Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

lang son qua cac giai doan lich su

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.58 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>LẠNG SƠN QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ</b>


Thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, nước Văn Lang của các Vua Hùng được thành lập -
Lạng Sơn trở thành vùng đất của bộ Lục Hải. Thời Bắc thuộc, Lạng Sơn vẫn là châu ki
mi, vùng đất gắn bó với vận mệnh của nước Việt. Từ thế kỷ IX đến đầu thế kỷ X, Lạng
Sơn trở thành đơn vị hành chính của nước Đại Cồ Việt, sau đổi tên thành Đại Việt.


<b>1. Lạng Sơn các thế kỷ đầu độc lập (thế kỷ IX - thế kỷ XIV)</b>


Trong thời gian dài của thời kỳ độc lập, với tên gọi Lạng Châu, rồi Lạng Giang, Lạng
Sơn là một vùng đất quan trọng của nước Đại Cồ Việt và Đại Việt, nơi qua lại trao đổi
của cư dân, sứ bộ hai nước và của các đoàn quân viễn chinh phương Bắc.


Vào thời Lý (thế kỷ XI), nhà Tống đặc biệt chú trọng đến vùng biên giới, lấy đây là nơi
tập kết của lực lượng hậu cần chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược. Nhà Lý lúc bấy
giờ đã thấy trước âm mưu xâm lược của triều Tống nên chủ động, kiên quyết chặn đứng
âm mưu và hoạt động xâm lược của triều Tống. Lạng Sơn trong kháng chiến chống quân
Tống đã có đóng góp to lớn, xứng đáng là mặt trận đánh "sau lưng địch" phối hợp với
phòng tuyến Như Nguyệt tiêu hao lực lượng quân Tống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

tươi. Tuy nhiên, từ năm 1406, khi quân Minh ồ ạt tràn sang xâm lược nước ta, Lạng Sơn
lại trở thành chiến trường ác liệt.


<b>2. Lạng Sơn từ thời Hậu Lê đến đầu Nguyễn (thế kỷ XV - đầu thế kỷ XIX)</b>
<i>2.1. Lạng Sơn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn</i>


Đầu năm 1426, sau khi giải phóng Thanh Hố, nghĩa qn Lam Sơn tiến quân ra vùng
Đồng bằng châu thổ sông Hồng, kết hợp với các phong trào yêu nước tại các địa phương
thống nhất trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.


ải Chi Lăng, vốn được xem là cửa ải xung yếu nhất, trong kháng chiến chống quân Tống


đời Lý và chống quân Nguyên - Mông đời Trần, quân và dân ta đã lợi dụng vị trí hiểm
yếu này chặn đánh và tiêu diệt quân xâm lược, thì nay lại được chọn làm trận địa đánh
địn phủ đầu hết sức bất ngờ vào viện binh Liễu Thăng. Ngày 20-9 năm Đinh Mùi (tức
ngày 10-10-1427), Liễu Thăng đích thân dẫn hơn 100 kỵ mã xơng lên trước đội quân tiên
phong hung hăng mở đường tiến vào Chi Lăng. Khi đi qua cánh đồng lầy lội (tiếng địa
phương là Nà Pùng - Nà Lúm), có cầu bắc qua thì cầu bị sập, đội hình của Liễu Thăng bị
chia cắt. Đúng lúc đó, phục binh của ta bốn bề nổi dậy, bất ngờ xông lên tiêu diệt địch.
Hơn 100 kỵ binh của địch bị tiêu diệt gọn. Liễu Thăng bị trúng lao, chết bên sườn núi Mã
Yên (phía Nam ải Chi Lăng).


Chiến thắng Chi Lăng có ý nghĩa quyết định đến cục diện cuộc chiến, góp phần quan
trọng kết thúc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mà ý nghĩa lịch sử của nó đã vượt qua
giới hạn không gian và thời gian của nước Đại Việt lúc bấy giờ.


<i>2.2. Lạng Sơn từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII</i>


Đầu năm 1428, những tên lính Minh cuối cùng rút khỏi đất nước ta, khởi nghĩa Lam Sơn
toàn thắng, nước Đại Việt được khơi phục, đất nước trở lại thanh bình, nhân dân khắp nơi
trở về xây dựng quê hương. Cuộc sống của người dân Lạng Sơn tương đối yên bình, đời
sống văn hoá, tinh thần của cư dân Lạng Sơn ngày càng được cải thiện, biên cương, quan
ải được củng cố, đất đai ruộng đồng được khai phá thêm, nhiều thắng cảnh đẹp ở Lạng
Sơn như động Tam Thanh, Nhị Thanh được tôn tạo lại. Bước sang thế kỷ thứ XVI, cùng
sự suy vong của nhà Lê Sơ, Lạng Sơn rơi vào tình trạng thường xuyên bị náo động.
Từ năm 1527, nhà Mạc thành lập, Lạng Sơn tạm n trở lại, nhưng vẫn cịn có một số
phụ đạo, thổ tù ủng hộ nhà Lê, không theo Mạc. Chiến tranh Nam - Bắc triều bùng lên,
Lạng Sơn lại chịu cảnh binh lửa. Từ đó đến năm 1625, giao tranh giữa hai bên Trịnh -
Mạc liên tục xảy ra trên đất Lạng Sơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thủ công nghiệp mang tính chất gia đình, thơn bản, lác đác có một số lị rèn, lị đúc
chun chế tạo lưỡi cày, lưỡi cuốc, liềm hái. Hàng thủ cơng có tiếng của Lạng Sơn lúc


bấy giờ là thổ cẩm, đồ gỗ, tre trúc. Riêng thương nghiệp vùng biên giới phát triển mạnh,
thương nhân hai nước lấy các địa điểm ở Lạng Sơn làm nơi trao đổi hàng hoá. Nhiều
người Hoa, người Kinh ở đây mở quầy hàng, lập phố chợ, trong đó nổi lên có phố Kỳ
Lừa, Đồng Đăng.


<b>3. Lạng Sơn từ giữa thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX</b>


Từ giữa thế kỷ XIX, tình hình kinh tế - xã hội Lạng Sơn trở nên khó khăn. Tại Trung
Quốc, phong trào nơng dân bùng lên ở khắp nơi. Một số lực lượng bị quân triều đình nhà
Thanh đánh bại đã bỏ chạy sang Lạng Sơn, Cao Bằng quấy phá. Từ năm 1850 đến năm
1854, thổ phỉ nhà Thanh liên tiếp tràn sang cướp phá. Triều đình Nguyễn phải cử thêm
nhiều chiến binh đóng giữ. Năm 1854, Lạng Sơn bị bão lụt lớn, mất mùa, nạn đói xảy ra.
Triều đình phải vận động các tỉnh láng giềng cứu giúp. Tình hình nói trên kéo dài cho
đến khi thực dân Pháp tấn cơng Bắc Kỳ rồi tiếp đó xâm chiếm tồn bộ nước ta.


Đầu năm 1885, Pháp đưa lực lượng mạnh tiến đánh Lạng Sơn. Đến cuối năm 1885, quân
Pháp chiếm được thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn), Đồng Đăng, Thất Khê và
một số vị trí chiến lược quan trọng dọc trên đường số 4 đến tận địa giới tỉnh Cao Bằng.
Còn đoạn đường (thuộc đường số 4) từ thị xã Lạng Sơn xuôi về tỉnh Quảng Ninh, phải
đến tháng 1-1888, quân Pháp mới kiểm sốt được.


<b>4. Q trình chuyển biến từ phong trào đấu tranh yêu nước sang phong trào đấu </b>
<b>tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng</b>


Từ năm 1891, sau khi tiến hành bình định Bắc Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập chính
quyền đơ hộ ở Lạng Sơn. Cùng với thiết lập, tăng cường củng cố bộ máy cai trị, thực dân
Pháp đã thực thi nhiều chính sách phản động về chính trị và kinh tế khiến đời sống của
nhân dân rất cực khổ bởi gánh nặng sưu thuế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), thực hiện cuộc vận động và xây dựng phong trào


quần chúng cách mạng ở các tỉnh miền núi, biên giới như Cao Bằng, Lạng Sơn với mục
đích tạo địa bàn hoạt động thuận lợi cho Đảng ta, Chi bộ Đảng Cộng sản được thành lập
với nhiệm vụ chỉ đạo cách mạng vùng núi biên giới Cao - Bắc - Lạng.


Từ giữa năm 1930, chi bộ đã hướng nhiệm vụ trọng tâm vào việc bắt mối, gây dựng các
tổ chức quần chúng cách mạng ở hai tỉnh Lạng Sơn và Cao Bằng. Đồng chí Hồng Văn
Thụ được chi bộ phân cơng gây dựng phong trào quần chúng cách mạng ở Lạng Sơn.


<b>5. Sự ra đời của các chi bộ Đảng đầu tiên và phong trào đấu tranh cách mạng giai </b>
<b>đoạn 1933 - 1940</b>


<i>5.1. Thành lập chi bộ Đảng ở Thụy Hùng (Văn Uyên) và phong trào đấu tranh cách </i>
<i>mạng giai đoạn 1933 - 1935</i>


Trước sự tiến triển không ngừng của phong trào cách mạng quần chúng, chi bộ Đảng
vùng biên giới đã quyết định thành lập cơ sở Đảng ở Văn Uyên để làm nòng cốt chỉ đạo
phong trào trước mắt và lâu dài. Được sự uỷ nhiệm của Đảng, giữa năm 1933, đồng chí
Hồng Văn Thụ đã tới Thuỵ Hùng, tổ chức kết nạp đảng viên, thành lập chi bộ Đảng do
bản thân đồng chí trực tiếp làm Bí thư. Đây là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Văn
Uyên và cũng là chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Đảng bộ Lạng Sơn sau này. Chi bộ
Đảng Thuỵ Hùng ra đời ghi nhận bước trưởng thành của phong trào cách mạng Lạng Sơn
sau thời gian ngắn tổ chức và xây dựng (1930 - 1933).


Giữa năm 1934, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban lãnh đạo Trung ương Đảng, Ban Cán
sự tỉnh Lạng Sơn được thành lập trên cơ sở nịng cốt là Chi bộ Đảng Thuỵ Hùng. Do có
sự tổ chức và chỉ đạo tích cực của Ban Cán sự, nên đầu năm 1935, các cơ sở quần chúng
cách mạng ở Văn Uyên đã liên hệ mở rộng địa bàn tuyên truyền cách mạng sang Thất
Khê (Tràng Định).


<i>5.2. Thành lập Chi bộ Đảng ở Vũ Lăng (Bắc Sơn), Phi Mỹ (Tràng Định)</i>



Chấp hành chủ trương của Xứ uỷ Bắc Kỳ về việc tiếp tục củng cố, phát triển phong trào
cách mạng ở vùng dân tộc thiểu số, đặc biệt là vùng núi biên giới, giữa năm 1936, đồng
chí Hồng Văn Thụ - cán bộ đặc trách chỉ đạo vùng biên giới Cao - Bắc - Lạng - đã trực
tiếp về Bắc Sơn để giác ngộ, tổ chức các cơ sở quần chúng cách mạng. Ngày 25-9-1936,
Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Bắc Sơn gồm 4 đảng viên được thành lập tại thôn Mỏ
Tát, xã Vũ Lăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

cách mạng Tràng Định. Chi bộ Đảng ở Bắc Sơn và Tràng Định ra đời đã trở thành lực
lượng nòng cốt, thúc đẩy phòng trào cách mạng ở Lạng Sơn trong những giai đoạn cách
mạng trước mắt.


<i>5.3. Khởi nghĩa Bắc Sơn với sự chuyển biến của phong trào cách mạng trong tỉnh</i>


Ngày 22-9-1940, quân Nhật đánh vào Lạng Sơn. Sau vài trận chống cự yếu ớt, quân Pháp
rút chạy tốn loạn qua Bắc Sơn về Thái Ngun. Chính quyền địch ở những vùng này bị
tan rã. Nắm lấy thời cơ, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ địa phương, nhân dân
Bắc Sơn đã vùng lên tước vũ khí của tàn binh Pháp, tự vũ trang để đánh Pháp, đuổi Nhật.
Tại Nông Lục (Hưng Vũ), sáng ngày 27-9-1940, một số đồng chí sau khi thốt khỏi nhà
tù Lạng Sơn đã về họp với các Chi bộ Đảng ở Hưng Vũ, Bắc Sơn,... với chủ trương lãnh
đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền. Ngay chiều 27-9-1940, nhân dân các xã
Bắc Sơn, Hưng Vũ, Chiêu Vũ, Trấn Yên với trang bị súng kíp, giáo mác, gậy gộc chia
làm ba cánh tiến đánh đồn Mỏ Nhài. Buối tối cùng ngày, cuộc tấn công bắt đầu. Khởi
nghĩa Bắc Sơn bùng nổ. Quân khởi nghĩa chiếm được châu lỵ Bắc Sơn, chính quyền địch
bị tan rã. Do chưa có sự chuẩn bị chu đáo, nên chúng ta chưa thành lập được chính quyền
cách mạng và cũng vì quân ta chưa chuẩn bị được lực lượng đối phó nên đã bị quân Pháp
đàn áp, chiếm lại châu lỵ, thiết lập chính quyền bù nhìn tay sai. Tuy nhiên, quân địch
không thể dập tắt được tinh thần chiến đấu của nhân dân. Phong trào cách mạng và khí
thế khởi nghĩa Bắc Sơn vẫn được duy trì.



<b>6. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (1941 - 1945</b>)


<i>6.1. Chuẩn bị lực lượng tiến tới Cách mạng Tháng Tám (từ năm 1941 đến tháng 3-1945)</i>


Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, thực dân Pháp cấu kết với phát xít Nhật tiến hành đàn áp khốc
liệt phong trào cách mạng của nhân dân. Quán triệt đường lối của Đảng và các chính sách
của Mặt trận Việt Minh, cùng với các tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên
Quang, phong trào Việt Minh tại Lạng Sơn đã phát triển ở nhiều vùng nông thôn, thị xã
và thị trấn. Cuối năm 1942 đến đầu năm 1944, phong trào Việt Minh đã phát triển ở Bắc
Sơn, Tràng Định, Thoát Lãng, Bình Gia.


Từ cuối năm 1944 đến đầu năm 1945, được sự tăng cường chỉ đạo của Tổng bộ Việt
Minh, Liên Tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng và sự vận động, tổ chức tích cực của cứu quốc quân
từ căn cứ địa Bắc Sơn - Võ Nhai, các đội vũ trang tuyên truyền chiến đấu đã lần lượt ra
đời ở nhiều địa phương trong tỉnh như Hội Hoan (Thốt Lãng), Thuỵ Hùng (Văn Un),
Chí Minh (Tràng Định).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>6.2. Tiến trình giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945</i>


Từ tháng 4 đến tháng 7-1945, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của các chi bộ Đảng, các Ban Việt
Minh ở các châu Bắc Sơn, Bình Gia, Hữu Lũng, Bằng Mạc, Tràng Định, Thốt Lãng,
Điềm He, đã phát động quần chúng cách mạng nổi dậy giành chính quyền.


Ngày 19-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần cách
mạng của nhân dân cả nước. Trước tình hình đó, ngày 19-8, tại Đồng Mỏ (Ơn Châu),
dưới sự chỉ đạo của Ban Việt Minh, được sự tăng cường của lực lượng vũ trang chủ lực
tỉnh, quần chúng cách mạng đã nhất tề nổi dậy, tiến công quân Nhật, làm chủ châu lỵ. Ơn
Châu hồn tồn giải phóng.


Cùng ngày, tại Hữu Lũng, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng nổi dậy làm chủ


phố Mẹt, châu lỵ Hữu Lũng. Ngày 21-8, tại Thất Khê (Tràng Định), dưới sự chỉ đạo của
Đảng bộ, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nổi dậy tiến cơng, bao vây,
tước vũ khí qn Nhật, làm chủ phố Thất Khê, giải phóng hồn tồn Tràng Định. Ngày
22-8, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng ở Thốt Lãng đã làm chủ Na Sầm,
giải phóng hồn tồn Thốt Lãng. Rạng sáng ngày 25-8, lực lượng vũ trang cách mạng và
quần chúng các vùng lân cận bằng nhiều hướng đã tiến vào thị xã. Do có sự chuẩn bị
trước, ngay từ sáng sớm, nhân dân thị xã đã rầm rộ đổ ra các ngõ phố đón chào quân cách
mạng. Vào đến thị xã, lực lượng vũ trang và quần chúng cách mạng đã nhanh chóng
chiếm các cứ điểm của địch, bao vây dinh tỉnh trưởng bù nhìn, buộc địch phải đầu hàng.


<b>7. Kháng chiến chống thực dân Pháp</b>
<i>7.1. Quân Pháp tiến công lần thứ hai</i>


Cuối năm 1946 thực dân Pháp bắt đầu tiến công Lạng Sơn. Vào hồi 19 giờ ngày
21-11-1946, quân Pháp nổ súng khiêu khích ở khu vực Hang Dê. Do có sự can thiệp tích cực
của Uỷ ban bảo vệ tỉnh, nên quân Pháp đã phải tạm ngừng khiêu khích. Trước tình hình
đó, các cơ quan của tỉnh đã nhanh chóng rút ra khỏi thị xã, về căn cứ Ba Xã (Điềm He)
để tổ chức chỉ đạo kháng chiến lâu dài.


Do cuộc chiến không cân sức, để bảo tồn, giữ gìn lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu
dài, ngày 21-11, quân ta rút khỏi thị xã với sự tiếp viện, giúp sức của các đội vũ trang ở
Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Un, lập phịng tuyến trên đường số 1 và số 4. Tình thế này
buộc địch phải thả dù tiếp tế cho binh lính đóng trong thị xã.


<i>7.2. Sự phối hợp của qn và dân trên mặt trận đường số 4 - Lạng Sơn giải phóng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Sau khi đánh chiếm thị xã, quân Pháp tiếp tục tấn công theo đường số 4 về phía Lộc Bình
và đường số 1 từ thị xã lên Đồng Đăng để mở rộng phạm vi chiếm đóng. Từ tháng
12-1946, quân địch đã mở nhiều cuộc hành quân tiến đánh các tuyến nội địa trong tỉnh để
thực hiện âm mưu tiêu diệt cơ quan đầu não của tỉnh và lực lượng vũ trang, từ đó chiếm


đóng hồn tồn thị xã.


Với mục tiêu tăng cường lực lượng vũ trang chiến đấu, từ giữa năm 1947, hầu hết các địa
phương trong tỉnh đã thành lập các đại đội độc lập chiến đấu. Từ tháng 10-1947, địch huy
động lực lượng lớn dọc theo đường số 4 và số 1 tiến công lên Cao Bằng, Bắc Kạn và
Lạng Sơn - một trong những địa bàn chiến lược quan trọng phục vụ cho âm mưu tấn công
Việt Bắc của địch. Đến cuối năm, giặc Pháp đã đánh chiếm Tràng Định, Văn Lãng, Cao
Lộc, Lộc Bình, lập các đồn bốt đóng quân dọc đường số 4 và nhiều xã biên giới.


Cơ quan lãnh đạo của tỉnh đã rút từ căn cứ Ba Xã (Điềm He) về Kéo Coong (Bình Gia)
để kịp thời đối phó với kế hoạch quân sự của địch ngay trên địa bàn Lạng Sơn. Đến cuối
năm 1947, các căn cứ du kích của tỉnh bắt đầu được xây dựng ở Chi Lăng (Lộc Bình) và
Ba Sơn (Cao Lộc) hình thành vành đai chiến tranh du kích trong khu vực khống chế của
địch.


Ngày 30-10-1947, lực lượng vũ trang địa phương phối hợp với qn chủ lực phục kích
địch ở Bơng Lau, tiêu diệt 94 tên Pháp, phá huỷ và làm hỏng 27 xe quân sự của địch.
Chiến thắng Bông Lau đã mở đầu cho hàng loạt những trận đánh oanh liệt của quân và
dân ta trên đường số 4, góp phần cổ vũ tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân
trong tỉnh.


Phát huy tinh thần chiến thắng Bông Lau, từ cuối năm 1947, các lực lượng vũ trang Lạng
Sơn đã liên tiếp tiến công địch, giành nhiều thắng lợi lớn ở Đèo Khách, Bản Nằm, Lũng
Vài, góp phần tiêu hao sinh lực và chia cắt kế hoạch tiến công lớn của địch. Những chiến
thắng của quân và dân Lạng Sơn đã làm thất bại kế hoạch dùng Lạng Sơn làm địa bàn tập
trung quân của giặc Pháp, hỗ trợ tích cực cho cuộc chiến đấu quyết liệt của các lực lượng
vũ trang ta ở Cao Bằng và các mặt trận khác.


Đầu năm 1948, Pháp cho xây dựng hệ thống đồn bốt dọc đường số 4 từ Đình Lập lên
Thất Khê, tăng cường binh lính đóng giữ để đối phó với sự tiến công của quân ta. Giữa


năm 1948, phối hợp nhịp nhàng với quân và dân ở vùng tự do, quân và dân ở những vùng
tuyến trước dọc đường số 4 Đình Lập, Lộc Bình, Cao Lộc, Văn Un, Thốt Lãng, Tràng
Định đã thường xuyên tiến công địch. Thực hiện phong trào thi đua "cướp súng giặc giết
giặc" do Tỉnh uỷ phát động và khẩu hiệu "làm chủ đường số 4 đi đến cắt đứt đường số 4",
ngày 12-9-1948, quân ta tiêu diệt đồn Nà Cáy mà không tốn một viên đạn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Từ đầu năm 1949, các lực lượng vũ trang đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch, giữ vững và
mở rộng căn cứ du kích tạo thành vành đai chiến đấu liên hoàn, vững chắc, làm chủ chiến
trường, đánh bật địch, giải phóng từng phần. Thắng lợi ở Ba Sơn, Chi Lăng, Đình Lập
với hàng loạt chiến thắng ở Đèo Khách, Bó Củng, Lũng Vài, Lũng Phầy đã làm chuyển
biến nhanh chóng chiến cục trên mặt trận đường số 4, bước sang giai đoạn tổng phản
cơng, đánh bại hồn tồn qn địch.


Cùng với việc chỉ đạo gấp rút cho chiến đấu trên mặt trận đường số 4, cuối tháng 1-1950,
Tỉnh uỷ đã kịp thời tổ chức các lực lượng vũ trang chặn đánh, đẩy lùi hàng nghìn tên
thuộc quân đội của Tưởng Giới Thạch thua trận tràn qua biên giới Lạng Sơn, cướp bóc
phá hoại kinh tế của ta. Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở
Chiến dịch biên giới do đồng chí Võ Nguyên Giáp - Uỷ viên Thường vụ Trung ương
Đảng làm chỉ huy trưởng kiêm bí thư. Tỉnh uỷ Cao Bằng và Lạng Sơn gấp rút huy động
mọi lực lượng, phương tiện phục vụ chiến dịch. Để kịp thời thực hiện nhiệm vụ cấp bách,
Tỉnh uỷ đã phát động phong trào thi đua "tất cả cho chiến trường đánh thắng".


Ngày 16-9-1950, quân ta tiến công đồn Đông Khê, cứ điểm tập trung quan trọng của địch
trên đường 4. Sau 2 ngày đêm chiến đấu quyết liệt, quân ta đã giành thắng lợi. Trên đà
thắng lợi ở Đông Khê, các lực lượng chủ lực có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa
phương đã liên tiếp tiến công tiêu diệt địch trên toàn tuyến đường số 4.


Từ ngày 3 đến ngày 8-10-1950, quân ta đã đánh tan 2 binh đoàn chủ lực của Pháp, tiêu
diệt cánh quân cứu viện của chúng từ Hà Nội lên. Ngày 10-10-1950, địch rút khỏi thị trấn
Thất Khê, huyện Tràng Định giải phóng. Ngày 13-10-1950, địch rút khỏi Na Sầm, Đồng


Đăng. Hai huyện Văn Un, Thốt Lãng được giải phóng. Ngày 17-10-1950, địch rút
khỏi thị xã Lạng Sơn và Lộc Bình, quân ta vào tiếp quản thị xã. Ngày 22-10-1950, địch
rút khỏi An Châu (Đình Lập) chấm dứt sự chiếm đóng của thực dân pháp trên đất Lạng
Sơn.


Tỉnh Lạng Sơn được giải phóng, kết thúc giai đoạn kháng chiến gian khổ và kiên cường
của Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn trong cuộc kháng chiến trường kỳ anh
dũng chống thực dân Pháp do Đảng ta lãnh đạo.


<b>8. Lạng Sơn sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954</b>


<i>8.1. Đẩy mạng cải cách dân chủ, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát </i>
<i>triển kinh tế- xã hội (1955 - 1960)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

yêu nhau. Thực hiện chủ trương của Trung ương, Lạng Sơn đã phát động giảm tô ở 6
huyện, thị trong tỉnh. Đến giữa năm 1958, tình hình nơng thơn ở Lạng Sơn có bước
chuyển biến mới, nhất là sau kết quả của cuộc vận động giảm tô, tiến hành sửa sai, tịch
thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo.


Đến cuối năm 1959, địa phương nào đã phát động giảm tô, tổ chức tổ đổi cơng thì phong
trào sản xuất nơi đó phát triển mạnh. Đến đầu năm 1960, toàn tỉnh đã tổ chức được 1.221
hợp tác xã nông nghiệp, thu hút trên 30 nghìn hộ nơng dân vào làm ăn tập thể. Ngành văn
hố đã triển khai mạng lưới thơng tin tuyên truyền đến hầu hết các cơ sở trong tỉnh.
Ngành giáo dục đã xây dựng được hệ thống trường phổ thông đến cấp xã.


<i>8.2. Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất và chống chiến tranh phá hoại của đế quốc </i>
<i>Mỹ (1961 - 1965)</i>


Từ cuối năm 1961, các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đồn thể các huyện thị đã nỗ lực đầu
tư cơng sức thích đáng cho việc củng cố phong trào hợp tác hoá, làm thuỷ lợi, khai


hoang, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản xuất nông nghiệp phát
triển đã đặt ra những yêu cầu mới đối với các ngành sản xuất công nghiệp của tỉnh.
Ngành cơ khí của tỉnh đã sản xuất hàng vạn công cụ cải tiến phục vụ cho nhu cầu vận
chuyển, canh tác. Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp tiêu dùng đã cung
cấp cho nhu cầu xây dựng cơ sở của hợp tác xã hàng triệu viên gạch, ngói cho sinh hoạt
của nhân dân. Ngành thương nghiệp đã mở được hàng trăm cửa hàng tập trung và lưu
động ở các xã, đáp ứng nhu cầu mua, bán nông sản, thực phẩm, tiêu dùng. Hoạt động văn
hố - thơng tin góp phần khích lệ tinh thần hăng hái và ý chí quyết tâm của quân và dân
ta trong sản xuất và chiến đấu.


Năm 1964, trước những thất bại liên tiếp trong "Chiến tranh đặc biệt" ở chiến trường
miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc. Máy bay địch đã liên tiếp xâm
phạm không phận Lạng Sơn để trinh sát và khiêu khích. Ngày 20-9-1965, máy bay Mỹ
chính thức bắn phá các mục tiêu dọc đường quốc lộ 1A và đường sắt Lạng Sơn - Hà Nội.
Ngày 5-10-1965, máy bay Mỹ lại điên cuồng bắn phá thị xã Lạng Sơn và các mục tiêu
xung yếu ở phía Nam của tỉnh. Trong những năm tháng đối đầu với nhiều đợt bắn phá ác
liệt của giặc Mỹ, bằng nhiều hành động thiết thực và lòng dũng cảm cao độ, các đội thanh
niên xung phong và quân chủ lực đã góp cơng sức khơng nhỏ vào thành tích của quân và
dân các dân tộc trong tỉnh.


<i>8.3. Vừa củng cố, khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, vừa tiến hành chống chiến </i>
<i>tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ (1966 - 1972)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

đến công tác chỉ đạo chiến đấu, sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại của đế quốc
Mỹ, song Tỉnh uỷ đã dành nhiều thời gian nghiên cứu, khảo sát để đề ra nhiều biện pháp
tích cực nhằm đẩy mạnh công tác thuỷ lợi, làm đường giao thơng, phủ xanh đồi trọc. Tiếp
đó, tỉnh tập trung cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, không ngừng củng cố hợp tác xã
nông nghiệp, ra sức mở rộng sản xuất, giải quyết tốt nhu cầu lương thực, đáp ứng nhu cầu
đời sống, yêu cầu của chiến đấu. Đến cuối năm 1968, do bị thất bại nặng nề ở chiến
trường miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải chấm dứt chiến tranh leo thang phá hoại miền


Bắc. Cùng với quân và dân miền Bắc, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn đón
nhận thắng lợi to lớn trong niềm hân hoan, phấn khởi vô hạn.


Từ tháng 4-1972, giặc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân trở lại đánh
phá miền Bắc với mức độ ác liệt hơn bao giờ hết. Ngày 11-5-1972, máy bay Mỹ dội bom
bắn phá các địa bàn thuộc khu vực phía Nam tỉnh Lạng Sơn. Do thấy rõ vị trí có tầm
quan trọng chiến lược của cửa khẩu Lạng Sơn trong việc tiếp nhận, bảo quản, vận chuyển
hàng hoá, nên Lạng Sơn được giao nhiệm vụ: bố trí, huy động lực lượng chủ yếu để hỗ
trợ kịp thời cho yêu cầu ngày càng cấp bách của công tác này. Cùng với quân và dân
miền Bắc, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc Lạng Sơn bình tĩnh, vững vàng, tập trung
mọi lực lượng, sẵn sàng vừa chiến đấu, vừa tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ vinh quang của
"Cảng nổi" kiên cường, tiếp nhận và vận chuyển kịp thời theo yêu cầu khẩn cấp của cuộc
chiến đấu. Trong năm 1972, với phương châm vừa chiến đấu, vừa sản xuất, mặc dù phải
chịu nhiều khó khăn do thiên tai và bom đạn địch gây ra, nhưng Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc trong tỉnh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ giải toả hàng hố, đảm bảo giao thơng
thơng suốt trong mọi tình huống.


LẠNG SƠN QUA CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ


<b>9. Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1973 - 1978</b>


Trong giai đoạn này, Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn chủ trương đẩy mạnh khôi phục và phát
triển kinh tế, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng - cách mạng quan hệ sản xuất,
cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng. Đẩy mạnh sản xuất nơng - lâm
- nghiệp, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm để phát triển sản xuất công nghiệp địa
phương và các ngành kinh tế khác.


Đến đầu năm 1975, sản lượng lương thực của tỉnh tăng 7% so với năm 1972, phong
trào thâm canh, xen canh, tăng vụ lúa, hoa màu được nhân rộng và phát triển tới
những vùng cao hẻo lánh, xuất hiện nhiều hợp tác xã có phong trào chăn ni trâu,


bị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>10. Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ biên giới</b>
<b>của Tổ quốc (1979 - 1985)</b>


Bước sang năm 1979, tình hình căng thẳng ở khu vực biên giới bắt đầu bùng nổ.
Ngày 17-2-1979, nhân dân ta đã phải đối phó với cuộc xung đột quy mô lớn diễn ra
trên tồn tuyến biên giới phía Bắc. Đến ngày 4-3-1979, một cánh quân đối phương
đã tràn vào phía Bắc thị xã Lạng Sơn. Để kịp thời hỗ trợ cuộc đấu tranh anh dũng
của quân và dân ta ở các huyện tuyến trước, Đảng bộ, quân và dân các huyện hậu
tuyến là Bình Gia, Bắc Sơn, Văn Quan, Chi Lăng, Hữu Lũng đã huy động hàng trăm
chiến sĩ tự vệ chiến đấu, bổ sung tới mặt trận. Từ ngày 5-3-1979, đối phương đã dần
rút khỏi toàn tuyến biên giới.


Trong cuộc xung đột biên giới, gần như toàn bộ các cơ sở công nghiệp, trường học,
bệnh viện, kho tàng, các cơng trình thuỷ lợi, cầu cống, hàng nghìn nhà làm việc của
các cơ quan và nhà dân ở Lạng Sơn bị tàn phá, gây hậu quả nặng nề và lâu dài cho
kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Khắc phục hậu quả
chiến tranh, từ năm 1981 đến năm 1983, tỉnh đã đầu tư xây dựng nhiều cơ sở sản
xuất mới như xí nghiệp mía đường, xí nghiệp chế biến mì, màu, xí nghiệp may mặc,
xí nghiệp sửa chữa truyền thanh. Hầu hết các cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ
công nghiệp của tỉnh đã phục hồi và ổn định sản xuất. Thời gian này, tỉnh cũng chỉ
đạo đầu tư khôi phục và làm mới một số cơng trình thuỷ lợi, cơ quan, kho tàng,
trường học, đường dây thông tin; xây dựng mới 5 cơ sở y tế điều trị và chữa bệnh với
200 giường bệnh, xây thêm phòng học phổ thông các cấp, khôi phục việc dạy và học
của các trường phổ thông cơ sở các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh. Đến
cuối năm 1985, một số nhà máy đã được xây dựng mới như Nhà máy Xi măng Pị
Mỏ, Xí nghiệp Gạch ngói Hợp Thành, Xí nghiệp Giấy Nà Me. Các ngành y tế, giáo dục
- đào tạo của tỉnh đã có những chuyển biến mới. Hệ thống các trường học, bệnh
viện, bệnh xá đã được nâng cấp. Đến năm 1985, số người được đi học của tỉnh đã


tăng hơn, số giường bệnh trong các bệnh xá, bệnh viện cũng nhiều hơn.


<b>11. Hơn mười lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới, trong đó có 10 năm </b>
<b>thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12></div>

<!--links-->
Nhận thức chung vềhệthống các vùng qua các giai đoạn lịch sử
  • 29
  • 463
  • 0
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×