam núi Nam, sóng dào dạt Anh đứng làm chi trên bãi cát ?
Tâm trạng của tác giả khi đi trên bãi cát dài là nhận thức rõ con đường danh lợi
đầy nhọc nhằn chơng gai, cần phải thốt ra khỏi bãi cát cuộc đời ấy nhưng chưa thể tìm
được một con đường nào khác. Người đi trên bãi cảt dài tự thấy sự vơ nghĩa trong hành
động của mình và ngao ngán đến cực độ: Bãi cát dài bãi cát dài ơi. Tỉnh sao đây đường
bằng mờ mịt… và tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát đó là cái cảm giác bất lực, tuyệt
vọng, đành đứng chôn chân trôn bãi cát, chịu một khối mâu thuẫn lớn đè nặng lên tâm
hồn. Hình tượng người lữ hành ấy vừa cơ độc, vừa cả quyết lại vừa tuyệt vọng trên con
đường đi tìm chân lí gian trn, mờ mịt. Tâm trạng phức tạp của nhân vật dự báo một
hành động bứt phá, một sự phản kháng âm thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng tiến bộ
của Cao Bá Quát thể hiện ở cho ơng đã nhận rõ tính chất vơ nghĩa của lối học khoa cử và
con đường tiến thân theo lề lối cũ.
Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác nhau để bộc lộ tâm trạng và
đối thoại với chính mình. Cao Bá Qt sử dụng nhiều đại từ xưng hơ khác nhau, Có khi
ông dùng từ khách (khách là một danh từ đối lập với chủ), có khi lại dùng từ qn (anh,
ơng – đại từ nhân xưng ngơi thứ hai số ít), có chỗ lại dùng từ ngã (tơi, ta – đại từ nhân
xưng ngơi thứ nhất số ít). Tuy nhiên, tất cả đều để chi bản thần tác giả. Khi gọi là khách,


nhà thơ nhìn mình như nhìn một người khác. Khi gọi là anh, nhà thơ như đối thoại với
mình. Khi xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ lộ tâm sự. Các cách xưng hô trên đều thể

hiện thái độ trăn trở, bức xúc của nhà thơ trên con đường tạo lập cơng danh, sự nghiệp.
Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện khơng đơn nhất
mà đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi lại như một người đối thoại,
khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả cho chủ thể ẩn đi. Mục đích
là nhằm bày tỏ những tâm trạng, thái độ khác nhau, trước những hoàn cảnh khác nhau.
Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí giải nguyên nhân tại sao Cao Bá
Quát đã đứng về phía nơng dân khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn.
Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét danh lợi và nhận thức đúng đắn của
tác giả về sự bế tắc của lối học hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn biến tâm trạng của tác
giả là từ băn khoăn, phân vân đến gay gắt tự hỏi: Anh đứng làm chi trên bãi cát.
Bài thơ là tâm sự chân thành của một kẻ sĩ có tầm tư tưởng lớn, ý thức rất rõ vể sự
trì trệ, bế tắc của thời đại. Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác giả trước lí tưởng mà
mình tơn thờ. Sự bế tắc, tuyệt vọng trước đường cùng đã được đẩy đến đỉnh điểm.
Cao Bá Quát đã thể hiện những mâu thuẫn sâu sắc trong tư tưởng của bản thân và
của xã hội đương thời một cách nghệ thuật. Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng sống cao đẹp
với hiện thực đen tối; giữa tinh thần dám xả thân của một kẻ sĩ chân chính với thói cẩu an
hưởng lạc của người đời giữa lí tưởng phị vua giúp nước của một đấng nam nhi với
những khó khăn gian khổ khó vượt qua trên con đường tiến thân.
Bài ca cịn thể hiện cảm xúc bi phẫn và cảm quan nhạy bén của Cao Bá Quát về
một thời đại đen tối, đầy nghịch cảnh đối với những bậc trí thức tài hoa; đồng thời đánh
dấu sự thức tĩnh của một số kẻ sĩ trước con đường công danh truyền thống. Phải chăng
điều đó đã gợi cho chúng ta một suy nghĩ và nhận xét: xã hội phong kiến đương thời
không thể dung nạp được lí tưởng của Cao Bá Quát. Con người ấy nhất định không chịu
đứng chôn chân trên bãi cát mà đang nung nấu thái độ phản kháng âm thầm nhưng quyết
liệt với trật tự hiện hành. Cao Bá Quát đã nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao
hơn, có ích cho đời hơn. Đó cũng là lí do đưa ơng đến với cuộc khởi nghĩa của nông dân,
chọn con đường phản kháng chống lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối cùng phải chịu
kết thúc bi thảm.
Bài thơ đứợc viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu, vần và nhịp điệu. Các câu
thơ dài ngắn khác nhau (câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi câu thơ cũng đa

dạng phù hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy băn khoăn, dạy dứt của người đi
trên bãi cát dài (nhịp 2/3 : Trường sa / phục trường sa; nhịp 3/5: Quàn bất học / tiên gia
mĩ thụy ông nhip 4/3: Phong tiền tửu điếm / hữu mĩ tửu). Nhiều câu có ngữ điệu cảm


thán: (Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng), ngữ điệu hỏi: (Trường sa, trường sa nại cừ hà?
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?).
Nhịp điệu của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp gập ghểnh, trúc trắc của những bước
đi khó nhọc trên bãi cát dài, trên con đường công danh khoa cử gian nan, vất vả và đáng
chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một câu hỏi day dứt và ám ảnh. Lời ca mang âm
hưởng u buồn, ngầm chứa thái độ phản kháng của tác giả đối với trật tự xã hội hiện hành
và cảnh báo sự đổi thay tất yếu trong tương lai.


BÀI MẪU SỐ 5:
Trong văn đàn văn học Việt Nam thế kỉ XIX, xuất hiện nhai câu thơ truyền tụng
ca ngợi về những nhà thơ xuất chúng thời bấy giờ tuyên truyền rằng vua Tự Đức :
Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”.
Nổi bật trong bốn trụ cột văn học này là Cao Bá Quát nổi tiếng là một văn tài có
nhiều ý tứ mới lạ lời lẽ cao kì. Ơng là một người tài cao học rộng nhưng khơng được
trọng dụng giữa chính sự suy đồi. Ơng bất đắc chí, khinh thế ngạo mạn nên thơ văn
thường thiên về khuynh hướng phản kháng, phẫn uất, chán nản. Qua bài thơ “Bài ca ngắn
đi trên bãi cát” chúng ta ắt sẽ biết điều đó.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ.
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!

Xưa nay phường danh lợi
Tất cả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người ?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ cịn nhiều đâu ít?
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Ngay ở đầu bài thơ chúng ta đã thấy xuất hiện “bãi cát ” được lặp lại hai lần: “Bãi
cát lại bãi cát dài”. Bãi cát ở đây là hình ảnh được tác giả tả thật, gợi lên một khơng gian
khó khăn vất vả dài thăm thẳm. Thông thường chúng ta đi trên cát rất là khó khơng giống
như chúng ta đi trên con đường bình thường, chân bước đi nhưng cứ bị lùi về phía sau.
Trên bãi cát rộng mênh mơng ấy là một con đường rộng lớn mù mịt, rất khó xác định
được phương hướng giống như chúng ta đứng giữa biển cả bao la chúng ta sẽ không biết
đâu là bến bờ. Đó khơng phải là con đường thực mà là con đường hiểu theo nghĩa tượng
trương cho một con đường xa xơi mù mịt. Để tìm ra được chân lí, tìm ra được cái đích thì
con người phải vượt qua bao nhiêu là khó khăn thử thách.


Trên bãi cắt ấy có hình ảnh con người đó chính là tác giả, người đi trên bãi cát.
Một con người nhỏ bé, lẻ loi cô độc đi trên bãi cát rộng mênh mông vô tận. Bước chân
của người đi trên bãi cắt rất khó khăn, như là dậm chân tại chỗ. “Đi một bước như lùi một
bước”. Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của tác giả khi mình phải hành hạ thân xác để
theo đuổi con đường công danh.
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”.
Người đi trên bãi cát lòng đang ai ốn vì cơng đường cơng danh của mình mãi mà

khơng tới đích, khơng đành lịng làm một kẻ “ngủ quên” để lấy cơ mà rời bỏ đường đi.
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo nôn lội suối giận khôn vơi!
Xưa nay phường danh lợi
Tất cả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm qn rượu
Người say vơ số, tỉnh bao người?
Tác giả cịn nói đến sự cám dỗ của cơng danh đến người đời. Hình ảnh đó được
tác giả minh họa bằng hình ảnh thức tế đó là ở đâu có qn rượu ngon mọi người đều xơ
bồ đến, có được mấy ai tỉnh táo để tránh được sự cám dỗ của men rượu nồng. Qua đó tác
giả muốn thức tỉnh người đọc về vấn đề công danh cũng là thứ rượu lầm thay đổi lịng
người. Ơng khinh thường những phường danh lợi tầm thường kia, nhưng cũng nhận ra sự
cơ độc của chính bản thân mình. Phải chăng con đường mà ơng dấn thân vào, lí tưởng mà
ơng đang đeo đuổi, chỉ là điều vơ ích, chẳng ai để ý quan tâm. Ơng khơng có ai ủng hộ,
cũng khơng có người đồng hành. Niềm xúc động ấy đã đưa tác giả trở về với hiện thực.
Điều này giúp ơng nhận ra rằng mình cần thốt khỏi con đường cơng danh. Nếu đi tiếp
thì ơng cũng chỉ là những kẻ phường danh lợi đáng khinh miệt mà thôi. Trong lịng lúc
này có nhiều nỗi dằn vặt mâu thuẫn dàn xé tâm can. Sự nối tiếc ấy là sự nối tiếc vì đường
đau khổ, mờ mịt nhưng lại quá cao sang, đẹp đẽ. Thơi thì đành đứng chơn chân trên bãi
cát vậy.
Bãi cát dai, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ cịn nhiều đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc đường cùng,


Phía bắc núi Bắc mn trùng
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Nỗi băn khoan choáng lấy lấp đầy tâm hồn tác giả. Và lần đầu tiên người đã phân

vân tự hỏi, vậy là thế nào có nên đi tiếp hay từ bỏ nó : “Tính sao đây? Đường bằng mờ
mịt”. Nếu đi tiếp thì cũng không biết phải đi như thế nào. Bởi đường bằng thì mờ mịt,
đường ghê sợ thì nhiều. Vì thế chắc đã đến bước đường cùng. Nỗi bế tắc tuyệt vọng phủ
đầy trên người đi và trên cả bãi cát. Người đi chỉ còn biết cất lên tiếng hát khúc đường
cùng và sự tuyệt vọng của mình.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” được thể hiện theo cách đa chiều. Khi thì được miêu
tả như một lữ khách đi đường, khi tì lại như người đối thoại. Mục đích của tác giả muốn
gửi gắm ở đây là chúng ta phải có những tâm trạng khác nhau, thái đọ khác nhau khi
đứng trước những khó khăn thử thách. Và qua đó cũng nêu lên được sự chán ghét của
một người tri thức với con đường danh lợi và khát khao thay đổi cuộc đời.


BÀI MẪU SỐ 6:
Cao bá quát sinh năm 1808 và mất năm 1855, tự là chu trần, được người đời tôn
thờ là “thánh Quát , ông được sinh ra tại tỉnh Bắc Ninh. Ơng là nhà nho chân chính, 1 nhà
thơ có tài năng và bản lĩnh, Là người có tài, nổi tiếng văn hay chữ tốt. với 1 tư tưởng tự
do, ơm ấp hồi bão lớn, mong muốn sống có ích cho đời cùng với khí phách hiên ngang
của mình, ơng đã để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc trong văn học việt nam lúc bấy
h, mà cho tới nay những tác phẩm ấy vẫn còn được người đời lưu truyền rộng rãi. Thơ
văn của ông bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa
đựng những điều khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội
Việt Nam lúc bấy giờ. Bài ca ngắn đi trên bãi cát là 1 trong số những tác phẩm đăc sắc
nhất của ơng. Bài thơ có thể được viết trong những lần đi thi của ông khi đi ngang qua
các tỉnh miền trung đầy cát trắng như quảng bình, quảng trị. Bài thơ đã nói lên” hình ảnh
người đi khó nhọc trên bãi cát để hình dung con đường mưu cầu đầy danh lợi đáng chán
ghét mà ơng buộc mình phải theo đuổi và niềm khao khát mong muốn được thay đổi cuộc
sống của mình ”.
Ta vẫn thường nghe: "Tài cao phận thấp, chí khí uất". Dường như tài năng của con
người lun gắn với chữ “phận”. và đó cũng là bi kịch cuộc đời của một con người có tài, ,
Cao Bá Qt. Ơng là người có cốt cách thanh cao, là người có đức độ với 1 tâm văn

chương tuyệt vời, được người đời tôn lên làm “thánh”. Vậy mà giờ đây ông phải trãi qua
biết bao nhiu gian khổ, khó khăn của 1 chế độ pk thối nát. Bao nhiu nỗi niềm xót xa phẫn
uất của 1 đấng nam nhi được ông dồn nén vào hết tác phẩm bài ca ngắn đi trên bãi cát.
Là 1 nhà nho chân 9 , cũng như nguyễn công trứ và 1 số sĩ phu khác chịu ảnh
hưởng rất lớn về quan niệm “chí làm trai “. Ông luôn khao khát lập nên công danh sự
nghiệp vẻ vang hiển hách cho đời, coi đó là lí tưởng sống, là trách nhiệm trọn đời và là
món nợ phải trả. Tuy nhiên đứng trước một xã hội phong kiến bảo thủ, trì trệ và khủng
khoảng, ơng đã khơng thể thỏa mãn khát vọng của mình.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Nổi lên từ đầu bài thơ là hình tượng bãi cát dài được lặp đi lặp lại 4 lần nối tiếp tới
vô tận với không gian rợn ngợp, hoang vắng tới vô cùng. 1 bên là núi muôn trùng và 1
bên là biển sóng dạt dào, khơng biết đâu là điểm đầu, đâu là điểm kết, mở ra một con
đường xa tắp nhiều trắc trở và khó nhọc. bằng biện pháp tả thực ông đã tạo cho người đọc
cảm giác như con đường dài không dứt: Bãi cát dài, lại bãi cát dài . Và 9 cái sự lặp đi lặp
lại này nó gợi lên cái khơng gian rộng bao la, mênh mơng và bát ngát. 1 mình ơng đứng


trên bãi cát mênh mơng khơng có người qua lại nó làm cho ơng mất phương hướng ko
biết đường đi. Nếu như hình ảnh thứ nhất là bãi cát dài thì hình ảnh thứ 2 là đi mà như
lùi, đây là một hình ảnh rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ nó nói lên cái sự khó
khăn mà con người phải vượt qua để đi đến danh lợi. hình ảnh thứ 3 là mặt trời lặn mà
vẫn cịn đi, nếu như nói theo phong cách ngơn ngữ sinh hoạt thì trời lặn là trời về chiều.
Biểu chiều là buổi sum họp gia sau một ngày dài làm việc, thì ở đây trong bài thơ này
muốn nói đến thời gian nó gợi lên cái sự mệt mõi, tất bật. Trời đã về chiều mà khách vẫn
còn đi, nước mắt rơi lả chã rơi, giọt nước mắt ấy là sự mệt mỏi, căng thẳng, cô đơn, lạc
lõng, hoang mang và buồn nản trong sự bế tắc đến cùng cực của nhân vật. Nhưng đây là
nghĩa thực, nghĩa tượng trưng đằng sau nó là con đường cơng danh và sự nghiệp. Cuộc

sống của chúng ta không phải màu hồng, ngày xưa người mẹ ru con rằng :
“ ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo, gập ghềnh khó đi
Khó đi mẹ dắt con đi
Con đi trường học, mẹ đi trường đời”
Chúng ta đi đến trường học để học chữ, học làm người,học kiến thức, học những
điều hay ý đẹp, học để có cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn. Trường đời là học về xã hội, học
về cách sống, học về cách đối nhân sử thế ở ngoài xã hội để có tiền chăm lo cho con đi
học. Từ cái nghĩa thực nhất đến cái nghĩa sâu xa nhất, hình ảnh bãi cát dài nó cũng là
hình ảnh thực, và nó được lặp đi lặp lại để thể hiện người đi trên cát đứng 1 mình giữa bãi
cát bao la nó nhỏ bé, nó lẽ loi. Để đằng sau hình ảnh người đi trên cát mất phương hướng
không xác định được thì tác giả mún nói đến cái thứ 2 đó là cái con đường đời. tất cả con
đường đời của mọi người bao gồm cả tác giả nó đầy chơng gai vậy thì con đường cơng
danh nó ln ln trắc trở ,ghập ghềnh. Nghệ thuật được sử dụng trong câu là điệp từ
“trường xa”, điệp cấu trúc 2-4-5, cách ngắt nhịp 2-3 nó gợi lên cái cảm giác bất trắc và
trắc trở, đi một bước như lùi 1 bước đó là sự so sánh, mượn hình ảnh người đi trên cát
khó nhọc để nói về con đường cơng danh và đường đời đó 9 là nghệ thuật ẩn dụ. hình ảnh
bãi cát dài là hình ảnh tượng trưng cho con đường đời đầy chông gai và con đường công
danh đầy trắc trở.
Trong cuộc sống của mỗi con người ai cũng có những khát vọng lớn lao, những
ước mơ cao sang nhưng sự thật thì thực tế khơng như mong muốn của chúng ta.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.


Đầu gió hơi men thơm qn rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!

Tính sao đây? đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Sáu câu thơ có vẻ như rời rạc, nhưng thực chất đó lá một liên kết logic chặt chẽ
với nhau. Ngay câu thơ đầu tiên, điển cố “ông tiên ngủ” này mượn cái sự tích xưa để nói
về đời nay của tác giả. Sĩ tử ngày xưa chỉ có 1 đường duy nhất với 3 tiêu chí là : học, thi,
làm quan ở đây ý ơng mn nói là nhắm mắt làm ngơ trước những việc chướng tai gai
mắt để coi như ko thấy gì, ép thân mình vào con đường học, thi, làm quan. Nhưng “ông
tiên ngủ” chỉ là phép bong nó ko có quyền quyết định gì cả, cao bá quát là 1 con người có
thực lực, là người có tái năng, ngay 9 cái hình ảnh này ơng đang tự cười mình. Ơng cười
cho cái sự chua chat,cười cho cái sự chua xót của mình, chua xót bởi vì tại sao ép thân
xác vào con đường thi, học, làm quan. Học thì ai cũng như nhau cả, chỉ khác ở chỗ kiến
thức người này có thể nhiều hơn hay có thể ít hơn. Đi thi thì cao bá quát cứ trầy trật mãi,
tưởng là đậu nhưng lại bị rớt do phạm h. Cịn việc làm quan thì nó là 1 khái niệm hết
sức là xa vời. khơng chỉ CBQ mà tú xương ơng là 1 người có thực học nhưng 8 lần đi thi
thì 8 lần rớt sau đó thì về ăn bám vợ, nguyễn khuyến cũng vậy ơng cáo quan lui về ở ẩn.
Cịn những kẻ bất tài, vơ dụng khơng có 1 tí gì thực lực nào chỉ cần bỏ ra 1 chút tiền là có
một chức quan rất là to. Rất rõ rang CBQ đưa ra 1 bài học rất là hay, những con người có
trí thức, co thực học thì họ lai chán nản trên con đường mưu cầu danh lợi. Hình ảnh hạng
người danh lợi nó chỉ sự khinh bỉ, “tất tả” ý chỉ vội vã, chạy ngược chạy xuôi để mong có
1 gì đó vào trong, mà cái đó 9 là danh và lợi. Danh là tiếng tăm, mà có được tiếng tăm thì
nó có được cái lợi, mà lợi 9 là tiền, “quán rượu đầu gió có rượu ngon” là hình ảnh so sánh
có liên tưởng, đây là 1 hình ảnh rất là thực, thì “ người tỉnh thì ít mà người say vô số” sức
hấp dẫn của rượu ngon đối với những người ghiền rượu thì ko thể cưỡng lại được, nó có
đối lập rất rõ ràng giữa tỉnh và say. Người say là người say mê danh lợi, người tỉnh là
người nhận ra được cái sự khó khăn của con đường mưu cầu danh lợi. Trong bài nhàn
của nguyễn bỉnh khiêm, ông cũng cáo lão hồi hương về ở ẩn, ơng sống 1 cuộc sống hết
sức bình dị, 1 cuộc sống của người nơng dân thích làm gì thì làm, thu thì ăn măng trúc,
đơng ăn giá, xn tắm hồ sen, hạ tắm ao. Ơng hồ mình với tự nhiên, sống cuộc sống hết
sức thanh thản. “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ người khơn người đến chốn lao xao” cái dại
của ơng là tìm về chỗ vắng vẻ của thiên nhiên, thư thái, tâm hồn tĩnh tại, đầu óc thanh

thản, người khơn người đến nơi phồn hoa, náo nhiệt ,thực chất thì ta dại chính là ta khơn.
Vậy thì say và tỉnh cũng vậy, CBQ nằm trong số lượng người tỉnh ít ỏi, ơng nhận thấy
rằng con đường thi cử nó là gánh nặng nhưng chỉ mình ông thì không thể lên tiếng được.


Vậy thì đứng trên cát cũng giống như đứng trên con đường công danh họ mất đi sự
nghiệp họ không có phương hướng để lựa chọn. Ơng kinh thường những người say, ông
chê bai, chán ghét đối với bọn mưu cầu danh lợi. Ơng khao khát có 1 sự thay đổi ngay
trong 9 con đường đi thi và làm quan, ông quay lưng lại với danh lợi mặc dù người đời
thì vẫn cứ tất bật chạy theo danh lợi.
Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng"
Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt,
Anh đứng làm chi trên bãi cát?.
Để kết cho một bài thơ, tác giả đã chọn 1 cái kết lơ lửng, khá bi phẫn!. Câu hỏi tu
từ đầu tiên “biết tính sao đây” nó là cái mâu thuẫn giữa khát vọng công danh và thực tế.
Hình ảnh đường cùng đó là con đường bế tắc giữa mn trùng khó khăn thử thách, khi 1
bên là núi mn trùng và 1 bên là sóng dào dạt vậy con đường nào dành cho CBQ. Cái
bóng cơng danh của bậc trượng phu là vô cùng lớn nhưng khoảng cách giữa CBQ và thực
tế ngày càng xa. Câu hỏi tu từ thứ 2 “đứng làm chi” , nỗi băn khoăn vẫn được ông bằng
sự trăn trở nên đi tiếp hay rời bỏ công danh. Nguyễn công chứ đã nói rằng “làm quan là
bị giam hãm trong lịng, là mất tự do” nhưng đã là nam nhi thì phải để lại cho đời cái gì
đó vì vậy ơng vẫn lao vào như thiêu thân. CBQ cũng vậy đã là nam nhi thì khi chết phải
đê lại tiếng vang cho đời vì vậy câu hỏi này nó thúc giục ơng chuyển sang một con đường
mới, 1 con đường mang tầm chiến lược mang sức ảnh hưởng lớn, mong muốn có sự thay
đổi lớn trên con đường công danh và sự nghiệp.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát là bài thơ trong chum thơ phản ánh sâu sắc cuộc đời của
CBQ. Tác phẩm vừa mang giá trị nội dung, vừa mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Tác
phẩm mang nét đẹp đơn giản nhưng thanh cao của một đôi guốc mộc đơn sơn mà giản dị
chứ không phải mang màu sắc chói lố của một đơi giày thêu sặc sỡ đầy màu sắc. Qua đó

ta lại thêm ngưỡng mộ CBQ, yêu làng văn học vn, quan trọng hơn là chúng ta học được ý
chí đương đầu với sự như CBQ.


BÀI MẪU SỐ 7:
Cao Bá Quát là người tài giỏi, nổi tiếng văn hay chữ tốt và có uy tín lớn trong giới
trí thức đương thời, là người có khí phách hiên ngang, có tư tưởng tự do, mong muốn
sống có ích cho đời, là người có hồi bão lớn lao và cái hồi bão ấy của ơng vượt khỏi
khn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến. Thơ văn của ông thể hiện thái độ phê phán
mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt
Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi thế lực thực dân phương Tây. Có người cho rằng
hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
chính là bóng dáng của Cao Bá Quát. Bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát có thể được tác
giả làm trong khi đi thi Hội, là thời điểm ông rất muốn thi thố tài năng, thực hiện ý chí
của mình. Nó biểu lộ sự chán ghét cũa một người trí thức đối với con đường danh lợi tầm
thường đương thời và niềm khao khát thay đổi cuộc sống.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Hình tượng bãi cát dài được lặp đi lặp lại 4 lần nối tiếp tới vô tận với không gian
rợn ngợp, hoang vắng tới vô cùng. 1 bên là núi mn trùng và 1 bên là biển sóng dạt dào,
không biết đâu là điểm đầu, đâu là điểm kết, mở ra một con đường xa tắp nhiều trắc trở
và khó nhọc. bằng biện pháp tả thực ơng đã tạo cho người đọc cảm giác như con đường
dài không dứt. Bức tranh sa mạc mênh mơng cát trắng với bóng người nhỏ bé đang bước
đi từng bước khó nhọc. Đi mà như lùi, vây ra đi mà thực ra không đi. Đó là một hình ảnh
rất thực và cũng bao hàm ý nghĩa ẩn dụ. Đây thực ra là con đường thi cử của chính tác
giả, cái nhục nhằn của bãi cát cũng là cái nhục nhằn ông đang phải gánh chịu vì con
đường ấy – khó nhọc mà xa vời. Đối với trí thức nho sĩ ngày xưa, con đường học – thi –
làm quan ấy đầy gian nan vất vả, càng khó khăn hơn trong những buổi cuối của nho học

và đây cũng là cách duy nhất để họ thực hiện chí làm trai lập cơng danh của mình. Bản
thân ơng ngày càng nhận thức được sự lạc hậu, thối hóa của chế độ học hành thi cử
truyền thống trong cái chuyển mình của thời thế. Bãi cát đó hay chính con đường cơng
danh dù mờ mịt nhưng nhiều người vẫn bị cuốn vào đó, bất lực trước những điều mà
mình khơng thể chống cự lại được, nên Cao Bá qt chỉ biết trách bản thân, hay chính
ơng đang lấy cái cớ để tâm trí thoải mái hơn.
Khơng học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất tả trên đường đời.


Đầu gió hơi men thơm qn rượu,
Người say vơ số, tỉnh bao người ?
Câu thơ thấm đẫm cảm xúc tự oán. Nhà thơ chán nản vì nhận ra rằng mình đã tự
hành hạ thân xác bằng cách theo đuổi công danh. Tại sao mình đã biết con đường cơng
danh là gian nan, mờ mịt, là đường cùng mà vẫn phải cố từng bước, từng bước dấn thân,
nhưng càng đi lại càng như thụt lùi. Nhà thơ chỉ tiếc rằng bản thân mình khơng thể học
được phép ngủ của tiên ơng, cứ sống mà mặc kệ mọi danh lợi,sống một cuộc sống thanh
cao, bỏ qua mọi oán hận của thế gian. Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do
vì sao người ta cứ phải trèo non, lội suối. Đó chính là do cái bả cơng danh cám dỗ.
Những kẻ ham danh lợi xưa nay đều tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người
đời thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo để thoát khỏi sự
cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu mê hoặc con người. Cao Bá Quát tỏ thái
độ khinh rẻ phường danh lợi chi biết say sưa với bả vinh hoa phú quý và ông bắt đầu cảm
thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục đi trên con đựờng ấy. Những câu thơ chất chứa tâm
trạng day dứt, băn khoăn. Nhà thơ nhận rõ sự vô nghĩa của con đường công danh khoa cử
trong hoàn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp thì sẽ phải đi như thế nào đây?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,

Đường ghê sợ cịn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,
Phía Bắc núi Bắc, núi mn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lịng
ln thao thức câu hỏi: “tính sao đây?”. Khó khăn nối tiếp khó khăn, nhìn bốn bề, đâu
đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Cao Bá Qt khơng muốn đi tiếp
vì biết đường gian khổ mà vơ đích. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lịng thương
dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì khơng cịn một
con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể cả những người có chí lớn vượt ra ngồi sự
nghiệp cơng danh.
Người lữ khách trên bãi cát vơ tận đó loay hoay, cơ độc, chỉ biết hỏi nơi bãi cát vô
tri xem phải làm sao với con đường khó khăn này. Đường bằng thì mờ mịt, mà đường
gập ghềnh ghê sợ cũng còn nhiều,con đường nào cũng nhiều cạm bẫy. Đường công danh
cũng vậy, biết bao chông gai, cạm bẫy ln rình rập con người ta. Làm thế nào để được
sống như mình muốn ,bước đi thỏa nguyện trên con đường ấy đây? Một cảm giác tuyệt
vọng, bất lực trào dâng trong lòng người khách độc hành, chỉ biết cất lên khúc hát
“đường cùng” để bày tỏ tâm trạng.


Lữ khách chỉ biết nhìn về bốn bề, nhưng xung quanh người chỉ thấy sóng, thấy
núi, chưa có một con đường nào để người lữ khách có thể bước đi cả. Dẫu biết khơng có
một lối đi khơng một định hướng ràng nhưng làm sao có thể bước tiếp trên một hướng đi
mù mịt như vậy? Bãi cát ấy, hay chính con đường mà bao người dấn thân vào ấy, mờ mịt
thế,câu thơ cuối như dự báo một điều sẽ xảy ra, đó chính là chắc chắn tác giả sẽ chọn cho
mình một hướng đi riêng, chứ mãi mãi như thế cũng khơng có cách giải quyết.
Bài ca ngắn đi trên bãi cát là bài thơ trong chum thơ phản ánh sâu sắc cuộc đời của
Cao Bá Quát. Tác phẩm vừa mang giá trị nội dung, vừa mang giá trị nghệ thuật đặc sắc.
Tác phẩm mang nét đẹp đơn giản nhưng thanh cao của một đôi guốc mộc đơn sơn mà
giản dị chứ khơng phải mang màu sắc chói lố của một đôi giày thêu sặc sỡ đầy màu sắc.

Qua đó ta lại thêm ngưỡng mộ Cao Bá Quát, yêu làng văn học vn, quan trọng hơn là
chúng ta học được ý chí đương đầu với sự như Cao Bá Quát.


BÀI MẪU SỐ 8:
Cao Bá Quát nổi tiếng trong lịch sử không chỉ bởi tài văn hay chữ đẹp hơn người.
Đương thời và sau này tôn vinh, ngưỡng mộ ông cịn bởi nhân cách cao khiết, khí phách
hiên ngang, đặc biệt là tư tưởng tự do, phóng khống, hồi bão vượi lên trên những tù
túng của thời đại để sống có ích, có nghĩa. Tuy nhiên, sống trong thời kì chế độ phong
kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Cao Bá Quát sớm phải mang nỗi bi phẫn của người trí
thức ôm ấp nhiều lí tưởng lớn cao đẹp nhưng cuối cùng thất vọng và bế tắc trên con
đường; mình đã lựa chọn. Bài ca ngắn đi trên bãi cát là khúc ca của nỗi niềm bi phẫn ấy.
Để thể hiện tâm trạng cửa mình, tác giả đã xây dựng trong tác phẩm hai hình ảnh
giàu ý nghĩa: hình ảnh hãi cát và hình ảnh người đi trên bãi cát. Hình linh bãi cát trong
bài trước hết là hình ảnh có thực, nó gắn liền với hành trình vào kinh ứng thí của nhà thơ.
Khi đi đọc dải đất miền Trung, Cao Bá Quát đi bao lần nhìn thấy khung cảnh những Cồn
cát mênh mơng trải dài trong nắng và gió Lào khắc nghiệt, bao lần thấm thìa nối nhọc
nhằn khổ ái khi bước đi trên cát. Cảnh đó trở thành một ấn tượng đậm nét trong tâm trí
nhà thơ và khi đi vào tác phẩm đã mang một ý nghĩa tượng trưng đặc sắc. Những bãi cát
dài mênh mông, bãi cát này nối tiếp bãi bãi cát khác: Bãi cát dài bãi cát dài đường công
danh mờ mịt nhọc nhằn của tác già và của bao trí thức dương thời. Con đường ấy kéo dài
tường như vô tận với biết bao chông gai hiểm trở đang chờ dợi người lữ khách. Cùng với
hình ảnh – bãi cát, hình ảnh đường ghê sợ ; phía bắc núi bắc, núi mn trùng; phía nam
núi Nam, sóng dạt dào là hình ảnh tượng trưng cho con đường đời khơng lối thốt đang
mở ra trước mắt nhà thơ.
Gắn liên với hình ảnh bãi cát là hình ảnh người đi trên bãi cát. Bãi cát dài mênh
mông, vô tận, người lữ hành mải miết, cặm cụi đi trong mệt mỏi đau khổ.
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn, chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi

Thấm thía cái nhọc nhằn, gian trn, khổ ải của hành trình đi tìm cơng danh, đặc
biệt ý thức về. cái vô nghĩa, phù phiếm của danh lợi, người lữ hành bắt đầu suy ngẫm về
con đường mình đã lựa chọn.
Khơng học được tiên ơng phép ngủ
Trèo non, lội suối,giận khôn vơi
Xưa nay, phường danh lợi
Tất tả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người


×