Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Dân sự 1 Thảo luận lần 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.94 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ...............................................................................1
Câu 1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay cps giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời....................................................................................2
Câu 1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì
những người đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................2
Câu 1.3. Di chúc của ơng Này có là di chúc do ơng Này tự viết tay khơng? Vì
sao?................................................................................................................... 3
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan
đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.. 3
Câu 1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?....................................3
Câu 1.6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả
lời?.................................................................................................................... 4
Câu 1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?............................................4
Câu 1.8. Các điều kiện nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?4
Câu 1.9. Các điều kiện nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?.................................................................................................................4
Câu 1.10. Theo anh/chị di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
khơng? Vì sao?..................................................................................................5
Câu 1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến
hình thức di chúc của người không biết chữ?....................................................5
VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC................................5
Câu 2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định 359
cho câu trả lời?..................................................................................................7
Câu 2.2. Đoạn nào của Quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?...................................7
Câu 2.3. Tòa án đã công nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định
359 cho câu trả lời?...........................................................................................8



Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm?...8
Câu 2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị
pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?.............................................................8
Câu 2.6. Nếu tài sản được định doạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý
khơng? Vì sao?..................................................................................................9
Câu 2.7. Quyết định số 58, đoạn nào đã cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C
và cụ D bị thu hồi trước khi 2 cụ chết?.............................................................9
Câu 2.8. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà án giám đốc thẩm cho
thấy di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng quyết định vừa nêu của Toà giám đốc thẩm?.........................................9
Câu 2.9. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị nhà
nước thu hồi? Suy nghĩ của anh chị về hướng vừa nêu trên của Toà giám đốc
thẩm?..............................................................................................................10
VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG...............................................10
Câu 3.1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?.......................................................................................11
Câu 3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.......................12
Câu 3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ, chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015................................12
VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG..........................................12
Câu 4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...........................................................................13
Câu 4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?..........................................................................................14
Câu 4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thoả mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?...................................14

Câu 4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng trông việc thờ cúng
trong vụ tranh chấp nay? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.....................16


Câu 4.5. Cuối cùng Tịa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?...........................16
Câu 4.6. Suy nghĩ của anh chị về chế định di sản dùng trong việc thờ cúng
trong BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc nghiên cứu?....................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................18


1

VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
 Tóm tắt bản án Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án Nhân
dân tỉnh Phú Yên.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu.
Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng.
Nội dung: Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp kết hơn từ
năm 1970. Ơng Này có quan hệ trai gái với bà Nguyễn Thị Tâm sinh ra ba người
con là Hiếu, Trung, Việt. Tài sản chung của ông Này và bà Trọng là nhà đất có diện
tích 225m2. Ngày 16/11/2008, ông Này qua đời. Trước khi qua đời, vào ngày
19/12/2007 ông Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở
hữu chung của ông với bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu. Đến nay, Hiếu chỉ xin ½
lô đất để sử dụng nhưng bị bà Trọng bác bỏ. Từ đó xảy ra tranh chấp.
Quyết định của các cấp xét xử:
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Hiếu về việc tranh
chấp di sản thừa kế. Bà Đặng Thị Trọng được nhận tồn bộ tài sản nhà đất có
diện tích 225m2. Bà Trọng có trách nhiệm trả chênh lệch cho ơng Hiếu số
tiền là 78.795.000đ được chia và được nhận từ tài sản theo di chúc. Ngồi ra,

cịn tun án phí và quyền kháng cáo của các bên đương sự.
- Tại Bản án dân sự phúc thẩm: Bà Đặng Thị Trọng và các đương sự xin rút
toàn bộ kháng cáo. Việc này là tự nguyện không ảnh hưởng đến quyền lợi và
nghĩa vụ của người khác nên được chấp nhận. Giữ nguyên quyết định của án
sơ thẩm và quyết định mức án phí.
 Tóm tắt quyết định Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ơng Đỗ Văn Quang.
Bị đơn: Bà Hồng Thị Ngân.
Nội dung: Ông Quang là con cụ Hựu và cụ Sách vào năm 1954. Trước đó, cụ Hựu
cũng kết hơn với cụ Hằng (đã mất vào năm 1950) và có hai người con chung là ông
Hồng (đã hy sinh năm 1968) và bà Lựu. Cụ Hựu chết ngày 6/2/2005. Di sản để lại
gồm thửa đất 57, diện tích 526m2. Hiện tại do bà Ngâm – vợ ông Hồng quản lý và
được cấp giấy chứng nhận đất đối với các thửa đất trên. Khi kê khai đăng ký quyền
sử dụng đất bà Ngâm đã xuất trình di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung


2

để lại tài sản, đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Ơng Quang cho rằng bản di chúc trên là
khơng hợp pháp theo yêu cầu chia theo thừa kế.
Quyết định của các cấp xét xử:
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu của ông Quang về việc mở
thừa kế di sản của cụ Hựu để lại, xác định thời điểm mở thừa kế là thời điểm
cụ Hựu mất và xác định cụ chết có để lại di sản bằng văn bản lập ngày
25/11/1998. Hủy một phần di chúc của cụ, phán quyết qua quyền tài sản
chung của dòng họ Đỗ và đồng thời chấp nhận một phần di chúc của cụ Hựu
để lại cho bà Ngâm và bà Lựu thừa hưởng. Và còn bác yêu cầu chia thừa kế
di sản cụ Hựu để lại theo pháp luật của ông Quang.
- Tại Bản án dân sự phúc thẩm: Bác yêu cầu kháng cáo của ông Quang, giữ

nguyên bán án sơ thẩm và bác tất cả các yêu cầu khác của đương sự.
- Theo thủ tục giám đốc thẩm: Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đồng ý với yêu
cầu kháng nghị của Tòa án nhân dân tối cao xét xử hủy bản án phúc thẩm và
sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại.
Câu 1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay cps giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý được quy định
tại Điều 633 BLDS 2015, theo đó: “Người lập di chúc phải tự viết và tự ký vào bản
di chúc”.
Câu 1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015 thì:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc trừ những người sau
đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.”
Xét trường hợp của ông Này, những người làm chứng bao gồm cha, em gái, em
trai của ông.


3

Căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015, cha đẻ của người chết thuộc
hàng thừa kế thứ nhất. Điều này đồng nghĩa với việc cha đẻ ông Này làm chứng là
không hợp pháp do vi phạm khoản 1 Điều 632 BLDS.
Về phần em gái, em trai của ông Này, tuy thuộc hàng thừa kế thứ hai theo điểm
b khoản 1 Điều 651 BLDS nhưng những người ở hàng thừa kế thứ nhất tại điểm a

như con đẻ, cha đẻ vẫn cịn nên khơng được xem là vi phạm khoản 1 Điều 632. Vì
vậy, em gái, em trai của ông Này làm chứng việc lập di chúc là hợp pháp.
Câu 1.3. Di chúc của ơng Này có là di chúc do ơng Này tự viết tay khơng? Vì
sao?
Theo quyết định số 83/2009/DSPT di chúc của ông Này là do ông tự viết tay
căn cứ theo đoạn: “Để tránh tranh chấp về sau nên ông Này viết giấy này để nhà và
đất đai cho cháu Hiếu thừa hưởng sau này ơng Này có mất thì cháu Hiếu có chỗ ở
và thờ cúng cho ông Này” và đoạn “Xét thấy, giấy thừa kế do ơng Nguyễn Này viết
khơng được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập lúc
ơng Này cịn minh mẫn, sáng suốt…”
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan
đến hình thức di chúc của ơng Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này
khi đây là di chúc do ơng Này tự viết tay là hồn tồn hợp lý.
Thứ nhất, di chúc là do ông tự viết và tự ký, thỏa mãn Điều 633 BLDS 2015.
Thứ hai, di chúc của ông Này dù không được công chứng, chứng thực nhưng
ơng hồn tồn minh mẫn, sáng suốt, khơng bị đe dọa hay cưỡng ép, nội dung hay
hình thức cũng không trái pháp luật nên theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015, Tịa
hồn tồn có quyền tun di chúc là hợp pháp.
Về việc người làm chứng, thì đối với di chúc tự viết tay thì khơng cần thiết, nên
việc có hai người làm chứng hợp pháp (em gái, em trai ông Này) chỉ mang tính xác
thực cho di chúc nhiều hơn, không phải là điều kiện bắt buộc để di chúc của ông
Này hợp pháp.


4

Câu 1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu đã lập vào ngày 25/11/1998 do bà Ngâm xuất trình, bà
Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ông Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ

Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng. Sau
đó, ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là
trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
Câu 1.6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định 874 cho câu trả
lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Đoạn trong Quyết định 874 có ghi rõ: “Ơng Quang
xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.
Câu 1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Điều kiện để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật đối với di chúc
của người không biết chữ được quy định tại khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di
chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”.
Ngồi ra, vì đây là dạng di chúc bằng văn bản có người làm chứng nên di chúc
cần phải thỏa quy định tại Điều 634 BLDS. Vậy nên có 4 điều kiện cần để đáp ứng:
- Di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản.
- Phải có ít nhất 2 người làm chứng.
- Di chúc phải có cơng chức hoặc chứng thực.
Người lập di chúc phải kí hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những
người làm chứng.
Câu 1.8. Các điều kiện nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Di chúc của bà Hựu đáp ứng được điều kiện số một đó là phải được người làm
chứng lập thành văn bản. Ở đây di chúc của cụ Hựu có 02 người làm chứng là ơng
Vũ, cụ Q và đã được hai người làm chứng lập thành văn bản.


5

Câu 1.9. Các điều kiện nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?

Di chúc của cụ Hựu đã không đáp ứng được về phần văn bản sau khi được hai
người làm chứng lập thành đã không được công chứng hoặc chứng thực. Bởi tuy di
chúc có xác nhận của ơng Thường (là trưởng thơn) và xác nhận của Ủy ban nhân
dân xã Mai Lâm. Tuy nhiên ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc
Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận
(sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn 1 tháng).
Câu 1.10. Theo anh/chị di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
khơng? Vì sao?
Theo tơi, di chúc của cụ Hựu khơng thỏa mãn điều kiện về hình thức của di
chúc theo pháp luật. Bởi thứ nhất khi bà Lựu mang di chúc đến xác nhận là đã qua
hơn 1 tháng khi bà Hựu lập di chúc và ông Thường (trưởng thôn) người xác nhận
bản di chúc không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc. Mặt khác, qua giám định vân tay
của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận
dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám
định.
Câu 1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người khơng biết chữ?
Quy định trong BLDS liên quan đến hình thức di chúc của người khơng biết chữ
cịn rất sơ sài, chưa quy định kĩ.
BLDS quy định về việc công chứng và chứng thực của di chúc nhưng không nêu
người đi công chứng hoặc chứng thực là ai. Vì vậy, nên bổ sung thêm quy định này
vào chế định di chúc của người khơng biết chữ. Theo đó, người đi cơng chứng hoặc
chứng thực phải là người lập di chúc hoặc là người thể hiện ý chí của người lập di
chúc thành văn bản để đảm bảo sự rõ ràng, chính xác của di chúc, để tránh sự thay
đổi di chúc không đúng với ý chí của người lập di chúc, từ đó tránh các tranh chấp
xảy ra trên thực tế.
BLDS cần quy định thêm về thời hạn công chứng hoặc chứng thực di chúc của
người khơng biết chữ. Ta có thể áp dụng trường hợp của di chúc miệng vào trong
trường hợp này là trong thời hạn 5 ngày, di chúc phải được công chức hoặc chứng
thực kể từ ngày người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng.



6

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
 Tóm tắt quyết định Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của
Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Cụ Bùi Thị Huệ.
Bị đơn: Anh Trần Văn Mạnh.
Nội dung: Cụ Bùi Thị Huệ khởi kiện đòi anh Trần Văn Mạnh phải trả lại diện tích
120m2 đất trước năm 2001 là ao tại thửa số 237, tờ bản đồ số 29, loại đất lâu năm
quả, bản đồ năm 2007 (bản đồ năm 2001 thể hiện tại thửa 51, tờ số 24) mang tên
anh Trần Văn Mạnh của xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Quyết định:
-

Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 235/2014/KN- DS ngày 17/7/2014 của
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

-

Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2011/DS-PT ngày 19/7/2011 của Tòa án
nhân dân tỉnh Hưng Yên và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2011/DS-ST
ngày 20/4/2011 của Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên về vụ
án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

 Tóm tắt quyết định Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/09/2018 của
Tòa án nhân cấp cao tại Hà Nội.
Ngun đơn: Ơng Trần Văn Y.
Bị đơn: Phịng cơng chứng M.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ơng Nguyễn Văn D1.
Nội dung: Theo đơn khởi kiện đề ngày 26-6-2013 và các lời khai trong quá trình tố
tụng, nguyên đơn là ơng Trần Văn Y trình bày: Thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 tại
khu M, phường N, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc có nguồn gốc là do ông nhận


7

chuyển nhượng của cụ Nguyễn Thị C (tức T, T1) từ năm 1987. Việc chuyển nhượng
đất và hoa màu liên quan đến thửa đất này giữa ông và cụ C có giấy xác nhận của
Ủy ban nhân dân phường đồng ý cho ông đến ở cùng với cụ T1. Năm 1988, Ủy ban
nhân dân phường đồng ý cho ông đứng tên thửa đất này và đổi sang một thửa đất
khác vì thửa đất này giáp với đầm nước khơng tiện cho việc chăm sóc con nhỏ.
Nhưng do khơng đủ điều kiện làm nhà nên ông không đổi đất nữa. Năm 1998, ông
và cụ C làm giấy tờ chuyển nhượng thửa đất trên với giá 140.000.000 đồng. Mặc dù
việc trả tiền khơng được các bên viết giấy biên nhận, nhưng có 02 người là bà
Nguyễn Thị B (đã chết) và bà Trần Thị K (ở xóm D, phường Đ) chứng kiến việc
ông trả tiền cho cụ C. Khi chuyển nhượng ông và cụ C đã lập Hợp đồng mua bán
nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ghi ngày 08-02-1998 và nộp tại Ủy ban
nhân dân phường. Năm 2008, gia đình ông không ở trên thửa đất này nữa do đất bị
giải phóng mặt bằng. Năm 2009, giữa ơng và gia đình cụ Nguyễn Văn D xảy ra
tranh chấp đối với thửa đất trên. Năm 2013, ơng được biết Phịng cơng chứng M đã
công chứng Di chúc của cụ Nguyễn Văn D và công chứng Văn bản công bố di chúc
của cụ D và cụ Nguyễn Thị T1 ngày 26-01-2011. Theo các văn bản trên thì cụ D có
quyền sở hữu, sử dụng 1 phần thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 khu M, phường N,
thành p hố V, tỉnh Vĩnh Phúc; ông Nguyễn Văn D1 là người được hường thừa kế
của cụ D và cụ C đối với thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 diện tích 299,8 m 2 tại khu
M. Việc cơng chứng này không đúng quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ơng nên ông đề nghị Tòa án tuyên bố 02 văn
bản công chứng trên vô hiệu.

Quyết định:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 337; khoản 3 Điều 343 và Điều 345 Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015;
1. Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 23/2015/DS-PT ngày 27/04/2015 của Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc và Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2014/DS-ST ngày
28/04/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc về vụ án
“Tranh chấp yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn là ông
Trần Văn Y với bị đơn là Phịng cơng chứng M tỉnh Vĩnh Phúc; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn D1.


8

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét
xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật

Câu 2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định này cho
câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu
(nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, Phú Nhuận) cho các con là Nguyễn
Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí).
Đoạn cho câu trả lời: “Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất…
Quảng Thị Kiều (Vợ ông Nguyễn Hữu Trí).”
Câu 2.2. Đoạn nào của Quyết định 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn cho thấy tài sản của cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung
của vợ chồng cụ Hương là “Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một
phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý.”
Câu 2.3. Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định

359 cho câu trả lời?
Tòa án đã công nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà
đất) cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Đoạn cho câu trả lời: “Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ
Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2
nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức,
Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều ( vợ
ơng Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.”
Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm?
Hướng giải quyết trên của Tịa án là hợp lý.
Vì di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung
thì di sản được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Tòa án
quyết định chỉ công nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản


9

của cụ được chia cho 5 người con theo di chúc sau khi đã chia cho cụ Quy 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý. Và cụ Quý được hưởng 1/2 tài sản nhà
đất trong phần tài sản chung của hai cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.
Câu 2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương thì căn cứ điều 634 BLDS 2015: “Trường
hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy
hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai
người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước
mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ
của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tại
Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.”

Việc di chúc được cơng chứng tại Phịng cơng chứng số 4 thành phố Hồ Chí
Minh ngày 16/01/2009 đã cho thấy di chúc có hiệu lực về mặt pháp luật.
Cụ Quý vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế dựa
trên khoản 1 điều 644 BLDS 2015: “1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần
di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được
chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng
di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà khơng có khả năng lao động.”
Câu 2.6. Nếu tài sản được định doạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý khơng?
Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương khơng có giá trị pháp lý vì đến 6/4/2009
cụ Hương mới mất mà theo khoản 1 điều 643 BLDS 2015 ta thấy:


10

“1. Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.”
Tức sau khi cụ Hương mất thì mới mở quyền thừa kế và di chúc của cụ mới có
giá trị pháp lý.
Câu 2.7. Quyết định số 58, đoạn nào đã cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và
cụ D bị thu hồi trước khi 2 cụ chết?
Đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D bị thu hồi trước khi 2 cụ
chết là nhận định thứ 5 của Toà giám đốc thẩm: “Di sản của cụ D, cụ C để lại là
quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định
số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V.”
Câu 2.8. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà án giám đốc thẩm cho thấy
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng

quyết định vừa nêu của Toà giám đốc thẩm?
Đoạn trong quyết định số 58 của Toà án giám đốc thẩm cho thấy di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngày 16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung
để lại một phần tài sản là bất động sản tại thửa đất số 38, tờ bản đồ số 13 nêu trên
cho con trai tôi (ông Nguyễn Văn D1). Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại
Phịng cơng chứng M, tỉnh Vĩnh Phúc với nội dung để lại phần tài sản của mình tại
thửa đất nêu trên cho ông D1. Khi Nhà nước thu hồi, bồi thường bằng tái định cư
(hoặc nhận tiền) và bồi thường tài sản trên đất thì ơng D1 được đứng tên và nhận
tiền.”
Hướng giải quyết trên của Toà giám đốc thẩm là hồn tồn có cơ sở vì đây là tài
sản chung của 2 cụ. Nên đây được coi là di sản.
Câu 2.9. Đoạn nào của quyết định số 58 cho thấy Toà giám đốc thẩm theo hướng
cụ C và cụ D được định đoạt di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị nhà nước thu
hồi? Suy nghĩ của anh chị về hướng vừa nêu trên của Toà giám đốc thẩm?
Đoạn cho thấy Toà giám đốc thẩm theo hướng cụ C và cụ D được định đoạt di
chúc giá trị quyền sử dụng đất bị nhà nước thu hồi là: “Di sản của cụ D, cụ C để lại
là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết
định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng
giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm


11

theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài sản
trên cho ông D1.”
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 Điều 75 Luật đất đai 2013.
“Điều 75. Điều kiện được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, cơng cộng
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất
hàng năm, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu

nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận)
hoặc có đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa
được cấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này.”

VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
 Tóm tắt bản án Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/09/2017 của Tòa án nhân
dân huyện C tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: Bà Hồng Thị H.
Bị đơn: Anh Hồng Tuyết H.
Ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H kết hơn và có 4 người con ruột. Trong thời
kỳ hơn nhân ơng bà đã tạo dựng được khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất
số 76. Trong di chúc chung mà hai ông bà viết (ngày 10/8/2015) ghi rõ: Nếu ông X
chết trước thì sẽ giao di chúc cho bà H, khi bà H chết thì giao cho con trai là Hoàng
Hồng H1 quản lý tài sản. Di chúc được ơng viết lúc cịn khỏe mạnh, minh mẫn
nhưng khơng có người làm chứng và khơng có xác nhận của UBND Thị trấn S.
Ngày 12/01/2016 ơng X chết, sau đó bà H họp gia đình và cơng bố di chúc, thì anh
H không công nhận đây là di chúc hợp pháp. Vì vậy nên bà H u cầu Tịa án cơng
nhận di chúc của ông X để lại là hợp pháp, giải quyết cho bà thay đổi nội dung di
chúc phần của bà và chia tài sản chung cho bà. Tòa án cơng nhận di chúc của ơng
Hồng Minh X và bà Hồng Thị H viết là hợp pháp, khơng chấp nhận yêu cầu của
anh H và anh H2 đòi chia di sản của ông X.


12

Câu 3.1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
Ở đoạn “ Ơng Hồng Minh X (chết tháng 1/2016) và bà Hồng Thị H có 4

người con đẻ là anh Hoàng Tuyết H, Hoàng Hồng H1, Hoàng Quốc H2 và Hồng
Quốc H3. Ơng bà khơng có con riêng, con nuôi. Ngày 10/8/2015, ông X viết di
chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký với nội dung: “Nay hai chúng tơi nhất trí
giao lại căn nhà 4 gian, sân gạch, giếng nước ăn và toàn bộ tài sản trong nhà từ
cái nhỏ nhất, đến cái to nhất cho con trai Hồng Hồng H1 có số chứng minh nhân
dân là số
vì Hồng Hồng H1 là ngừi có cơng ni dưỡng cha mẹ trong khi ốm yếu. Khi
cha mẹ qua đời H1 có trách nhiệm chơn cất và thờ cúng.
Số đất thổ cư và vườn đồi H1 được hưởng thụ, còn những người con khác đã
phân chia. Nay khơng có gì để cho. Vì bất hiếu với cha mẹ…
Khi tơi ra đi trước vợ thì bản di chúc này sẽ giao lại cho vợ là bà Hoàng Thị H.
Sau khi bà Hoàng Thị H mất sẽ giao cho con trai Hoàng Hồng H1 quản lý số đất
của gia đình từ trong nhà đến ngoài đồng là H1 phải chịu trách nhiệm.
Vậy kính mong UBND Thị trấn xác nhận”.
Bản di chúc khơng có người làm chứng và khơng có xác nhận của UBND Thị
trấn S, huyện C. Tuy nhiên bản di chúc này khơng được các anh Hồng Tuyết H,
Hồng Quốc H2 và Hồng Quốc H3 cơng nhận là di chúc hợp pháp.
Điều 663 BLDS 2005 quy định: Di chúc chung của vợ chồng.
Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
Ông X, bà H làm di chúc chung của vợ chồng thể hiện việc định đoạt tài sản
chung phù hợp với điều kiện nêu trên”.
Câu 3.2. Theo Tịa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo bản án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015. Ở đoạn “Xét tính hợp pháp của bản di chúc khơng có chứng thực: Tại Điều
630 BLDS 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; Không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi pham điều cấm của luật, khơng trái đạo đức

xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của luật.



13

4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp
pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.”
Câu 3.3. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ, chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Theo tôi, hướng giải quyết của Tịa án là cơng nhận di chúc chung của vợ
chồng ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H vào ngày 10/8/2015 là hợp pháp và
không chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H, anh Hoàng Quốc H2 địi chia di
sản của ơng Hồng Minh X là hợp lý vì tuy BLDS 2015 đã bãi bỏ quy định về di
chúc chung của vợ chồng, tuy nhiên khơng có quy định nào cấm việc lập di chúc
chung, miễn di chúc đó vẫn thể hiện đầy đủ các điều kiện của một di chúc hợp pháp
( cụ thể Điều 630 BLDS 2015) thì vẫn chấp nhận được và di chúc đó vẫn có hiệu
lực theo Điều 643 BLDS 2015. Mặt khác, vì BLDS 2015 vẫn chưa quy định rõ về
việc lập di chúc của vợ chồng mà theo điểm c khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 thì nếu
bộ luật này chưa quy định rõ, chúng ta áp dụng BLDS 2005 để giải quyết.

VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
 Tóm tắt bản án Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/09/2009 của Tòa án
nhân dân Huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Vợ chồng ông Phan Văn Mười (chết năm 1972) và bà Nguyễn Thị Lùng (chết
năm 2005) có 7 người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được và Hương. Di
sản để lại là căn nhà diện tích 57,25m 2. Tại tờ di chúc ngày 08/7/2004 bà Lùng để
lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là
người đang quản lý di sản và yêu cầu chia di sản thừa kế của mẹ cho 7 anh chị em
trong đó anh Tân và chị Hương yêu cầu để căn nhà và đất như hiện tại là quyền sở

hữu chung của 7 người. Toà chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Được đối với anh
Tân, chị Hương cùng những người có nghĩa vụ liên quan về tranh chấp di sản thừa
kế. Giao cho anh Được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà. Anh Được có trách nhiệm
thanh tốn giá trị di sản thừa kế cho anh Tân, chị Hương mỗi người là 37.424.000đ
(do 5 người cịn lại khơng nhận di sản mà cho lại anh Được).
Câu 4.1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Điều 670 BLDS năm 2005 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng là di sản
không chia và giao cho người được chỉ định trong di chúc. Trường hợp, di chúc
khơng chỉ định người quản lí dùng vào việc thờ cúng, thì những người thừa kế thỏa


14

thuận giao di sản dùng vào việc thờ cúng cho một người thừa kế trơng coi, sử dụng.
Người quản lí di sản có thể là con hoặc cháu của người đã chết, họ có điều kiện
trơng coi, quản lí, duy trì, phát triển di sản dùng vào việc thờ cúng. Người quản lí di
sản thờ cúng sẽ thực hiện việc thờ cúng người có tài sản chết vào ngày giỗ, tết. Việc
thờ cúng này được thực hiện theo tập quán của từng địa phương, pháp luật không
quy định cụ thể về người thực hiện việc thờ cúng và người quản lí di sản dùng vào
việc thờ cúng. Đây cũng là sự khác biệt giữa pháp luật của Nhà nước ta và pháp luật
thời phong kiến thuộc địa và luật cổ Việt Nam.
Di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định tại Điều 670 BLDS năm 2005:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào
việc thờ cúng, thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một
người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ
cúng cho người khác quản lí để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản khơng chỉ định người quản lí di sản thờ

cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đã chết thì phần di
sản dùng vào việc thờ cúng thuộc về người đang quản lí hợp pháp di sản đó trong
số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp tồn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn
nghĩa vụ tài sản của người đó thì khơng được dành một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng.”
Câu 4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?
Đoạn bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng
là: “Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ”.
Câu 4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thoả mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp chưa thoả
mãn trong vụ việc đang nghiên cứu. Cụ thể theo khoản 1 Điều 645, BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng


15

thì phần di sản đó khơng được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ
định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định
không thực hiện đúng di chúc hoặc khơng theo thoả thuận của những người thừa kế
thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho
người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng
thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số

những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”
Trong vụ việc đang nghiên cứu thì phần di sản dùng vào việc thờ cúng đã được
chia ra cho 7 anh chị em và mỗi người nhận được 37.423.857đ . Trong đó anh Thảo,
anh Tân, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa khơng nhận mà cho lại anh Được, cịn anh
Tân và chị Hương thì nhận số tiền đó. Mặt khác, bản án chưa đề cập đến vấn đề là
khi lập di chúc bà Lùng có chỉ định người quản lý di sản hay không mà chỉ đề cập
đến việc anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại được 5/7 anh chị em của
anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản. Do đó nó khơng
thoả mãn, khơng phù hợp với quy định của BLDS 2015.
Di sản dùng vào việc thờ cúng là những tài sản do người quá cố để lại thường
có giá trị tâm linh, thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn dân tộc ta. Một
trong những loại tài sản phổ biến mà chúng ta thường thấy được dùng vào việc thờ
cúng đó là đất hương hỏa kèm theo các loại tài sản bất động sản khác có giá trị như
nhà ở sau dùng làm nhà thờ hoặc vườn cây lâu năm, các loại tài sản là động sản
khác ít khi được chỉ định dùng vào việc thờ cúng.
Điều 645 BLDS 2015 kế thừa gần như toàn bộ quy định tại Điều 670 BLDS
2005 về di sản dùng vào việc thờ cúng, cụ thể: “Trường hợp người lập di chúc có
thể để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó khơng được
chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực
hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc
không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền
giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.” Quy
định này đã chỉ rõ, di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế. Điều đó
có ý nghĩa là, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ không thuộc sở hữu riêng hoặc sử
dụng riêng của bất kỳ người nào. Tuy nhiên, cách quy định trên cũng chưa chỉ rõ di


16

sản dùng vào việc thờ cúng có thuộc sở hữu chung hoặc sử dụng chung của những

chủ thể nào hay khơng.
Vì vậy, quy định nêu trên của BLDS chưa thể giải quyết được bất cập trong các
tranh chấp về di sản dùng vào việc thờ cúng là các bất động sản (như quyền sử dụng
đất hiện nay). Như chúng ta đã biết, pháp luật đất đai chỉ có quy định về cộng đồng
dân cư có quyền sử dụng đất chung đất nhà thờ họ (Điều 5 Luật đất đai 2013) mà
khơng có quy định nào điều chỉnh việc người sử dụng đất để lại quyền sử dụng đất
của mình để làm di sản thờ cúng (đất hương hỏa). Điều này có ý nghĩa là khi một
người được thừa kế đất hương hỏa và sau khi được đăng ký, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai thì người đó sẽ trở thành
người có quyền sử dụng đất (có thể chuyển quyền cho người khác). Việc này hoàn
toàn chưa phù hợp với phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc ta cũng như tâm
cúng, khơng được phép mua bán, chuyển nhượng và nó cũng chưa đúng với tinh
thần tại khoản 1 Điều 645 của BLDS 2015.
Do đó, để khắc phục sự thiếu vắng các quy định của pháp luật đất đai, đồng
thời, bảo đảm tính hiệu quả cao trong cơng việc khai thác, sử dụng di sản kể cả di
sản dùng vào mục đích thờ cúng, hương hỏa, cơ quan có thẩm quyền cần có những
hướng dẫn cụ thể quy định nêu trên của BLDS 2015.
Câu 4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp nay? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong vụ tranh chấp thừa kế có 5 người trong 7 người con của bà Lùng đồng ý
chia di sản. Cụ thế là: anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa, anh Được đồng ý
chia di sản. Còn anh Tân và chị Hương không đồng ý.
Đoạn trong bản án trả lời cho câu hỏi: “Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập
di chúc để lại cho 07 anh em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 anh chị hợp
lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.
Câu 4.5. Cuối cùng Tịa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ
cúng.
Đoạn trong bản án trả lời cho câu hỏi: “Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện

của anh Phan Văn Được đối với anh Phan Văn Tân, chị Phan Thị Hương và những


17

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn Thảo, anh Phan Văn Xuân,
anh Phan Văn Nhành, chị Phan Thị Hoa về việc “Tranh chấp di sản thừa kế”.
Anh Được phải có trách nhiệm thanh tốn giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và
chị Hương mỗi người 37.424.000 đồng (bằng chữ: ba mươi bảy triệu bốn trăm hai
mươi bốn ngàn đồng)”.
Câu 4.6. Suy nghĩ của anh chị về chế định di sản dùng trong việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc nghiên cứu?
Căn cứ vào khoản 1, Điều 670 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp người
lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó
khơng được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di
chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện
đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người
thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý
để thờ cúng”. Trong thực tiễn xét xử tại Tịa thì Tòa án lại chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh Được và giao cho anh được quyền sở hữu căn nhà, anh phải có nghĩa
vụ thanh tốn giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương. Như vậy, xét về mặt
pháp lý thì cách xét xử của Tịa án có phần khơng đúng so với quy định của BLDS
2005. Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách
xử của tịa vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ
phần nhà đất được chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, Anh Thảo, anh
Xuân, chị Hoa không nhận di sản mà cho lại anh Được. Nhà vẫn được giữ nguyên
và anh Được là người quản lý căn nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng là chính. Việc
bất hợp lý ở đây đó là di sản để thờ cúng, nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu
chung của những người thừa kế, vậy thì khơng được định đoạt, chia lẻ chỉ được
quản lý, theo khoản 1, Điều 645 BLDS 2015. Tuy nhiên Tòa án lại xử chia di sản và

anh Được phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai người tức là đã xé lẻ di
sản ra đánh mất bản chất chỉ quản lý, thờ cúng mà không định đoạt, chia lẻ.


18

ÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật dân sự 2005;
2. Bộ Luật dân sự 2015;
3. Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa
kế của Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương II;
4. Lê Minh Hùng, Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền
thừa kế của Đại học Luật TP.HCM, Nxb. Hồng Đức 2018, Chương VI.



×