Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Gián án Lịch sử việt nam nhà hậu Lê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.15 KB, 18 trang )

Nhà Hậu Lê hoặc Hậu Lê triều (Hán-Nôm: 家家家家家家家, 1418 – 1527, 1533 – 1789) là một triều đại
phong kiến trong lịch sử Việt Nam, được thành lập sau khi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi) lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh.
Nhà Hậu Lê gồm hai giai đoạn: Lê sơ (1428-1527) và Lê trung hưng (1533-1789).
Mục lục
[ẩn]
• 1 Thời Lê sơ (1428-1527)
o 1.1 Xây dựng đất nước
 1.1.1 Bộ máy hành chính
 1.1.2 Kinh tế
 1.1.2.1 Nông nghiệp
 1.1.2.2 Thủ công nghiệp
 1.1.2.3 Thương mại
 1.1.3 Giáo dục
 1.1.4 Luật pháp
 1.1.5 Xã hội
 1.1.6 Văn học, khoa học, nghệ thuật
 1.1.7 Tổ chức quân đội
o 1.2 Mở rộng lãnh thổ
 1.2.1 Đánh Chiêm Thành
 1.2.2 Đánh Bồn Man
 1.2.3 Đánh Lão Qua
 1.2.4 Biên giới phía tây
o 1.3 Ngoại giao
 1.3.1 Với Trung Quốc
 1.3.2 Với các nước Đông Nam Á
o 1.4 Biến loạn cung đình
 1.4.1 Quận Ai vương
 1.4.2 Nguyễn Thị Anh
 1.4.3 Lê Nghi Dân
 1.4.4 Nguyễn Thị Hằng


o 1.5 Nhà Lê sơ sụp đổ
 1.5.1 Vua quỷ, vua lợn
 1.5.2 Trần Cảo
 1.5.3 Mạc Đăng Dung
• 2 Thời Lê Trung Hưng (1533-1789)
o 2.1 Nhà Lê trong chiến tranh Lê-Mạc
 2.1.1 Con vua Chiêu Tông
 2.1.2 Dòng dõi Lê Trừ
o 2.2 Khoanh tay rủ áo
o 2.3 Nhà Lê kết thúc
• 3 Nhận định
o 3.1 Công lao, thành tựu
o 3.2 Chính thống, ngụy triều
• 4 Các vua nhà Hậu Lê
o 4.1 Nhà Lê sơ
o 4.2 Nhà Lê Trung hưng
• 5 Chú thích
• 6 Xem thêm
• 7 Tham khảo
• 8 Liên kết ngoài
[sửa] Thời Lê sơ (1428-1527)
Thời Lê sơ kéo dài đúng 100 năm, có 10 vua thuộc 6 thế hệ.
[sửa] Xây dựng đất nước
Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng lại đất nước sau thời bị nhà Minh đô hộ. Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ
nhanh chóng bắt tay vào xây dựng đất nước bị tàn phá qua nhiều năm chiến tranh.
Sang thời Lê Thánh Tông, vua tiến hành một loạt cải cách đưa Đại Việt bước vào thời kỳ phát triển thịnh trị
được coi là hoàng kim của chế độ phong kiến Việt Nam. (xem chi tiết bài Lê Thánh Tông)
[sửa] Bộ máy hành chính
Bài chi tiết: Hành chính Đại Việt thời Lê sơ và Xã trưởng thời Hậu Lê
Lê Thái Tổ chia nước ra làm 5 đạo, đạo mới đặt gọi là Hải Tây đạo, gồm cả Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình

và Thuận Hóa. Trong các đạo, đạo nào cũng có quan Hành khiển để giữ sổ sách về việc quân-dân.
Dưới đạo là phủ huyện (miền núi gọi là châu), xã, thôn. Đến thời vua Lê Thánh Tông đổi chia làm 5 đạo
thành 13 đạo thừa tuyên thay chức An phủ sứ đứng đầu ở mỗi đạo bằng 3 ti phụ trách ba mặt hoạt động khác
nhau ở mỗi đạo thừa tuyên. Dưới đạo thừa tuyên có phủ, châu, huyện, xã, thôn.
Bộ máy chính quyền phong kiến được hoàn thiện dần và đến thời vua Lê Thánh Tông thì được các nhà
nghiên cứu đánh giá là hoàn chỉnh nhất. Đứng đầu triều đình là vua. Để tập trung quyền lực vào nhà vua Lê
Thánh Tông bãi bỏ một số chức vụ cao cấp nhất như tướng quốc đại tổng quản đại hành khiển. Vua trực tiếp
nắm mọi quyền hành kể cả chức tổng chỉ huy quân đội. Giúp việc cho vua có các quan đại thần.
Nhà nước phong kiến tập quyền qua các đời từ nhà Trần chỉ có 4 bộ: Hình, Lại, Binh, Hộ. Đời vua Lê Thái
Tổ chỉ có 3 bộ: Lại, Lễ, Dân (tức Hộ Bộ). Lê Thánh Tông tổ chức thành sáu bộ:
• Lại Bộ: Trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và thăng quan tước;
• Lễ Bộ: Trông coi việc đặt và tiến hành các nghi lễ, tiệc yến, học hành thi cử, đúc ấn tín, cắt giữ người
coi giữ đình, chùa, miếu mạo;
• Hộ Bộ: Trông coi công việc ruộng đất, tài chính, hộ khẩu, tô thuế kho tàng, thóc tiền và lương, bổng
của quan, binh;
• Binh Bộ: Trông coi việc binh chính, đặt quan trấn thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn các nơi
hiểm yếu và ứng phó các việc khẩn cấp;
• Hình Bộ: Trông coi việc thi hành luật, lệnh, hành pháp, xét lại các việc tù, đày, kiện cáo;
• Công Bộ: Trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu đường, cung điện thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Dưới thời Lê Thánh Tông, các quan chỉ được làm việc tối đa đến tuổi 65 và ông bãi bỏ luật cha truyền con
nối cho các gia đình có công - công thần. Ông tôn trọng việc chọn quan phải là người có tài và đức.
Ngay sau khi giành được quyền lực, thành lập nhà Lê, trừ một số ít người như Nguyễn Trãi, Nguyễn Chích,
Nguyễn Xí, Lương Thế Vinh, Đinh Liệt... phần lớn các quan lại (nhất là các công thần) đều có biểu hiện
tham ô. Năm 1438, thấy thiên tai xuất hiện liên tục, Lê Thái Tông phải hạ chiếu tự trách và tự hỏi: "Phải vì
hối lộ công hành mà trời phạt chăng?". Lê Thánh Tông thì than:"Trên thì Tể tướng, dưới thì bách quan, hùa
nhau kiếm lợi, hối lộ công hành". Công thần bậc nhất như Thái phó Lê Văn Linh làm nguyên lão 3 triều,
chuyên nghề vơ vét dân chúng tới nỗi các đồng liêu cũng phải kêu, Tổng quản Lê Thụ bắt dân về xây nhà
riêng cho mình, tham nhũng rất nhiều nhưng khi bị đưa ra pháp trường thì được tha vì là công thần. Con Lê
Thụ là Lê Quát cũng ỷ lấy được công chúa, bắt cấp dưới phải nộp trâu, dê. Các quan dưới lại bắt dân phải
nộp những thứ này cho họ

[1]
.
[sửa] Kinh tế
Bài chi tiết: Thương mại Đại Việt thời Lê Sơ, Nông nghiệp Đại Việt thời Lê Sơ, và Thủ công nghiệp
Đại Việt thời Lê Sơ
Đĩa gốm men lam trang trí rồng thế kỷ 15
Lê Thánh Tông còn quan tâm các chính sách nhằm phát triển kinh tế như, sửa đổi luật thuế khóa, điền địa,
khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của
Lê Thánh Tông cũng phát triển khá mạnh.
[sửa] Nông nghiệp
Hai mươi năm dưới ách thống trị của phong kiến nhà Minh, đời sống nhân dân Đại Việt rất cực khổ
[2]
. Để
nhanh chóng phục hồi và phát triển nông nghiệp vua Lê Thái Tổ cho 25 vạn lính (trong tổng số 35 vạn) về
quê làm ruộng ngay sau chiến tranh. Còn lại 10 vạn người được chia làm 5 phiên thay nhau về quê sản xuất.
Nhà Lê kêu gọi dân phiêu tán về quê làm ruộng, đặt ra một số chức quan chuyên lo về nông nghiệp như
Khuyến nông sứ, Hà đê sứ, Đồn điền sứ và định lại chính sách chia ruộng đất công làng xã gọi là phép quân
điền; cấm giết trâu bò bừa bãi cấm điều động dân phu trong mùa cấy gặt.
Nhà Lê còn đẩy mạnh việc lập đồn điền và khẩn hoang nhằm khai thác những vùng đất mới. Nhờ những
chính sách tích cực, nông nghiệp đã đảm bảo tương đối đời sống nhân dân trong nước. Tuy nhiên, ngay ở đời
Lê Thánh Tông là thời kỳ xã hội phong kiến được coi là thái bình thịnh trị nhất mà sử sách vẫn ghi nhận
những thời điểm xảy ra đói kém
[3]
.
[sửa] Thủ công nghiệp
Nhờ sự quan tâm đến việc phát triển thương nghiệp nên nền nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Các nghề
thủ công như: Dệt lụa, ươm tơ, dệt vải, nghề mộc, nghề chạm, nghề đúc đồng cũng phát triển. Kinh đô Thăng
Long 36 phố phường sầm uất, nhộn nhịp tồn tại phát triển đến tận ngày nay. Phường Yên Thái làm giấy,
phường Nghi Tàm dệt vải lụa, phường Hà Tân nung vôi, phường Hàng Đào nhuộm điều, phường Ngũ Xá
đúc đồng, phường gạch và gốm sứ Bát Tràng và nhiều phường khác.

Các ngành nghề thủ công truyền thống như ở các làng xã như kéo tơ, dệt lụa, đan lát, làm nón, đúc đồng, rèn
sắt, làm đồ gốm v.v... ngày càng phát triển. Nhiều làng thủ công chuyên nghiệp nổi tiếng ra đời. Thăng Long
là nơi tập trung nhiều ngành nghề thủ công nhất.
Các công xưởng do nhà nước quản lí gọi là Cục Bách tác sản xuất đồ dùng cho nhà vua, vũ khí, đóng thuyền,
đúc tiền đồng...; các nghề khai mỏ đồng, sắt, vàng được đẩy mạnh.
[sửa] Thương mại
Nhà vua khuyến khích lập chợ mới họp chợ ban hành những điều luật cụ thể quy định việc thành lập chợ và
họp chợ.
Việc buôn bán với nước ngoài được duy trì. Thuyền bè các nước láng giềng qua lại buôn bán ở một số cửa
khẩu như Vân Đồn, Vạn Ninh (Quảng Ninh), Hội Thống (Hà Tĩnh) và một số địa điểm ở Lạng Sơn, Tuyên
Quan được kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm sành sứ, vải lụa, lâm sảm quý là những thứ hàng được thương
nhân nước ngoài ưa chuộng.
Tuy nhiên, cùng với thủ công nghiệp, thương mại vẫn bị nhà nước ức chế. Thời nhà Lê chính quyền dùng
chính sách bế quan tỏa cảng. Nhà Lê hạn chế ngoại thương hơn cả nhà Lý, nhà Trần. Các tàu ngoại quốc tới
buôn bán đều phải đậu ở Vân Đồn. Dân buôn muốn đi buôn bán thì phải có giấy phép, về cũng phải có giấy
phép. Quan lại vô cớ tới Vân Đồn, dân chúng tự tiện đón tàu vào buôn bán cũng đều bị xử tội
[4]
.
[sửa] Giáo dục
Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử thời Lê Sơ
Ngay sau khi lên ngôi vua Lê Thái Tổ cho dựng lại Quốc Tử Giám ở kinh thành Thăng Long mở trường học
các lộ mở khoa thi và cho phép người nào có học đều được dự thi. Đa số dân đều có thể đi học đi thi trừ
những kẻ phạm tội và làm nghề ca hát.
Ở các đạo phủ có trường công. Nhà nước tuyển chọn người giỏi có đạo đức để làm thầy giáo. Nội dung học
tập thi cử là sách của nhà Nho. Thời Lê sơ (1428-1527) tổ chức được 26 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 989 tiến sĩ 20
trạng nguyên. Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) tổ chức được 12 khoa thi tiến sĩ lấy đỗ 501 tiến sĩ
9 trạng nguyên.
Học chế thời Lê mở rộng hơn các thời trước, không cấm con em nhà thường dân đi học như thời nhà Lý, nhà
Trần. Tài liệu học tập thì gồm mấy bộ Tứ Thư, Ngũ Kinh tinh tuý, Bắc sử (Sử Trung Quốc). Phương pháp
giáo dục chỉ có 2 nguyên tắc chủ chốt là trừng phạt bằng roi vọt và học thuộc lòng. Ngoài ra còn nguyên tắc

lặp lại tư tưởng cổ nhân và biểu diễn bằng những câu sáo rỗng
[5]
.
Lê Thánh Tông khởi xướng và cho lập bia tiến sĩ lần đầu tiên ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám vào năm 1484,
các đời vua sau này tiếp tục bổ sung thêm các tấm bia vinh danh mới. Cùng với việc xây dựng thiết chế mới,
Lê Thánh Tông đẩy mạnh phát triển giáo dục, đào tạo nhân tài. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, nhà Thái
học, Quốc Tử Giám là những cơ quan văn hóa, giáo dục lớn, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa
sách, đặc biệt đã sáng lập Hội Tao Đàn bao gồm những nhà văn hóa có tiếng đương thời mà Lê Thánh Tông
là Tao Đàn chủ soái. Việc thi cử và học tập thường xuyên và rất nhiều tiến sĩ và trạng nguyên đỗ đạt và thành
danh.
Thời Lê sơ, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn; Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế. Phật giáo bị đẩy lui xuống sinh
hoạt ở các làng xã, trong khi đó Nho giáo lại được coi trọng và lên ngôi, đặc biệt là khu vực triều đình và giới
nho học. Đó là đặc điểm chính của thời kỳ này. Mặt khác do trước đó chịu sự tận diệt của nhà Minh nên
nhiều chùa chiền, cung điện và các phật tử phát triển rực rỡ ở các triều đại nhà Lý, nhà Trần đã bị xóa bỏ.
Hệ thống Nho giáo này do phong kiến nhà Lê bắt chước theo nhà Minh của Trung Quốc. Người học tuyệt đối
không ai được phát huy ý kiến riêng của mình, cấm chỉ tự do tư tưởng. Nhà nghiên cứu Đào Duy Anh cho
rằng kiểu người điển hình do phương pháp giáo dục này đào tạo là người hủ nho hoàn toàn trung thành với
chế độ quân chủ nhà Lê
[6]
.
[sửa] Luật pháp
Bài chi tiết: Luật Hồng Đức
Về luật pháp, Bộ Quốc triều hình luật của nhà Hậu Lê đã được hoàn thiện trong thời Lê Thánh Tông, nên còn
được gọi là Luật Hồng Đức. Với bộ luật này, Đại Việt đã hình thành một nhà nước pháp quyền sơ khởi và
thuộc loại sớm trên thế giới. Lê Thánh Tông đã lấy những quan điểm của nho giáo làm hệ tư tưởng, chỉ đạo
việc biên soạn, ban hành luật pháp, nhằm thể chế hoá một nhà nước phong kiến Đại Việt, với truyền thống
nhân nghĩa, lấy dân làm gốc.
Nội dung chính của bộ luật là bảo vệ quyền lợi của vua hoàng tộc; bảo vệ quyền lợi của quan lại và giai cấp
thống trị địa chủ phong kiến. Đặc biệt bộ luật có những điều luật bảo vệ chủ quyền quốc gia, khuyến khích
phát triển kinh tế, gìn giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ một số quyền lợi của phụ nữ

[7]
.
[sửa] Xã hội
Trong xã hội, giai cấp nông dân chiếm tuyệt đại đa số dân cư sống chủ yếu ở nông thôn. Họ có rất ít hoặc
không có ruộng đất phải cày ruộng đất công nộp tô thuế đi phục dịch cho nhà nước (đi lính đi phu...) hoặc
phải cày cấy ruộng thuê của địa chủ quan lại và phải nộp một phần hoa lợi (gọi là tô) cho chủ ruộng.
Nông dân là giai cấp bị bóc lột nghèo khổ trong xã hội. Tầng lớp thương nhân thợ thủ công ngày càng đông
hơn họ phải nộp thuế cho nhà nước và không được xã hội phong kiến coi trọng.
Nô tì là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội bao gồm cả người Việt người Hoa dân tộc ít người. Pháp luật
nhà Lê hạn chế nghiêm ngặt việc bàn mình làm nô hoặc bức dân tự do làm nô tì. Nhờ vậy số lượng nô tì giảm
dần
[8]
Nhờ chính sách khuyến nông, cuộc sống của nhân dân được ổn định dân số ngày càng tăng. Nhiều làng mới
được thành lập. Các nhà nghiên cứu Việt Nam tự nhận Đại Việt đã trở thành một quốc gia có uy thế trong
khu vực Đông Nam Á
[9]
..
[sửa] Văn học, khoa học, nghệ thuật
Bài chi tiết: Khoa học kỹ thuật Đại Việt thời Lê Sơ và Nghệ thuật Đại Việt thời Lê Sơ
• Văn học chữ Hán tiếp tục chiếm ưu thế có hàng loạt tập văn thơ nổi tiếng. Văn học chữ Nôm giữ một
vị trí quan trọng. Văn thơ chữ Hán có những tác phẩm nổi tiếng như: Quân trung từ mệnh tập, Bình
Ngô đại cáo, Quỳnh uyển cửu ca... Văn thơ chữ Nôm có Quốc âm thi tập, Hồng Đức quốc âm thi tập,
Thập giới cô hồn quốc ngữ văn v.v...
Văn học thời Lê Sơ có nội dung yêu nước sâu sắc thể hiện niềm tự hào dân tộc khí phách anh hùng và tinh
thần bất khuất của dân tộc
[10]
. Ngoài ra văn học thời Lê Sơ xuất hiện 1 bộ phận tác giả chuyên sử dụng văn
học làm công cụ chỉ để ca ngợi nhà vua. Phần lớn các tác phẩm loại này được viết với lời lẽ rất trau chuốt, ý
tứ cẩu kỳ và tình cảm giả tạo
[11]

.
• Sử học có tác phẩm: Đại Việt sử kí (10 quyển) của Phan Phu Tiên, Đại Việt sử kí toàn thư (15 quyển)
của Ngô Sĩ Liên, Lam Sơn thực lục của Nguyễn Trãi, Đại Việt thông giám của Vũ Quỳnh, Việt giám
thông khảo tổng luận của Lê Tung, Hoàng triều quan chế...
• Địa lí học có sách Hồng Đức bản đồ Dư địa chí An Nam hình thăng dồ, Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
• Y học có công trình Bản thảo thực vật toát yếu của Phan Phu Tiên và Bảo anh lương phương của
Nguyễn Trực
• Toán học có các tác phẩm Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh, Lập thành toán pháp của Vũ
Hữu.
• Ngoài ra thời Lê Sơ cũng cho biên soạn Điển lệ là loại sách tổng hợp thành tựu của nhiều nghành. Bộ
Thiên Nam dư hạ tập gồm 100 quyển của Lê Thánh Tông cũng là 1 ví dụ cụ thể.
• Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc, chèo, tuồng được phục hồi nhanh chóng và phát triển nhất là
chèo, tuồng. Âm nhạc cung đình được hình thành từ thời Lê Thái Tông.
• Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc thời Lê Sơ biểu hiện rõ rệt và đặc sắc ở các công trình lăng tẩm
cung điện tại Lam Kinh (Thanh Hóa).
Hiện nay còn lại một số dấu vết của Lam Kinh ở Thanh Hóa như nền cột bậc thềm một số con vật bằng đá.
Cung điện Lam kinh xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314 mét rộng 254 mét, có tường thành bao
bọc dày 1m. Trong các bia đá, nổi tiếng nhất là bia Vĩnh Lăng (viết về vua Lê Thái Tổ).
[sửa] Tổ chức quân đội
Bài chi tiết: Quân đội nhà Lê Sơ
Vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ đầu tiên là chỉnh đốn lại quân đội, đôn đốc và thực hiện các bước để tăng
cường các khả năng chiến đấu của các vệ quân năm đạo. Việc canh phòng và cảnh giác về vấn đề biên cương
rất chặt chẽ và cẩn thận nên triều đình nhà Minh rất tôn trọng và có phần e ngại. Lê Thánh Tông cải tổ quân
đội mạnh mẽ về mặt tổ chức, trước đó quân đội chia làm 5 đạo vệ quân, nay đổi làm 5 phủ đô đốc. Mỗi phủ
có vệ, sở. Bên cạnh còn có 2 đạo nội, ngoại, gồm nhiều ti, vệ.
Ngoài tổ chức quân thường trực, Lê Thánh Tông còn chú ý lực lượng quân dự bị ở các địa phương gọi là chế
độ "ngụ binh ư nông": khi đất nước có giặc ngoại xâm thì tất cả quân lính đều tại ngũ chiến đấu cùng toàn
dân; khi hoà bình thì thay phiên nhau về làm ruộng. 43 điều quân chính là luật quân đội Lê Thánh Tông ban
hành cho thấy kỷ luật quân đội của ông rất nghiêm ngặt, có sức chiến đấu cao.
Quân đội có hai bộ phận chính: quân ở triều đình và quân ở các địa phương; bao gồm bộ binh thuỷ binh

tượng binh kị binh. Vũ khí quân sự dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, gồm đao, kiếm,
giáo, mác, cung, tên, hỏa đồng, hỏa pháo.
Hằng năm quân lính được luyện tập võ nghệ chiến trận. Vùng biên giới đều có bố trí quân đội mạnh canh
phòng và bảo vệ không để xâm lấn.
[sửa] Mở rộng lãnh thổ
[sửa] Đánh Chiêm Thành
Xem thêm: Chiến tranh Việt-Chiêm 1471 và Nam tiến
Vua Chiêm Thành là Trà Toàn bỏ tiến cống nhà Lê, thường xâm lấn biên giới phía nam Đại Việt. Năm 1470,
Trà Toàn sai sứ thần sang cầu viện nhà Minh, thân hành đem 10 vạn quân thủy, bộ cùng voi ngựa đến đánh
úp Hóa Châu. Viên tướng trấn giữ Hóa Châu Phạm Văn Hiển chống không nổi, phải đóng cửa thành chống
giữ, cho người phi ngựa đem văn thư cáo cấp về kinh đô Thăng Long.
Quân đội nhà Lê thời Thánh Tông đã được xây dựng rất hùng mạnh. Tháng 10 năm 1470, vua Lê Thánh
Tông sai sứ đem việc Chiêm Thành đánh úp biên giới sang báo cáo với nhà Minh.
[12]
và thân chinh cầm
200.000 quân tiến vào đất Chiêm Thành.
Tháng 3 năm 1471, kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành thất thủ. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, hơn 30.000
người Chiêm bị bắt, trong đó có chúa Trà Toàn. 40.000 lính Chiêm Thành đã tử trận.
Bấy giờ 1 tướng Chiêm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Lung, cử sứ sang cống và xin xưng thần với Đại Việt.
Theo Việt Nam Sử Lược, vua Thánh Tông có ý muốn làm cho Chiêm Thành yếu đi, mới chia đất Chiêm ra
làm 3 nước, phong 3 vua: 1 nước gọi Chiêm Thành, 1 nước nữa là Hóa Anh và 1 nước nữa là Nam Phan.
[13]
Sau khi Trà Toàn bị bắt, em là Trà Toại trốn vào núi, sai người sang cầu cứu nhà Minh và xin phong vương.
Được tin, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn quân vào đánh, Trà Toại bị bắt giải về kinh. Về sau, vua
nhà Minh sai sứ sang bảo Thánh Tông phải trả đất cho Chiêm Thành, nhưng ông nhất quyết không chịu.
[14]
Sau chiến thắng, Lê Thánh Tông thực hiện chính sách mới, bình định và Việt hóa dân chúng người Chiêm
Thành và sát nhập lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành (từ đèo Hải Vân tới bắc Phú Yên ngày nay) vào Đại Việt.
Tháng 6 năm 1471, lãnh thổ miền bắc Chiêm Thành được lập thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng
Hoa.

[sửa] Đánh Bồn Man
Bồn Man, lãnh thổ gồm miền tây Nghệ An, Thanh Hóa, tỉnh Hủa Phăn (Lào) và tỉnh Sơn La ngày nay, trước
đây đã xin nội thuộc Đại Việt, đổi thành châu Quy Hợp dưới quyền các tù trưởng họ Cầm, sau đó đổi thành
phủ Trấn Ninh, và đặt quan phủ huyện để trị vì. Nay Cầm Công, với sự giúp đỡ của người Lão Qua, bèn
đánh đuổi quân Đại Việt, rồi ra quân chống giữ với quan quân.
Vua Lê Thánh Tông bèn ngự giá thân chinh, nhưng khi tới Phù Liệt, được tin quân Đại Việt thắng Lão Qua
thì rút về và cử Lê Niệm đem quân đi đánh. Kết quả là những người Bồn Man ra hàng, tù trưởng là Cầm
Công cũng tử trận.
Sau đó, Thánh Tông phong người họ Cầm Công và Cầm Đông làm Tuyên Úy Đại Sứ và đặt lại quan cai trị
như trước, đặt vùng đất mới này là xứ Trấn Ninh.
[sửa] Đánh Lão Qua
Năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn Man là Cầm Công làm phản, xúi giục người Lão Qua cầm binh quấy nhiễu
miền tây Đại Việt.
[15]
.
Lê Thánh Tông sai Thái uý Lê Thọ Vực cùng các tướng Trịnh Công Lộ, Lê Đình Ngạn, Lê Lộng và Lê Nhân
Hiếu chia quân làm 5 đạo đi từ Nghệ An, Thanh Hóa và Hưng Hóa đánh đuổi quân Lão Qua tới sông Kim Sa
giáp với Miến Điện
[16]
. Quân Đại Việt toàn thắng.
[17]
.
[sửa] Biên giới phía tây
Không chỉ đánh Bồn Man và Lão Qua, Đại Việt còn tấn công Muang Phuan, Lan Xang (những vương quốc
nằm phần lớn thuộc Lào ngày nay), Ayutthaya, Chiang Mai (những vương quốc thuộc Thái Lan ngày nay).
Năm 1480, quân đội của Lê Thánh Tông lấn chiếm Nan, khu vực khi đó thuộc Lannathai. Cuối cùng, quân
Đại Việt tiến xa lên đến sông Ayeyarwady của vương quốc Ava (thuộc Miến Điện ngày nay).
[sửa] Ngoại giao
[sửa] Với Trung Quốc
Bài chi tiết: Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Hậu Lê

×