Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Nhận thức của đảng cộng sản việt nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 139 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN KIM TUYẾT

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN KIM TUYẾT

NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành
Mã số

: Triết học
: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


TS. TRẦN HỒNG HẢO

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là cơng trình ghiên cứu khoa học do
chính tơi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Hồng Hảo. Nếu
khơng đúng tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2014
Tác giả

Nguyễn Kim Tuyết


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................. 3
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn .......................................................................... 6
3.1.

Mục đích ......................................................................................................... 7

3.2.

Nhiệm vụ của luận văn ................................................................................... 7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................... 7

4.1.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn ................................................................ 7

4.2.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn ................................................................... 7

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn .................................... 7
5.1.

Cơ sở lý luận ................................................................................................... 7

5.2.

Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 7

6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn ........................................... 8
6.1.

Về mặt lý luận ................................................................................................. 8

6.2.

Về mặt thực tiễn .............................................................................................. 8

7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 8
Chương 1: NHẬN THỨC VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI ................................................................................................................................. 9
1.1.


Khái niệm về thời kỳ quá độ theo quan niệm của C.Mác, Ph.Ăngghen
và V.I.Lênin ......................................................................................................... 9
1.1.1. Quan niệm về thời kỳ quá độ theo C.Mác, Ph.Ăngghen ............................ 9
1.1.2. Quan niệm về thời kỳ quá độ theo V.I.Lênin ........................................... 15

1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ....................................... 23


1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam ................................................................................................... 23
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam .................................................................... 33
Kết luận Chương 1 ........................................................................................................ 48
Chương 2: CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ......................................... 53
2.1.

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta trước và sau đổi mới (1986) .............................. 53
2.1.1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1975 đến trước 1986...................................... 53
2.1.2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội giai đoạn 1986 đến nay (Đại hội XI(2011)) .................. 69

2.2.


Những thành tựu và hạn chế trong quá trình đổi mới về nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế ........................ 96
2.2.1. Những thành tựu và hạn chế của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong giai đoạn hội
nhập quốc tế .............................................................................................. 97
2.2.2. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của Đảng Cộng sản
Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong
giai đoạn hội nhập quốc tế ...................................................................... 103

2.3.

Phương hướng và giải pháp để đi lên chủ nghĩa xã hội thời kỳ quá độ
ở nước ta hiện nay ........................................................................................... 106
2.3.1. Phương hướng thực hiện bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay .......................................................................................... 106
2.3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay ........... 114

Kết luận Chương 2 ...................................................................................................... 121


KẾT LUẬN ................................................................................................................ 123
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 125


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo

nước ta bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước chuyển cách
mạng lịch sử với nhiều khó khăn và thử thách bởi giai đoạn những năm cuối thập
kỷ 80 trên thế giới diễn ra nhiều sự kiện hết sức bất lợi cho sự nghiệp cách mạng
của nước ta. Các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới lâm vào tình trạng khủng
hoảng thoái trào rồi dẫn đến tan rã. Nguyên nhân bắt nguồn từ những sai lầm và
mâu thuẫn chậm được khắc phục, mất cảnh giác trước âm mưu diễn biến hồ bình
của các nước tư bản đế quốc. Các nước xã hội chủ nghĩa Đơng âu mất đi vai trị
lãnh đạo chính quyền của Đảng Cộng sản gây nên sự thay đổi của chế độ chính trị
- xã hội. Điều đó cũng dẫn đến vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô suy
yếu nghiêm trọng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước sụp đổ và thất bại. Các
nước tư bản trên thế giới phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, tiếp tục và
thay nhau bành trướng thế lực, phân chia thị trường thế giới và đem quân xâm
chiếm các nước. Cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật cơng
nghệ, hàng loạt các phát minh, các máy móc thiết bị và các cơng trình khoa học
hiện đại có giá trị ra đời, góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của đời sống xã hội
ở các nước tư bản.
Phải nhìn nhận một sự thật rằng, sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xơ và các nước Đơng âu có ngun nhân khách quan lẫn ngun nhân chủ
quan. Về ngun nhân khách quan, đó chính là sự bành trướng của các nước tư
bản. Về nguyên nhân chủ quan, đó là sự thiếu tính dân chủ thực sự; tư tưởng bảo
thủ, thiếu nhạy bén và chậm phát triển so với xu hướng phát triển chung của toàn
cầu; tuy ln tìm cách hiện đại hố đất nước nhưng không theo kịp các nước tư bản
do thực hiện bao cấp trên nhiều lĩnh vực (giao thông, y tế, lương thực,…) đã dẫn
tới sự thụt lùi và về sau lâm vào khủng hoảng kinh tế. Nhiều nước xã hội chủ nghĩa


2

có thể chế chính trị khơng phải của tồn dân mà do sự áp đặt. Nền kinh tế không
phát triển theo hướng thị trường nên thiếu thực tế và không theo quy luật cung và

cầu trong thị trường; đầu tư thì chưa hợp lý; chậm chạp trong áp dụng kỹ thuật mới
vào hoạt động sản xuất. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông âu ngày
càng quan liêu, xa rời quần chúng làm cho vai trò lãnh đạo khơng cịn sức chiến
đấu, tất yếu làm mất niềm tin của nhân dân dẫn đến hệ quả tê liệt khơng cịn sức
kháng cự trước chủ nghĩa tư bản.
Trong nước ta, nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi giành được
chính quyền là tiếp tục đưa đất nước tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, con
đường mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn với sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại. Sau 10 năm (1975 -1985) nước ta thực hiện bước quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội nhưng với cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp đã dẫn đến sự
sai lầm chủ quan duy ý chí trong quản lý xã hội nên kinh tế xã hội rơi vào khủng
hoảng trầm trọng. Đường lối cải cách kinh tế nước ta trong thời kỳ đầu cịn nhiều
bất cập, chính sách kế hoạch hoá nền kinh tế trong nước bấy giờ hồn tồn khơng
phù hợp điều kiện thực tiễn của xã hội đang diễn ra. Đảng ta chưa thực sự gắn lý
luận với thực tiễn, chưa nhận thấy hết sự khó khăn, phức tạp của nền kinh tế bao
cấp. Chính sách an sinh xã hội trong nước lúc này vẫn chưa được quan tâm đúng
mức nên đời sống nhân dân còn gặp rất nhiều khó khăn trong khi các thế lực thù
địch vẫn ln tìm cách chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang tiến
hành xây dựng.
Vấn đề đặt ra cho quá trình xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong
bối cảnh trong và ngoài nước hiện nay đang tiếp tục với những diễn biến phức tạp
đã đòi hỏi sự nhận thức một cách đúng đắn, khoa học hơn nữa của Đảng Cộng sản
Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và tìm ra những giải pháp thích
hợp để thực hiện thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay.


3

Xuất phát từ tính cấp thiết nêu trên, tác giả đã chọn đề tài “Nhận thức của
Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc trong toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo ra
những tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để hình thành xã hội mà trong đó,
những nguyên tắc căn bản của xã hội xã hội chủ nghĩa được thực hiện. Phản ánh
một số nội dung mang tính lý luận, các nhà khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin đã
trình bày những quan điểm của mình qua những tác phẩm như: “Học thuyết Mác
và con đường cách mạng Việt Nam” của PGS.TS Lê Minh Vụ (Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2008); Cuốn sách “Những quan điểm cơ bản của Mác,
Ăngghen, Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ” của tác giả Nguyễn Trọng
Chuẩn, Phạm Văn Đức, Hồ Sỹ Quý (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
Trong cuốn “Chủ nghĩa xã hội Việt Nam hiện nay những quan điểm lý luận cơ
bản” của PGS.TS Trần Thành (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013) cũng khẳng
định trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Việt Nam luôn kiên định đi theo
con đường chủ nghĩa xã hội. Trước xu thế tồn cầu hố, hội nhập quốc tế, chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam càng là mối quan tâm của nhiều học giả trong nước và
nước ngoài. Tác phẩm này mang lại một cái nhìn mang tính hệ thống lý luận về
chủ nghĩa xã hội ở việt Nam hiện nay. Trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những nhận thức ngày
càng rõ hơn mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cuốn sách
cũng bàn về phương pháp tiếp cận và quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển chủ
nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội Việt
Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.


4

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội được nhiều nhà khoa học

phân tích qua các tác phẩm: “Kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta” của Hội đồng lý luận Trung ương (Nxb. Chính trị quốc gia, Sự
Thật, 2013); “Vững bước trên con đường đã chọn” của Hội đồng lý luận Trung
ương (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã chứng minh sự kiên định, chọn
lựa đúng đắn của Đảng ta trong quá trình nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đại hội đại biểu lần thứ VI(1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước và đường lối đó khơng ngừng được
bổ sung và hồn thiện qua các Đại hội VII, VIII, IX và các Hội nghị Trung ương
trong những nhiệm kỳ tương ứng. Nhờ sự nổ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân trong hiện thực hố đường lối đó, đất nước đã có những bước tiến mới trên
nhiều phương diện. Chính những thành tựu to lớn và quan trọng trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phịng, quan hệ ngoại giao là cơ sở khẳng định sức
sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tính
đúng đắn, sáng tạo trong đường lối đổi mới của Đảng ta; “Phát huy thành tựu to
lớn của công cuộc đổi mới, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới cách nước ta vững bước
tiến lên” của Tổng Bí thư Đỗ Mười (Tạp chí Cộng sản, số 1, 1994), bài viết cũng
chỉ ra những thành tựu Đảng ta đạt được khi quyết tâm thực hiện công cuộc đổi
mới. PGS.TS Đặng Hữu Tồn với bài viết: “Nhìn lại quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam 80 năm qua về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Tạp chí
Triết học, Số 2, 2010) đã cho chúng ta thấy được những bước chuyển trong sự
nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bài viết khái quát tiến trình đấu tranh cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và thực
tiễn qua các kỳ Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hơn năm kiên trì con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Đảng ta


5

thực hiện đổi mới ở đây chính là quan niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và
thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp.

Ở một số khía cạnh khác, những vấn đề cụ thể đã được các tác giả quan tâm
tìm hiểu, đánh giá trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được viết
trong các tác phẩm như: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh cải cách tổ chức
hoạt động Nhà nước” của Trần Đình Hoan (Tạp chí Cộng sản, số 13, 2001), đánh
giá vai trò to lớn và quyết định của Đảng và Nhà nước trong quản lý, cải cách xã
hội phù hợp với thực tiễn xã hội trong điều kiện đảng ta tiếp tục giữ vững định
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã chọn; Bài viết “ Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng gắn với xây dựng,
củng cố hệ thống chính trị cơ sở” (Tạp chí xây dựng Đảng, số 6, 2004) cũng đánh
giá tầm quan trọng của tổ chức cơ sở Đảng trong thực hiện vai trị lãnh đạo nước ta
quyết tâm hiện thực hố thành công con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội;
Cuốn “ Chủ nghĩa xã hội hiện thực: khủng hoảng, đổi mới và xu hướng phát triển”
của PGS.TS Hồng Chí Bảo (Nxb. Chính trị quốc gia, 1994). Trong tác phẩm này
tác giả thể hiện một cách đầy đủ và sâu sắc nhất thực tiễn diện mạo của chủ nghĩa
xã hội nước ta hiện đang diễn ra với những cách nhìn mới trên những khía cạnh
ảnh hưởng trực tiếp đến cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực mà Đảng
ta nhìn nhận hết sức khách quan để có được những giải pháp mang tính thực tiễn
và đem lại hiệu quả cao trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
Nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng được đảng ta xác định là một nhiệm vụ
then chốt trong giai đoạn hiện nay. Một trong những cơng tác quan trọng của
nhiệm vụ đó là: “Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng”[30,306]
mà “Phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” với tác
giả Nguyễn Sỹ Nồng và cuốn “Vị trí cầm quyền và vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong điều kiện mới” của GS.TS Đỗ Hoài Nam đã đề cập một cách
cụ thể trong tác phẩm. Trong đó, Đại hội X(2006) đã khẳng định phải tiếp tục nâng


6

cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,

đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển.
Đặc biệt là bài viết của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú
Trọng về “Xây dựng Đảng cầm quyền: Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở
Việt Nam” (Tạp chí Cộng sản, số 5, 2004) để nhìn nhận khách quan sự lựa chọn tất
yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cuốn sách “Lý luận và thực tiễn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” của
PGS.TS Vũ Văn Phúc (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009) nói về thực tiễn
hơn 20 năm đổi mới ở nước ta và một số nước đã cho ta nhận thức ngày càng rõ
hơn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về những tiêu chí cơ bản của phương
thức sản xuất xã hội xã hội chủ nghĩa; cách thức, bước đi thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lý luận và thực tiễn là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là nội dung có tính
thời sự cấp thiết đối với cách mạng nước ta trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hố, ngoại giao,..Tác phẩm này đã khái quát về thực trạng vấn đề nền kinh tế quá
độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế; cả vấn đề phát triển kinh tế gắn liền với
phát triển văn hoá - xã hội.
Trên cơ sở tập hợp được các nguồn tài liệu nghiên cứu của các tác giả về
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt nam hiện nay, chúng tơi muốn góp phần nghiên cứu thêm vấn đề nhận thức
của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trong giai
đoạn hội nhập hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1.

Mục đích


7


Cơng trình nghiên cứu của chúng tơi phân tích làm rõ nhận thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, chúng tôi
cũng bàn về thực trạng và giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản
Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế hiện nay.
3.2.

Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Một là: Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh.
- Hai là : Làm rõ q trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Ba là: Phân tích thực trạng cơ bản và những phương hướng, giải pháp của
Đảng ta để xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1.

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Nhận thức của Đảng Cộng sản

Việt Nam về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu

thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1975
đến nay (Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1.

Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý cơ bản

của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời kỳ quá độ và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội giai đoạn hiện nay.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của

đề tài, tác giả đã vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin làm


8

cơ sở nghiên cứu. Đồng thời sử dụng các phương pháp lịch sử - logic,
phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp hệ thống,…để tiến hành
nghiên cứu.
Luận văn có kế thừa tư tưởng các cơng trình khoa học, những bài viết của
các tác giả khác đã được công bố ở nước ta.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
6.1.

Về mặt lý luận: Đề tài đóng góp những vấn đề lý luận nhận thức của

Đảng về thời kỳ quá độ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6.2.


Về mặt thực tiễn: Đề tài tìm hiểu về thực trạng và đưa ra một số giải

pháp cho thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay. Từ đó có thể nhận thức sâu
sắc hơn về con đường đi lên xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay ở
nước ta.
Luận văn này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu về đường
lối, nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cho những ai
quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được trình bày trong 2 chương, 5 tiết


9

Chương 1: NHẬN THỨC VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
1.1.

KHÁI NIỆM VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ THEO QUAN NIỆM CỦA

C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VÀ V.I.LÊNIN
1.1.1. Quan niệm về thời kỳ quá độ theo C.Mác, Ph.Ăngghen
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
đạt được những bước tiến khổng lồ trên lĩnh vực kinh tế, chưa đầy 100 năm mà
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tổng sản lượng sản phẩm hơn gấp hai lần các giai đoạn
trước đó. Chủ nghĩa tư bản đặc biệt phát triển trên lĩnh vực kinh tế, cụ thể là cải
tiến công lao động, hệ thống máy móc, cơ khí ra đời chuẩn bị cho một đại cơng
nghiệp phát triển. Điều đó cho thấy một nền cơng nghiệp lớn đang phát triển một
cách mạnh mẽ. Về lực lượng lao động xã hội thì tăng cả về số lượng lẫn chất

lượng. Chủ nghĩa tư bản giai đoạn này đang có những bước tiến quan trọng. Nước
Anh vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Từ năm 1830, tốc độ phát
triển công nghiệp ngày càng tăng, việc sử dụng máy móc vào sản xuất ngày càng
nhiều. Ngành luyện kim và cơ khí phát triển rất nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu trang
bị kĩ thuật toàn bộ nền công nghiệp. Đồng thời đường sắt tăng lên nhanh chóng:
năm 1830 đường xe lửa đầu tiên nối liền Mantretxơ và Livơpun khánh thành. Đến
năm 1850, nước Anh đã có tới 10 ngàn km đường xe lửa,….Nước Pháp có số
lượng máy hơi nước được sử dụng tăng lên nhanh chóng: năm 1820 - 65 cái, năm
1830 - 616 cái, năm 1848 - 4853 cái. Sản lượng các ngành công nghiệp nặng cũng
tiến bộ rõ rệt: than năm 1832 là 225 nghìn tấn; sắt và thép năm 1832 là 148 nghìn
tấn và đến năm 1846 lên 373 nghìn tấn. Việc xây dựng đường sắt đẩy mạnh: từ
năm 1831-1841 dài 38 - 573 km, đến năm 1845 - 1847 dài 880 - 1832 km….Ở
nước Mỹ cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu tiến hành đầu thế kỷ XIX từ ngành
dệt rồi lan sang các ngành luyện kim, công nghiệp nặng và đường sắt. Trong
khoảng 1830 - 1837, lượng gang tăng 51%, than tăng 266%. Trong khoảng 1830 -


10

1850, chiều dài đường sắt tăng từ 23 dặm đến 9000 dặm…Sau cuộc khủng hoảng
chu kỳ đầu tiên 1837 - 1842, công nghiệp Mĩ mới phát triển mạnh mẽ. Việc phát
hiện ra mỏ vàng ở Caliphoonia càng thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp hố ở
đó…, nước Đức cũng đã có một số chuyển biến nhất định tuy cịn chậm chạp so
với các nước trên. Quan hệ tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ nhất ở vùng sông
Ranh và Vétxphalen vì ở đó, nhân dân được giải phóng một phần nào khỏi chế độ
phong kiến và có nhiều nguyên liệu hơn cả Beclin, thủ đơ của Phổ (Đức). Nó trở
thành một trung tâm công thương nghiệp của nước Đức, tập trung 1/3 sản xuất cơ
khí và vải hoa của cả nước.[69,106-108]
Từ đó cho thấy những năm 1815 - 1848, cuộc cách mạng công nghiệp tiếp
tục phát triển trong các nước lớn, đẩy nhanh nền kinh tế chủ nghĩa tư bản phát triển

lên mức cao. Nhưng đồng thời với sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản các
nước phương Tây là sự khổ cực của giai cấp công nhân do sự bóc lột của chủ nghĩa
tư bản. Vốn dĩ trong giai đoạn đầu cuộc cách mạng tư sản, giai cấp công nhân đi
theo giai cấp tư sản để chống phong kiến. Về sau, do hạn chế về mặt ý thức cũng
như trình độ tổ chức của giai cấp cơng nhân, nên giai cấp tư sản thường thâu tóm
và cướp đoạt tất cả những thành quả cách mạng của họ. Sự xuất hiện máy móc
khơng cải thiện được đời sống của những người cơng nhân mà trái lại cịn tạo cơ
hội cho giai cấp tư sản tăng cường bóc lột họ, sa thải thợ ra khỏi xưởng, gây ra nạn
thất nghiệp. Chính sự lầm tưởng máy móc là ngun nhân gây ra thực trạng trên
nên nhiều nơi công nhân tiến hành đấu tranh bằng cách đập phá máy móc. Kết quả
chỉ làm tăng cường sự đàn áp của giai cấp thống trị đối với công nhân. Từ những
kinh nghiệm của nhiều lần thất bại và sự trưởng thành về ý thức cách mạng, phong
trào đấu tranh của công nhân ngày càng được nâng cao. Như cuộc đấu tranh giành
quyền tuyển cử của công nhân Anh những năm 20-30 thế kỷ XIX; cuộc khởi nghĩa
của công nhân dệt ở tỉnh Lyông (Pháp) năm 1831 và năm 1834 do chủ khước từ
u sách địi tăng lương của cơng nhân và đàn áp công nhân. Ở Đức cùng với sự


11

phát triển nền công nghiệp, giai cấp công nhân Đức ngày càng lớn mạnh về số
lượng ý thức giác ngộ cách mạng. Trong lúc đời sống công nhân Đức vô cùng khổ
cực, ngồi sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản, giai cấp cơng nhân Đức cịn gánh cả
ách thống trị phong kiến. Chính vì vậy, cơng nhân đã nhiều lần nổi dậy đấu tranh,
điển hình là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt tỉnh Silêdiên năm 1844 đấu tranh đòi tăng
lương, tuy phong trào đấu tranh thất bại nhưng được sự đồng tình ủng hộ của cơng
nhân các quốc gia Đức, Tiệp và nhiều nơi khác, nó có tác dụng thức tỉnh và phát
huy tinh thần đoàn kết giai cấp công nhân Đức. Như vậy, cùng với sự lớn mạnh
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân bị bóc lột tàn khốc và họ đã
đứng lên đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp mình. Để cuộc đấu tranh của giai cấp

cơng nhân có thể thắng lợi, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân cịn phải
cần có lí luận khoa học để có thể giành thắng lợi thật sự và chính điều kiện đó đã
dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa Mác.[69,118]
Trên lĩnh vực chính trị - xã hội, giai cấp tư sản đã thiết lập được vị trí thống
trị của giai cấp mình trong lúc đại bộ phận nhân dân thuộc tầng lớp sở hữu nhỏ lại
phá sản hoàn toàn, mâu thuẫn tư sản và vô sản ngày càng trở nên gay gắt. Trước
thực tiễn xã hội có nhiều biến động sâu sắc trong hoạt động chính trị xã hội bấy
giờ, đã có những đại biểu tư tưởng đấu tranh vì lợi ích của giai cấp công nhân như
C.Mác, Ph.Ăngghen. Sự kiện Công xã Pari (3/1871), tuy sự tồn tại đó thật ngắn
ngủi nhưng tác động to lớn đến phong trào cách mạng vô sản khắp châu Âu. Là
biểu hiện đầu tiên về chun chính vơ sản nhưng chưa đầy đủ và vững chắc. Chủ
yếu là thiếu một Đảng vô sản lãnh đạo, chưa xây dựng được khối liên minh công
nông và tác động của một số yếu tố khách quan của điều kiện lịch sử.
Một vấn đề đặt ra là cần phải giải phóng giai cấp cơng nhân, nhân dân lao
động khỏi ách áp bức, bóc lột và giải quyết mâu thuẫn trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Cùng với sự nhận thức một cách sâu sắc về vấn đề này, qua sự
nghiên cứu thực tiễn của cách mạng do giai cấp công nhân phát động, C.Mác và


12

Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ
nghĩa và đặt nền móng lý luận về thời kỳ quá độ. Trong Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản (1848), dưới sự phân tích khoa học về những điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của xã hội tư bản đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra tính quy định
tất yếu về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là thủ tiêu chế độ tư hữu, xây
dựng chế độ mới. Để thực hiện được sứ mệnh lịch sử cao cả đó thì trước hết giai
cấp vô sản phải trở thành giai cấp lãnh đạo, giai cấp thống trị để có thể sử dụng
quyền lực chính trị của mình cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới xã hội chủ nghĩa
trên cơ sở tiền đề về quan hệ sản xuất mới, đó chính là thời kỳ quá độ. Xã hội của

thời kỳ quá độ là xã hội vừa “thoát thai” từ xã hội tư bản chủ nghĩa. Do tính chất
ban đầu đó của thời kỳ quá độ nên mọi phương diện về kinh tế, xã hội, đạo đức,
tinh thần…vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ, chưa phát triển trên cơ sở của
chính nó, đó chính là thời kỳ đầu giai đoạn Cộng sản chủ nghĩa. Trong tác phẩm
Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875), C.Mác cũng chỉ rõ: “Giữa xã hội Tư bản chủ
nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà
nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chun chính cách mạng
của giai cấp vơ sản”.[13,47]
Đối với Ph.Ăngghen, thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau,
liên tục và biến đổi không ngừng. Xã hội xã hội chủ nghĩa theo C.Mác và
Ph.Ăngghen chỉ là giai đoạn đầu của xã hội Cộng sản chủ nghĩa - một giai đoạn
của thời kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên cộng sản chủ nghĩa. C.Mác đã nói rằng
một phương thức sản xuất cũng như một chế độ xã hội chưa phát triển đến tận
cùng thì chưa thể mất đi, khi chúng ta phát hiện được quy luật phát triển của nó
cũng khơng thể tuỳ tiện xố bỏ nó mà chỉ có thể rút ngắn sự phát triển của nó mà
thơi, khi mà những điều kiện chủ quan lẫn khách quan cho phép. C.Mác,
Ph.Ăngghen và cả V.I.Lênin về sau khi nói đến các nước kém phát triển có thể “bỏ


13

qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” để q độ lên chủ nghĩa xã hội chính là
nói về sự phát triển rút ngắn. Đó là sự phát triển rút ngắn phương thức phát triển để
đi lên chủ nghĩa xã hội theo quy luật vận động và phát triển của lịch sử.
Như vậy, theo quan điểm C.Mác và Ph.Ăngghen thời kỳ quá độ là thời kỳ
cải biến cách mạng một cách toàn diện và triệt để về kinh tế xã hội, quá độ về
chính trị và thời kỳ quá độ bao gồm nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, liên tục và biến
đổi không ngừng. Quan điểm về thời kỳ quá độ của C.Mác, Ph.Ăngghen là tư
tưởng về sự hiện diện của những dấu vết, những bộ phận của xã hội cũ tư bản chủ

nghĩa trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bên cạnh sự xuất hiện và hình thành
nhân tố mới của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trên lĩnh vực kinh tế, mặc dù lúc này giai cấp tư sản đã bị lật đổ nhưng chế
độ tư hữu thì vẫn cịn tồn tại nên việc cải tạo hay xố bỏ tư hữu là một q trình
cần rất nhiều thời gian. Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong tác phẩm “Những nguyên lý
của chủ nghĩa cộng sản”(1847), rằng “chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách
dần dần, và chỉ khi nào đã tạo ra được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết
cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu”.[11,469]
Trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng về thời kỳ quá độ của C.Mác thể hiện qua
những tác phẩm như: Bản thảo kinh tế triết học (1844); Đấu tranh giai cấp ở Pháp
(1850); Phê phán Cương lĩnh Gô-ta (1875),….C.Mác đã khẳng định thời kỳ quá
độ từ tư bản lên cộng sản chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị và để thực hiện
thành cơng bước q độ đó giai cấp vơ sản phải nắm trong tay chính quyền, cách
mạng khơng ngừng sử dụng nền chun chính cách mạng của giai cấp vô sản để
không chỉ thực hiện cải biến xã hội một cách tồn diện mà cịn phải chun chính
đối với những thế lực thù địch khơng ngừng trổi dậy chống lại chính quyền của
giai cấp vơ sản nhằm khôi phục lại chế độ tư bản chủ nghĩa. Như vậy, giai cấp vô
sản chỉ bằng cách tiếp tục trấn áp bằng bạo lực, thống trị bằng quyền chuyên chính
vơ sản, thực hiện bước q độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Theo


14

C.Mác, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến xã hội tư bản từng bước hình thành xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Khi nắm chính quyền, giai cấp vơ sản sử dụng chế độ dân
chủ thực hiện việc cải biến kinh tế xã hội, trước hết là thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất và hình thành quan hệ sản xuất mới cộng sản chủ nghĩa, củng cố vai trị
lãnh đạo giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết hình thái kinh tế xã hội và
khẳng định thời kỳ quá độ từ tư bản lên cộng sản chủ nghĩa tất yếu phải trải qua hai

giai đoạn là xã hội tư bản lên xã hội chủ nghĩa và sau khi xây dựng xã hội chủ
nghĩa thành cơng thì tiến lên cộng sản chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăngghen khơng chỉ
nói đến tính tất yếu của sự xuất hiện và phát triển chủ nghĩa xã hội ở các nước tư
bản chủ nghĩa tiên tiến ở châu Âu mà còn bàn tới khả năng tiến lên chủ nghĩa xã
hội ở các nước lạc hậu, chậm phát triển hay còn những kết cấu kinh tế kiểu công xã
nông thôn. C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục nhấn mạnh quan điểm đó trong lời tựa
xuất bản cuốn Tun ngơn của Đảng cộng sản (1848): “Bây giờ thử hỏi công xã
nơng thơn Nga, cái hình thức phân giải ấy của chế độ tư hữu ruộng đất nguyên
thuỷ, có thể chuyển thẳng lên hình thức cao, chủ nghĩa cộng sản về sở hữu ruộng
đất khơng, hay là trước hết, nó cũng trải qua q trình tan rã như nó đã trải qua
trong tiến trình phát triển lịch sử ở phương Tây?”[17,434]. Hai ông dự báo con
đường phát triển xã hội chủ nghĩa đặc thù ở nước Nga đã đi tới tính phổ biến, lựa
chọn con đường xã hội chủ nghĩa đối với tất cả các nước đang ở trình độ phát triển
tiền tư bản chủ nghĩa.
Ph.Ăngghen nhìn nhận cái mà người ta gọi là “xã hội xã hội chủ nghĩa”
không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội
khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên. Sự khác
nhau chủ chốt với chế độ xã hội hiện tại, dĩ nhiên là ở việc tổ chức sản xuất trên cơ
sở sở hữu chung trước hết của quốc dân vê tồn bộ tư liệu sản xuất. Đó chính là


15

luận điểm về một thời kỳ cải biến cần có để có thể thực hiện xây dựng thành cơng
chế độ xã hội mới phù hợp với hiện thực.
Như vậy, C.Mác đã đưa ra một quan niệm về thời kỳ quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội Cộng sản chủ nghĩa là
một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời
kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là
cái gì khác hơn là chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản”[13,47] (Chúng

tôi nhấn mạnh). Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội qua phác thảo
của C.Mác, Ph.Ăngghen là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp, là một nấc thang của hình
thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Mặt khác, các ông cũng cho rằng đây khơng
phải là một xã hội hồn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi xã hội khác, nó cần
được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên. Qua phân tích quy luật
vận động xã hội C.Mác, Ph.Ăngghen đã phát hiện xu hướng phát triển tất yếu của
xã hội loài người và chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa xã hội, lẽ
dĩ nhiên sự thay thế đó buộc phải trải qua một thời kỳ quá độ.
1.1.2. Quan niệm về thời kỳ quá độ theo V.I.Lênin
Cùng với cách nhìn biện chứng của C.Mác và Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ
từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản chủ nghĩa, V.I.Lênin cũng đã tiếp tục kế thừa
sự nghiệp cách mạng và phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen về thời kỳ
quá độ. V.I.Lênin nhận thức vô cùng sâu sắc vấn đề này. Ơng chỉ ra: “Về lý luận,
khơng thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản,
có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm những
đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy
không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản
đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác,
giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa


16

cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”[104,309] (Chúng tôi nhấn
mạnh).
Theo V.I.Lênin, thời kỳ quá độ bắt đầu từ khi giai cấp vơ sản giành chính
quyền và kết thúc khi xây dựng xong về cơ bản nền tảng cơ sở vật chất khoa học
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ
sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng. Trong thời kỳ quá độ ấy lại chia ra thành
nhiều bước quá độ nhỏ, và tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia, dân

tộc. Chính vì thế mà những nước càng có trình độ phát triển kinh tế lạc hậu, chậm
phát triển lại càng kéo dài thời kỳ “đau đẻ” hơn nữa. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một tất yếu khách quan đối với các nước lựa chọn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội trong khi phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa chưa đủ để hình
thành và phát triển một cách hoàn thiện. Do đặc điểm cụ thể ở từng nước khác
nhau nên dẫn đến cách thức thực hiện con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa cũng
khác nhau. Đối với các nước đã tồn tại giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nhưng
đó vẫn chưa phải là cơ sở vật chất của xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy những nước
này thực hiện giai đoạn quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên xã hội chủ nghĩa, theo tuần
tự phát triển đi lên của lịch sử các hình thái kinh tế xã hội. Trong khi đó, đối với
các nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển, chưa trải qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa thì theo quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nước này cũng
có khả năng quá độ, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa nếu như đạt đến một trình độ phát triển nhất định về kinh tế - xã hội
và khoa học kỹ thuật. Tuy nhiên, theo V.I.Lênin thì với hình thức nhảy vọt này của
lịch sử thì cần có đủ điều kiện chủ quan và khách quan trong quá trình tiến hành
thời kỳ quá độ.
V.I.Lênin nhìn nhận rằng người ta khơng thể “du nhập” chủ nghĩa xã hội
được, rằng nó xuất hiện trong quá trình đấu tranh giai cấp mãnh liệt nhất, gay go
nhất, tàn khốc nhất, dữ dội nhất và trong quá trình cuộc nội chiến rằng giữa chủ


17

nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội có một thời kỳ “sinh đẻ đau đớn” lâu dài; rằng
bạo lực bao giờ cũng là bà đỡ của xã hội cũ; rằng thích ứng với thời kỳ quá độ từ
xã hội tư sản sang xã hội xã hội xã hội chủ nghĩa, là một nhà nước đặc biệt (tức là
một chế độ đặc biệt của hình thức bạo lực có tổ chức để chống lại một giai cấp
nhất định) tức là chun chính vơ sản. Nói về thời kỳ q độ, V.I.Lênin phân tích:
“Chúng ta khơng hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đó đã xong xi hẳn và

bất khả xâm phạm; Trái lại, lý luận đó chỉ đặt nền móng cho mơn khoa học mà
những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không
muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”.[96,232]
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thì lại ở trong một hoàn cảnh khác hẳn. Một
nước càng lạc hậu mà lại phải do những bước ngoắt ngoéo của lịch sử bắt đầu làm
cách mạng xã hội chủ nghĩa, thì nước đó càng gặp khó khăn trong việc chuyển từ
những quan hệ cũ, tư bản chủ nghĩa, sang những quan hệ xã hội chủ nghĩa.
Có thể nhận thấy V.I.Lênin quan niệm về thời kỳ quá độ trên cơ sở kế thừa
và phát triển chủ nghĩa C.Mác thông qua các tác phẩm như: Nhà nước và cách
mạng (1974); Kinh tế và chính trị trong thời đại chun chính vơ sản (1999);….đã
luận chứng cụ thể và sâu sắc về việc phân kỳ hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa bao gồm hai giai đoạn, giai đoạn thấp - xã hội chủ nghĩa và giai đoạn cao cộng sản chủ nghĩa và để tiến lên chủ nghĩa xã hội nhất thiết phải trải qua một thời
kỳ quá độ để tạo ra những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng...
một cách đầy đủ. V.I.Lênin cũng đặc biệt quan tâm vấn đề tiến lên chủ nghĩa xã
hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong thời điểm cách mạng
vơ sản Nga gặp khó khăn (1916), V.I.Lênin đã nói đến khả năng các nước chậm
phát triển có thể đi lên chủ nghĩa xã hội và sau khi cách mạng Tháng Mười Nga
thắng lợi, giai cấp cơng nhân Nga giành được chính quyền, nước Nga Xơ-viết ra
đời thì luận điểm đó của ơng lại càng có thêm cơ sở thực tiễn.


18

Thời kỳ quá độ, theo V.I.Lênin, thứ nhất, đó là thời kỳ xét về mọi mặt của
đời sống xã hội cịn có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau của chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa xã hội; Thứ hai, đó là thời kỳ sự phát triển của trật tự xã hội cũ đôi khi
lấn át những mầm mống của xã hội mới; Thứ ba, về mọi phương diện đều có tính
tự phát của tiểu tư sản, mang những mâu thuẫn khơng thể dung hồ giữa tính kỷ
luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản với tầng lớp tiểu tư sản; Thư tư, thời kỳ quá
độ là thời kỳ lâu dài, nhiều khó khăn phức tạp, trải qua nhiều lần thử nghiệm mới

có thể rút được kinh nghiệm, hướng đi đúng đắn mà đôi khi phạm phải những sai
lầm. V.I.Lênin cho rằng cần có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội cùng với những tiền đề về kinh tế, văn hoá, xã hội phù hợp
với mỗi quốc gia, dân tộc. Đối với các quốc gia có điểm xuất phát bước vào thời
kỳ quá độ là tư bản chủ nghĩa cũng đã cần thời kỳ quá độ khá lâu dài thì đối với
các nước có điểm xuất phát tiền tư bản lại càng cần có thời kỳ quá độ gấp nhiều lần
hơn. Ngun nhân thứ nhất chính vì chủ nghĩa xã hội ra đời trên cơ sở sự phát
triển cao của tư bản chủ nghĩa và thứ hai nữa là cũng trên tiền đề xuất phát điểm
thấp hơn chủ nghĩa tư bản khi nó hội đủ những tiền đề và cơ hội chín mùi.
V.I.Lênin hồn tồn nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc về thời kỳ quá
độ, nó được phân biệt ở hai hình thức quá độ trực tiếp hoặc gián tiếp. Ơng nói:
“Khơng thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản,
có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm những đặc
điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy…”.[104,309]
Quan điểm về thời kỳ quá độ chính là thời kỳ cải biến cách mạng lâu dài,
khó khăn và phức tạp. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nêu rõ mục đích trước mắt của người cộng sản và các Đảng vô sản
là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản
và giành lấy chính quyền, củng cố chính quyền đó và như thế giai cấp cơng nhân
và nhân dân lao động mới có thể tiến hành sự nghiệp cách mạng rộng lớn và căn


19

bản là cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. C.Mác cũng
đã quan niệm về thời kỳ quá độ từ tư bản lên chủ nghĩa xã hội “Giữa xã hội tư bản
chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã
hội nọ sang xã hội kia…”.[13,47]. Đó là thời kỳ quá độ cả về chính trị và kinh tế
“Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã
phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ

nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi
phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ
mà nó đã lọt lịng ra”.[13,33]
Sau khi lãnh đạo thắng lợi Cách mạng Tháng Mười 1917, V.I.Lênin đã bắt
tay vào việc lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nước mình nhằm đưa
đất nước Nga quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn (1917 - 1924) nhà
nước xã hội chủ nghĩa Xô-viết đã phải trải qua những cuộc nội chiến và chống
chiến tranh can thiệp của chủ nghĩa đế quốc, thi hành chính sách cộng sản thời
chiến. Tiếc rằng, V.I.Lênin đã qua đời không bao lâu sau khi Người khởi xướng
chính sách kinh tế mới. Người đã để lại những di sản quý báu về lý luận thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chính tác phẩm Về bệnh ấu trĩ “tả khuynh” và tính
tiểu tư sản mà V.I.Lênin viết vào tháng 5 năm 1918 và tác phẩm “Bàn về thuế
lương thực”(1921) đã trang bị cho các Đảng Cộng sản những nhận thức đúng đắn
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Khái quát từ những luận
điểm mang tính chiến lược đó của V.I.Lênin đã vạch rõ những đặc trưng rất cơ bản
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ông quan tâm đặc biệt đến vấn đề kinh tế,
xác định “tính chất quá độ của nến kinh tế” một cách sâu sắc. Các thành phần kinh
tế cơ bản của thời kỳ quá độ từ tư bản lên chủ nghĩa xã hội gồm: kinh tế nông dân
kiểu gia trưởng; sản xuất hàng hoá nhỏ; chủ nghĩa tư bản tư nhân; chủ nghĩa tư bản
nhà nước; và chủ nghĩa xã hội. Các thành phần kinh tế này tồn tại xen kẽ nhau.
Quả thật, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất nhiên cần xây dựng một


×