Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

TIỂU LUẬN (KINH tế THƯƠNG mại) những thách thức của việt nam trong hoạt động xuất khẩu vải thiều việt nam sang thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (285.68 KB, 23 trang )

ĐỀ TÀI: NHỮNG THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM TRONG HOẠT
ĐỘNG XUẤT KHẨU VẢI THIỀU VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG
AUSTRALIA
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài

1.

Theo sô liệu thông ke của Bộ Nông nghiệp va Phát triển nông
thôn, trong khoảng 5 năm trở lại đây, sản lượng vải của cả nước
đạt khoảng từ 210.000 – 225.000 tấn. Trong đó, với tổng diện tích
trồng vải khoảng 43.000 ha, sản lượng tại hai tinh Bắc Giang va Hải
Dương đạt khoảng 190.000 tấn quả tươi (tại Bắc Giang diện tích
khoảng
32.000 ha, sản lương khoảng 160.000 tấn, tại Hải Dương diện
tích khoảng 11.000 ha, sản lượng khoảng 40.000 tấn). Trong đó,
diện tích vải áp dụng theo tiêu chuẩn VietGap khoảng 8.500 ha tại
Tỉnh Bắc Giang va 800 ha tại Tỉnh Hải Dương.
Việc đưa trái vải xuất khẩu có thể đem lại lợi nhuận kinh tế hơn
rất nhiều so với chỉ tieu thụ trong nước. Do sản lượng vải hang năm
của Việt Nam lớn, nếu chỉ tieu thụ trong nước sẽ dẫn tới việc cung
vượt quá cầu khiến cho giá bán quá thấp, hiệu quả kinh tế thấp. Trong
khi đó ở một sô nước nhu cầu tieu thụ quả vải lớn, tuy nhien nguồn
cung rất hạn chế. Ben cạnh đó, quả vải Việt Nam xuất ra nước ngoai
rất được giá, ở thị trường Việt Nam giá cao nhất vao khoảng
24.000đ/kg, nhưng ở các thị trường khác quả vải có thể được bán với
giá 220.000đ – 240.000đ/kg.
Cũng như nhiều mặt hang nông sản khác của Việt Nam, Trung
Quôc vẫn là thị trương xuất khẩu vải thièu truyền thông. Việc phụ
thuộc vao một thị trường xuất khẩu sẽ không thẻ tránh khỏi những rủi
ro nhất định cho nền kinh té nói chung va cho nông dân nói rieng. Do


vậy, việc đẩy mạnh công tác nghien cứu, xúc tiến xuất khẩu trái vải
1


của Việt Nam sang các nước khác nhằm bớt phụ thuộc vao thị trường
Trung Quôc là hết sức cần thiết. Những năm gần đây, Việt Nam đã mở
rộng sang các thị trường khác, trong đó các thị trường như Mỹ va
Australia ngay cang đóng vai trò quan trọng. Tại thời điẻm hiện
tại, Australia chỉ chấp nhận cho nhập khẩu một loại hoa quả tươi của
Việt Nam vao thị trường nay la trái vải thiều. Việc đưa trái vải thanh
công
vao thị trường Australia sẽ đồng thời mở ra cơ hội

cho một sô loại

mơí trái cây khác như thanh long, nhãn, xoai...
Trái cây Việt Nam có nhiều triển vọng xuất khẩu sang thị trường
Australia, bởi Việt Nam có các loại trái cây nhiệt đới đặc sản, lạ có sức
hấp dẫn đôi với nhu cầu đổi mới va thích mới lạ của người tieu thụ
như trái vải thiều. Tuy nhien, hoạt động xuất khẩu vải thiều của Việt
Nam sang thị trường Australia đang phải gặp phải nhiều thách thức do
đây la một trong những nước có các quy định va kiểm định ngặt
nghèo nhất tren thế giới.
Đẻ góp phần vao việc nhận diện những thách thức của Việt
Nam khi đưa trái vải thâm nhập vao thị trường Australia, nhóm nghien
cứu đã triển khai đề tai “NHỮNG THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM
TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VẢI THIỀU SANG THỊ TRƯỜNG
AUSTRALIA”

2.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghien cứu: Tren cơ sở phân tích va đánh giá

thực trạng xuất khẩu vải thiều của Việt Nam giai đoạn 2010 –
2018, từ đó nhận diện các khó khăn, thách thức ma Việt Nam
đang gặp phải khi xuất khẩu vải thiều sang thị trường Australia.
- Để đạt được mục đích nghien cứu, đề tai thực hiện các

nhiệm vụ:


Phân tích thực trạng xuất khẩu trái vải thiều Việt Nam
trong giai đoạn 2010-2018.
Tìm hiểu tình hình sản xuất va nhập khẩu trái vải thiều tại
Australia, các quy định, yeu cầu đôi với trái vải tươi khi được đưa vao
thị trường Australia. Từ đó, phân tích những thách thức ma Việt Nam
đang phải đôi mặt trong việc xuất khẩu trái vải thiều sang thị trường
Australia.
Đề xuất một sô giải pháp khắc phục các thách thức ma
hoạt động xuất khẩu trái vải thiều Việt Nam sang thị trường Australia
đang phải đôi mặt.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đôi tượng: hoạt động xuất khẩu vải thiều vủa Việt Nam.
- Phạm vi nghien cứu:

Không gian: xem xét hoạt động sản xuất va xuất
khẩu vải thiều ở các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương.

Thời gian:
o

Giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2018: phân tích

thực trạng xuất khẩu vải thiều của Việt Nam sang thị trường Australia
để chỉ những khó khăn trong hiện tại gặp phải.
o Giai đoạn từ năm 2019 đến năm 2022: dự báo va

phân tích các khó khăn trong hoạt động xuất khẩu vải thiều của Việt
Nam sang thị trường Australia.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Đề tai nghien cứu sử dụng một sô phương pháp nghien cứu sau:
- Phương pháp nghien cứu lí thuyết: la phương pháp nghien

cứu với chất liệu nghien cứu bao gồm những báo cáo, tư liệu, sô
liệu… đã có sẵn trước đó. Tác giả đã thu thập sô liệu từ những nguồn


chính thông, từ đó, đi sâu vao phân tích va đưa ra giải pháp. Đề tai sử
dụng nguồn dữ liệu thứ cấp thu thập qua các tai liệu tham khảo, báo
cáo, dữ liệu được công bô của các công ty, cục Thương mại quôc tế,
bộ Công thương, tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại nước ngoai, các bai
báo có nguồn đáng tin cậy…
- Phương pháp so sánh, đôi chiếu: la phương pháp

sử


dụng, so sánh va đôi chiếu với những kinh nghiệm đã có của một sô
quôc gia khác về vấn đề xuất khẩu nông sản, qua đó đưa ra những
giải pháp tôi ưu nhất cho vấn đề xuất khẩu vải thiều của Việt Nam.
5.

Kết quả nghiên cứu
5.1.

Kết quả nghiên cứu 1: Phân tích tình hình sản xuất và

xuất khẩu trái vải thiều tại Việt Nam
a.

Tình hình trồng vải

Vùng trờng vải của Việt Nam tập trung ở phía Bắc va một sô vùng
ở phía Nam. Các tỉnh trồng vải bao gồm Lao Cai, Lạng Sơn, Tuyen
Quang, Thái Nguyen, Ha Nội, Hoa Bình, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng
Yen, Ha Nam, Bắc Giang, Ninh Bình, Quảng Ninh, Thanh Hoá va Phú
Thọ. Tuy nhien, do điều kiện thời tiết, chỉ có Hải Dương, Hưng Yen va
Bắc Giang la các tỉnh có sản lượng va chất lượng cao để xuất khẩu.
Theo sô liệu của Sở Công thương tỉnh Bắc Giang, sản lượng vải
thiều của tỉnh Bắc Giang nói chung đạt 215.800 tấn, tăng 124.300 tấn
so với vụ vải thiều năm 2017.
Hình 1. Sản lượng vải thiều của tỉnh Bắc Giang từ năm 2010 đến
năm 2018
Nguồn: Sở Công thương tỉnh Bắc Giang
Mùa thu hoạch vải ở Việt Nam vào khoảng tháng Năm va tháng
Bảy. Mùa vụ quả vải thường chia lam 2 giai đoạn: Vải vụ

sơḿ

(bắt đầu

từ khoảng giữa tháng 5 đến giữa tháng 6) chủ yéu là tieu thụ trong


nước. Vải vụ muộn (bắt đầu từ đầu tháng 6 đến đầu tháng 7) chủ yếu
là xuất khẩu. Vải được thu hoạch vao sáng
sơḿ

hoặc chiều muộn

trong nhưng ngay thời tiét mát và khô. Ở Việt Nam, vải không được
thu hoạch và bán rời quả như các nước khác mà thu hoạch theo từng
trùm vẫn còn nguyên lá đẻ giữ vải tươi được lâu hơn. Vải tieu thụ
trong nước được thu hoạch lúc chín cây, tuy nhien vải đẻ xuất khẩu
thường
thu hoạch lúc trái vải vừa
chơḿ

chuyển sang mau đỏ. Nếu chưa được

tiêu thụ ngay, vải sẽ được bảo quản trong phòng lạnh ở nhiệt độ 4-5
độ C va 90-95% độ ẩm đẻ tránh tình trạng mất nước lam vải thâm va
giảm chất lượng.
Đẻ đáp ưng các tieu chuẩn đẻ mở rộng thị trường xuất khẩu là hết
sức cần thiết. Trong mùa vải năm 2015, rieng huyện Lục Ngạn (Bắc
Giang) có ké hoạch sản xuất 9.500 ha vải thiều theo tieu chuẩn
VietGAP tại 30 xã, thị trấn va tăng len 10.000 ha vào năm 2020. Ngoai

ra, dự kiến diện tích sản xuất vải đạt tieu chuẩn GlobalGAP năm 2016
là 150 ha, và đạt 250 ha vào năm 2020.
Hiện nay, ở Việt Nam có 23 phòng cấp giấy chứng nhập VietGAP
(các phòng cấp giấy chứng nhận nay được chỉ đinh bởi Bộ Nông
nghiệp va Phát triẻn Nông thôn nhưng không phải là cơ quan
nha nước). Trước khi cấp giấp chưng nhận, họ sẽ đi kiẻm tra vườn
cây va các thông tin cung cấp bởi chủ vườn. Các phòng cấp giấp
chưng nhận VietGAP phải chịu trách nhiệm kiẻm tra việc thực hiện
theo tieu chuẩn VietGAP. Các vườn vải được cấp chưng nhận
VietGAP phải ghi nhật ký việc sử dụng hoá học đẻ kiểm soát dịch
bệnh.
b.

Tình hình tiêu thụ trái vải thiều


Thông kê cho thấy, tieu thụ tại thị trường trong nước chiếm
đến khoảng 60% sản lượng (thị trường tieu thụ chủ yếu tại các tỉnh,
thanh phố Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phịng, Đà Nẵng, Thừa Thien
Huế, Hờ Chí Minh va các tỉnh phía Nam) trong khi xuất khẩu quả vải
tươi, qua


ché biến chiém khoảng 40% sản lương, trong đó xuất khẩu chủ yếu
sang thị trường Trung Quôc. Ngoai Trung Quôc, Việt Nam còn xuất
khẩu sang Lao, Campuchia, Maylaysia, Singapore, Nhật Bản, châu
Âu, Nga, Australia... nhưng sô lượng rất nhỏ.
Giá bán nội
điạ


năm 2018 tại tỉnh Bắc Giang, giá vải thiều loại 1

phổ biến từ 35.000đ- 40.000đ/kg, giá vải loại 2 từ 16.000đ 25.000đ/kg va giá vải loại xấu nhất (dùng đẻ chế biến các sản phẩm
nước ép, đóng hộp va sấy khô) từ 5.000đ - 10.000đ/kg; tại thanh phô
Hà Nội, giá vải dao động từ 25.000đ - 30.000đ/kg; tại thanh phố Hồ
Chí Minh va các tỉnh, thành phố thuộc vùng Đông - Tây Nam Bộ, giá
vải dao động từ 27.000đ - 35.000đ/kg tùy theo chất lượng quả vải.
Vè xuất khẩu, trái vải tươi của Việt Nam được xuất khẩu chủ
yếu sang Trung Quôc. Theo thông ke của Bộ Công Thương, khôi
lương quả vải tươi được xuất khẩu qua các cửa khẩu thuộc Lào
Cai, Lạng Sơn va Hà Giang tính đến hết ngay 08 tháng 7 năm 2018 là
86.400 tấn với trị giá là 151,2 triệu USD. Như vậy, khôi lượng quả vải
mùa vụ năm 2018 xuất khẩu qua các cửa khẩu bien giới phía Bắc
sang thị trường Trung Quôc vẫn tương đương mọi năm.
Giá xuất khẩu quả vải theo hợp đồng kinh té của doanh nghiệp
dao động từ 18.000 - 20.000 đ/kg. Còn giá bán tự do tại cửa khẩu có
xu hương giảm so với thời gian đầu vụ, dao động từ 13.000 - 15.000
đ/kg ở chính vụ, tieu thụ với sản lượng lớn trong khi một sô thương
lái trong nước đưa hang len bien giới đẻ bán tự do không có hợp
đồng kinh té nen bị khách hang ép giá. Giá bán vải loại 1 tại
vườn cho thương nhân Trung Quôc thu mua đẻ xuất khẩu có thời
điểm cao va dao động từ 20.000 - 35.000 đ/kg.
Từ ngay 18/4/2015, Australia đã cấp phép nhập khẩu trái vải tươi
của Việt Nam. Mùa vụ năm 2015, 32 tấn vải thiều Lục Ngạn lần đầu
tiên xuất khẩu thanh công sang thị trường Australia.


Đẻ xuất khẩu trái vải tươi sang các nước đòi hỏi kiểm dịch
khắt khe, vải của Việt Nam sẽ được chiéu xạ, xử lý nhiệt hơi hoặc
giữ lạnh đẻ diệt côn trùng gây bệnh trước khi xuất khẩu, sau đó sẽ

được cơ quan kiểm dịch của Việt Nam kiẻm tra va cấp giấy chứng
nhận trước khi xếp hang vao container lạnh đẻ xuất khẩu.

Hình 2. Quy trình xuất khẩu vải thiều Việt Nam
Nguồn:


5.2.

Kết quả nghiên cứu 2: Tình hình xuất nhập khẩu trái

vải thiều tại Australia
a.

Tình hình nhập khẩu

Tính đến nay, mới chỉ có 5 quôc gia la Việt Nam, Đai Loan, Nam
Phi, Trung Quôc va Thái Lan tiếp cận được thị trường vải thiều của Úc.
Tuy nhien, Nam Phi gần như không xuất khẩu vải sang Úc do trùng
mùa thu hoạch. Trung Quôc va Thái Lan được phép xuất khẩu vải vao
Úc từ năm 2004, Việt Nam được phép xuất khẩu vải từ năm 2015.
Sản phẩm của hai nước nay va Việt Nam được bán tại thị trường
Úc trong thời gian vải của Úc chưa đến kỳ thu hoạch.
Đôi với Úc, việc nhập khẩu trái vải từ các nước có mùa vụ ngược
với Úc mang đến một lợi thé tiềm năng cho nganh trồng vải của Úc
bởi người dùng sẽ có thói quen ăn vải tươi quanh năm. Tuy nhiên,
chất lương sản phẩm nhập khẩu kém sẽ ảnh hưởng đén các sản
phẩm của Úc trong trường hợp người tieu dùng không muốn ăn vải
nữa.
b.


Xu hướng phát triển thị hiếu người tiêu dùng

Thị trường Úc không phải là một thị trường nhập khẩu vải
lớn, nhưng vẫn có tiềm năng phát triẻn do hầu hết người tieu dùng Úc
chưa quen với hoặc không biết gì về vải, hương vị, cách ăn. Lượng
tieu thụ tập trung chủ yếu ở người Á đông vôn đã quen va thích trái
vải. Thị
trường tieu thụ hiện nay mới chỉ tập trung các thanh phố

như

lơń Sydney, Melbourne, Darwin…
Theo kết quả nghien cứu, nhu cầu tieu thụ vải thiều tại thị trường
Australia còn rất lớn. Kết quả cụ thẻ la:
Hầu hết người tiêu dùng không quen hoặc không nhận biết
được quả vải, hương vị, cách chế biến va ăn vải như thé nao;


Người mua vải chủ yếu là những người có nguồn
gôc Châu Á, là những người biết va có sở thích ăn vải từ trước;


Người tieu dùng có khuynh hướng thích vải có hạt nhỏ
hơn va cùi day hơn (tỷ lệ cùi so với hạt cao hơn).
Gần đây, theo sô liệu khảo sát Homescan của ACNielsen, cho
biét khuynh hướng mua va tieu dùng quả vải:
Có 11,2% sơ hộ gia đình mua vải quả;
Bình qn mỗi hộ chi 6,6 AUD (đẻ mua vải quả;
Mỗi hộ gia đình mua 2 lần mỡi mùa;

Mỡi lần đi mua vải chi 3,3 AUD;
Hộ gia đình thường chi tiền mua vao dịp Lẽ giáng sinh va
vào thời
gian sau lẽ giáng sinh;
Các cặp vợ chồng đã ổn định va các cặp lớn tuổi mua
lương vải
chiém 40% tổng sô vải bán ra.
c.

Giá cả

Giá vải của Úc tương đôi cao. Hiện tại, giá bán tại cổng trang
trại là 6,5 AUD/kg (xấp xỉ 105.000 VNĐ/kg). Giá bán tại các sieu thị
len đến trên dưới 16 AUD/kg (xấp xỉ 260.000 VNĐ/kg). Tuy nhien,
giá cả dao động tuỳ theo thời điẻm thu hoạch:
Mùa vải đến sớm ở vùng bắc Queensland với nguồn cung
hạn chế sẽ lam cho giá cao;
Khi sản lượng gia tăng ở tất cả các khu vực trồng vải từ
bắc cho tới đông nam Queensland giá bắt đầu giảm nhanh chóng va
giá thấp nhất rơi vao dịp Giáng sinh va năm mới;
Giống vải cao cấp hạt nhỏ như FZS va Salathiel luôn được
giá cao trong suôt mùa vụ;


Giá được cải thiện chút ít vao cuôi mùa khi khôi lượng
tren thị trường thấp va vao dịp Tét âm lịch khi lượng cung cho thị
trương Á đông tăng mạnh.
5.3.

Kết quả nghiên cứu 3: Một số thách thức trong hoạt


động xuất khẩu vải thiều Việt Nam vào thị trường Australia.
Các thách thức trong hoạt động xuất khẩu vải thiều sang thị
trường Australia ma Việt Nam đang phải đôi mặt xuất phát từ cả phía
Việt Nam va Australia
5.3.1.

Các thách thức đến từ phía Australia: có rất nhiều

thách thức ma Việt Nam đang gặp phải xuất phát từ phía Australia, nổi
bật nhất la hang rao phi thuế quan (các rao cản kĩ thuật) va thách thức
về hạn ngạch.
Úc là một trong những nước có các qui định về kiểm dịch ngặt
nghèo nhất trên thé giới. Úc đã xây dựng khuôn khổ chính sách về an
toan sinh học nhằm bảo vệ nền nông nghiệp trước những rủi ro do côn
trùng có hại xâm nhập va phát tán. Tiến trình phân tích rủi ro nhập
khẩu (IRA) là một phần quan trọng trong chính sách an toan sinh học
của Úc. Trước khi cân nhắc việc cho phép nhập khẩu một sản phẩm
mới, việc phân tích rủi ro nhập khẩu được tiến hanh một cách
chính thức. Néu phát hiện có nguy cơ rủi ro, các biện pháp kiẻm
soát rủi ro sẽ được đè xuất đẻ làm giảm thiểu rủi ro ở mức có thẻ
kiẻm soát được, trong trường hợp không thẻ giảm thiểu nguy cơ rủi
ro, sản phẩm mới sẽ không được cấp phép nhập khẩu vao nước Úc.
Trong quá trình phân tích rủi ro nhập khẩu, Bộ Nông nghiệp Úc sử
dụng các chuyen gia về khoa học va kỹ thuật va các tư vấn gia cùng
các ben có lien quan đẻ đánh giá va đè xuất các biện pháp kiểm dịch
động thực vật. Bộ Nông nghiệp dựa tren báo cáo của các chuyen gia
sẽ quyết định việc cấp phép hoặc không cấp phép nhập khẩu va chịu
trách nhiệm thực hiện các biện pháp quản lý rủi ro phù hợp.
10



Tính đến thời điẻm hiện trước năm 2015, Úc chưa chấp nhận cho
nhập khẩu bất cứ một loại trái cây tươi nao của Việt Nam vao Úc.
Theo quy định của phía Úc, trước khi cho phép nhập khẩu mặt
hang hoa quả tươi phải tién hành kiẻm tra, khảo sát vùng trồng, cơ
sở đóng gói, cũng như làm việc với các đơn vị quản lý tại địa
phương về các nội dung lien quan đến quản lý dịch hại tại vườn
trồng va tièm năng xuất khẩu sản phẩm.
Năm 2015, Australia bắt đầu cho thí điểm nhập khẩu trái vải tươi
của Việt Nam sau rất nhiều năm xem xét hồ sơ.
a. Rào cản về vấn đề đăng ký các cơ sở xử lý, đóng gói

và các quy trình kiểm tra


Nội dung :
Tất cả các khu vực xử lý va đóng gói phải được vệ sinh

thường xuyen (hang ngay phải dọn sạch trái cây bị hỏng, thâm,
nám, nhiẽm sâu bệnh). Tại các địa điểm nay phải có lưới chắn đẻ
sinh vật gây hại từ bên ngoai không thẻ xâm nhập vao ben trong hoặc
không thẻ thâm nhập từ khu vực chưa xử lý sang khu vực đã được xử
lý. Trái cây phải được đảm bảo an toan trong st quá trình vận
chủn từ các vườn trồng đến cơ sở xử lý, đóng gói cũng như khi
trái cây được bảo quản tại các cơ sở xử lý nay.
Các thiết bị xử lý va đóng gói phải có hệ thông lưu trữ dữ liệu hay
các bản ghi đẻ có thẻ truy xuất nguồn gôc lô hang được xử lý, đóng
gói, kể cả quá trình vận chuyẻn từ khi được đưa đến các cơ sở xử
lý, đóng gói cho đến khi xuất khẩu.

Tất cả các cơ sở xử lý va đóng gói vải xuất khẩu sang Úc cần
phải được đăng ký, kiẻm tra va thông qua bởi Cục Bảo vệ thực vật
trước khi bắt đầu mỗi vụ thu hoạch. Danh sách các cơ sở đăng ký
phải được gửi cho Bộ Nông nghiệp Úc. Danh sách nay phải được
Cục Bảo vệ thực vật cập nhật thường xuyen.


Cục Bảo vệ thực vật hoặc một cơ quan có thẩm quyền khác chịu
trách nhiệm kiẻm tra các cơ sở xử lý va đóng gói vao mỗi đầu mùa vụ
va va có thẻ kiểm tra giữa mùa vụ nếu thấy cần thiết, nhằm đảm bảo
các cơ sở xử lý va đóng gói được trang bị đầy đủ va hệ thống có thể
đáp ưng được các yêu cầu kiẻm dịch thực vật của Úc. Việc kiẻm tra
bao gồm các yeu cầu về đăng ký, các yeu cầu đôi với người trồng, quy
trình xử lý, đóng gói, đảm bảo an toan cho trái vải, lưu giữ va tiến hanh
các biện pháp kiẻm dịch. Khi có yêu cầu, các báo cáo kiểm tra của
Cục Bảo vệ thực vật phải được gửi cho Bộ Nông nghiệp Úc.
Các cơ sở xử lý va đóng gói sẽ được yeu cầu xác định từng
vườn trồng, cùng với hệ thông số va việc xác đinh quả vải từ
vườn trồng nao, bằng việc đánh dấu mã sô đăng ký của mỗi vườn
trồng len thùng các-tông đựng hang hoặc giá đỡ khôi hang.
Việc xử lý lạnh (CT), xử lý nhiệt hơi (VHT) hoặc chiếu xạ (IT) để
diệt/khử ruồi giấm, ruồi đục quả va/hoặc rệp sáp chỉ được thực hiện
với các thiết bị xử lý/đóng gói đã được đăng ký.
Khi áp dụng biện pháp kiểm soát vườn trồng, việc kiểm tra đẻ xác
nhận không có ruồi đục quả trước khi xuất khẩu phải được thực hiện
tại cơ sở xử lý va đóng gói đã được đăng ký.


Thách thức đôi với phía Việt Nam
Những yeu cầu khắt khe của Australia đôi với các cơ sở xử lý,


đóng gói va các quy trình kiểm tra la những thách thức lớn ma Việt
Nam đang gặp phải. Các yeu cầu về vấn đề vệ sinh của các cơ sở xử
lý, đóng gói không phải vấn đề lớn đôi với phía Việt Nam. Tuy nhien,
yeu cầu của phía Australia về hệ thông lưu trữ dữ liệu để truy xuất
nguồn gôc lô hang được xử lý, đóng gói, kể cả quá trình vận chuyển
từ khi được đưa đến các cơ sở xử lý, đóng gói cho đến khi xuất khẩu
la một vấn đề lớn đôi với phía Việt Nam. Không chỉ quả vải thiều ma
tất cả các mặt hang của Việt Nam hiện nay xử lý rất kém vấn đề truy


xuất nguồn gôc, chưa có hệ thông lưu trữ dữ liệu đồng bộ. Mặc dù
vấn đề về truy xuất nguồn gôc không phải vấn đề mới, tuy nhien hiện
nay Việt Nam vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề nay.
b. Rào cản về vấn đề chiếu xạ trước xuất khẩu


Nội dung:
Nếu phía Việt Nam áp dụng biện pháp xử lý chiếu xạ đẻ diệt ruồi

giấm, ruồi đục quả hoặc rệp sáp thì cần áp dụng lièu/cường độ tia
chiéu tôi thiểu đẻ giảm thiểu rủi ro tren cơ sở các quy định kiẻm dịch
của phía Việt Nam, cụ thẻ la:
-

Tia chiéu có cường độ là 150 Gy đẻ diệt ruồi giấm

(Bactrocera cucurbitae va Bactrocera dorsalis);
- Tia chiéu có cường độ là 400 Gy đẻ diệt ruồi đục quả
(Conopomorpha


sinensis)

va

rệp

sáp

(Dysmicoccus

lepelleyi,

Paracoccus interceptus, Paracoccus lilacinus, Paracoccus litchi,
Paracoccus

minor,

Pseudococcus

cryptus,

Pseudococcus

jackbeardsleyi).
Cục Bảo vệ thực vật phải tiến hanh kiểm tra cơ sở chiếu xạ để
đảm bảo tuân thủ quy định phía Australia đưa ra.
Bộ Nông nghiệp Úc sẽ yeu cầu tiến hanh kiẻm tra đơi với hệ
thơng/quy trình chiếu xạ trước khi xuất khẩu.



Thách thức đôi với phía Việt Nam
Vải thiều Việt Nam trước khi xuất khẩu sang thị trường Australia

bắt buộc phải chiếu xạ để loại bỏ côn trùng, mầm bệnh. Các trung tâm
chiếu xạ hiện nay của Việt Nam có thể đảm bảo được các yeu cầu kỹ
thuật ma Australia yeu cầu. Tuy nhien công suất của các trung tâm rất
hạn chế, khi trung tâm chiếu xạ Ha Nội bắt đầu đi vao hoạt động, một
ngay công suất của trung tâm chỉ đạt tôi đa 30 tấn/ ngay trong khi nhu
cầu đăng kí chiếu xạ của các doanh nghiệp len tới 50 tấn/ngay. Các


trung tâm chiếu xạ với công suất thấp đang la vấn đề đôi với hoạt
động xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang thị trường Australia, việc các
trung tâm có công suất thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu khiến cho
thời gian xuất khẩu quả vải thiều bị kéo dai, dẫn đến hiệu quả kinh tế
giảm sút.
c. Thách thức trong khâu bảo quản kho hàng


Nội dung
Trái cây đã va đang đóng gói phải được bảo vệ tránh lây nhiẽm

sinh vật gây hại trong quá trình đóng gói va sau khi đóng gói, trong khi
đẻ ở kho hang va trong khi vận chuyẻn giữa các địa điẻm (ví dụ từ nơi
đóng gói đến kho lạnh, đến nơi kiểm tra, nơi tập kết hang đẻ
xuất khẩu...).
Trái cây xuất khẩu sang Úc, đã được Cục Bảo vệ thực vật kiẻm
tra va chứng nhận, hoặc đã được xử lý, cần phải được đảm bảo
an toan nhằm tránh lẫn với các loại trái cây xuất khẩu đi các nước

khác hoặc đẻ tiêu thụ trong nước va phải được bảo quản ở trong
kho cho đến khi được xuất khẩu. Việc nay có thẻ được thực hiện
bằng cách để rieng hoặc cách ly trái cây được xuất khẩu sang Úc ở
kho rieng, được che phủ va cách ly cơ học với các loại trái cây khác
(cách ít nhất 1 mét trong môi trường nhiệt độ bình thường hoặc
cách 10cm trong phòng lạnh), ngăn cách bằng lưới hoặc giá đỡ
được quấn/bọc bằng nhựa, hoặc bằng cách đẻ các thùng các-tông
đã được niêm phong trong kho lạnh ở nhiệt độ thấp trước khi được
xép/chuyển len các công-te-nơ.
Theo cách khác, trái cây đã đóng gói có thẻ được vận chuyẻn trực
tiép từ nơi đóng gói đến thẳng các công-te-nơ đã được chỉ đinh,
các
công- te-nơ nay sau đó được niêm phong va không được
mơ,̉ khi hang tới Úc.

cho đén


Hang hóa phải được đảm bảo an toan cho đến khi được cơ
quan kiẻm dịch Úc cho phép giải phóng hang.


Thách thức đôi với Việt Nam



Các quy định về bảo quản vải thiều trong kho hang của phía
Australia khá khắt khe, yeu cầu cách ly với trái cây xuất sang nước
khác va trái cây tieu thụ trong nước với những yeu cầu về khoảng
cách cụ thể. Nhũng quy định nay không quá khó đôi với Việt Nam, tuy

nhien để đáp ứng được các yeu cầu nay, địi hỏi cần nỡ lực hơn trong
khâu quản lý, ben cạnh đó chi phí kho bãi cũng sẽ tăng them.
d. Thách thức về thủ tục kiểm định thực vật của bộ Nông

nghiệp Australia.
Nội dung



Khi hang đến cảng đầu tien của Úc, Bộ Nông nghiệp Úc sẽ tiến
hanh kiểm tra từng lô hang đồng thời kiẻm tra các Giấy chưng nhận
kiẻm dịch thực vật quôc té gôc của lô hang va các chứng từ, giấy tờ
lien quan trước khi cho phép giải phóng hang.
Các nhân vien của Bộ Nông nghiệp Úc sẽ tiến hanh kiểm tra đôi
với rệp sáp, ruồi đục quả, ruồi giấm va các loại sinh vật gây hại khác
thuộc đôi tượng của kiểm dịch Úc cũng như các chất gây ô nhiẽm.
Nếu các lô hang bị phát hiện không đáp ứng các quy định kiểm
dịch của Úc thì nhà nhập khẩu sẽ được phép áp dụng các biện pháp
xử lý tại chỗ (nếu các biện pháp xử lý đó là phù hợp với việc diệt trừ
các sinh vật gây hại đã được phát hiện) hoặc tái xuất hoặc tieu hủy lô
hang.
Nếu phát hiện có các sinh vật gây hại cịn sơng trong lô hang vải
tươi thì Bộ Nông nghiệp Úc có thẻ đình chỉ không chấp nhận đơn vị
cung cấp dịch vụ xử lý va các cơ sở đóng gói va yeu cầu Cục Bảo vệ
thực vật tiến hanh điều tra va áp dụng các biệp pháp khắc phục.
Bộ Nông nghiệp Úc có quyền tiến hanh kiẻm tra hệ thông quản lý
rủi ro đôi với trái vải của Việt Nam nhằm đảm các biện pháp khắc phục


đã được thực hiện trước khi cho phép thương mại mặt hang nay

tiếp tục.
Nếu phát hiện một sinh vật nao đó ở trái vải tươi từ Việt Nam
nhưng Báo cáo cuôi cùng lại chưa có đánh giá vè sinh vật đó thì
cần phải tién hành đánh giá đẻ xác định tình trạng kiểm dịch đờng
thời áp dụng các biện pháp kiểm dịch nếu thấy cần.
Nếu phát hiện một sinh vật gây hại nao đó gây quan ngại ở góc
độ kiểm dịch, nhưng chưa được neu trong Báo cáo cuôi cùng thì có
thể phải tiến hành rà soát lại thương mại mặt hang nay nhằm đảm
bảo rằng các biện pháp hiện đang được áp dụng vẫn cho phép Úc
duy trì hang rào bảo vệ bằng biện pháp kiểm dịch ở mức độ phù hợp.


Thách thức đôi với phía Việt Nam
Australia la quôc gia có những quy định rất khắt khe về vấn đề

kiểm dịch đôi với trái vải thiểu Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường
nay. Công tác kiểm dịch của Australia khi đôi với quả vải thiều cũng rất
khắt khe, nhiều thủ tục khiến cho tời gian quả vải phải lưu kho kéo dai,
tăng chi phí bảo quản va gián tiếp lam tăng tỉ lệ quả hư hỏng.
e. Rào cản về hạn ngạch

Nganh trồng vải thiều của Úc đã phát triển từ một nganh non tre
vao
giưã

năm 70 của thé kỷ trước cho đến nay đã có hơn 300 người

trồng vải thiều tren diện tích hơn 800 ha, với khoảng 4.000 cây vải
thiều, sản xuất khoảng 2.000 - 3.000 tấn vải, trị giá khoảng 10 - 15
triệu AUD mỗi năm. Sản lượng dự báo vẫn ở mức tương tự trong

vòng 5 năm tới.
Tuy la một nganh nhỏ với sản lượng va kim ngạch xuất khẩu
không đáng kể so với các nganh hoa quả khác nhưng nganh trồng vải
của Australia đang hoạt động khá bai bản.


Vụ mùa thu hoạch vải thiều của Australia bắt đầu từ cuôi tháng 10
đến giữa tháng 3.
Australia cũng la quôc gia trồng vải, tuy sản lượng nhỏ nhưng
cũng la nganh đem lại giá trị kinh tế. Để đảm bảo lợi ích cho người
trồng vải, Chính phủ Australia chỉ chấp nhận nhập khẩu vải thiều của
các nước khác ngoai thời gian thu hoạch vải của nước mình. Điều nay
hạn chế sản lượng vải thiều Việt Nam có thể xuất khẩu sang Australia,
khiến lợi nhuận kinh tế bị hạn chế.
5.3.2. Các thách thức đến từ phía Việt Nam
a. Bị cạnh tranh với nhiều nước khác

Tính đến nay, Australia chấp nhận nhập khẩu trái vải tươi của 5
nước bao gồm có Việt Nam. Mặc dù trái vải tươi của Việt Nam có chất
lượng tôt tuy nhien lại khó cạnh tranh về giá so với các đôi thủ do phải
chịu rất nhiều chi phí.
Cụ thể vao năm đầu tien Việt Nam xuất khẩu vải vao thị trường
Australia, tổng giá thanh trái vải tươi của Việt Nam cập cảng hang
không Australia la 8 AUD/kg trong khi vải Trung Quôc chỉ khoảng 2,5 3AUD/kg. Nen mặc dù vải Việt Nam được người tieu dùng Australia
đánh giá có chất lượng cao hơn, ngon hơn nhưng giá đắt hơn nen
lượng tieu thụ rất chậm.
Một trong những nguyen nhân khiến giá vải thiều Việt Nam đi
Australia đội giá cao la do chi phí vận chuyển va chiếu xạ. Trong khi
vải thiều được thu mua hoan toan ở các tỉnh miền Bắc nhưng các
doanh nghiệp phải vận chuyển vao thanh phô Hồ Chí Minh để chiếu

xạ dù Ha Nội cũng có trung tâm chiếu xạ.
Doanh nghiệp Việt Nam muôn xuất khẩu vải cũng gặp rất nhiều
khó khăn do vướng quá nhiều thủ tục. Trong đó vướng mắc lớn nhất
la trung tâm chiếu xạ tại Ha Nội từ chôi yeu cầu kiểm tra, giám sát an
ninh, dán tem an ninh tren từng kiện hang sau khi chiếu xạ va yeu cần


doanh nghiệp tự lien hệ với các cơ quan chức năng để được giải
quyết.
Chi phí vận tải vận tải quá cao cũng la một trong những nguyen
nhân khiến cho giá thanh trái vải tươi xuất khẩu sang Australia bị đội
giá. Để đảm bảo độ tươi của quả vải, doanh nghiệp ưu tien sử dụng
dịch vụ của Vietnam Airlines do có nhiều đường bay thẳng. Tuy nhien
chi phí xử lý đôi với quả vải tươi (hang mau hỏng) của Vietnam
Airlines cao hơn từ 30 – 40 cent/kg so với hang hoá thông thường va
so với các hãng bay khác (Thai Airways thu 10 cent/kg). Năm 2005 –
năm đầu tien Australia chấp nhận nhập khẩu quả vải tươi của Việt
Nam, nhiều doanh nghiệp phải chấp nhận thua lỗ để tiếp thị quả vải do
cước vận chuyển chiếm hơn 2/3 giá thanh quả vải.
b. Khâu bảo quản và tiêu thụ vải thiều còn nhiều bất cập

Vải thiều la một loại quả khó bảo quản, lại chín rộ trong thời gian
ngắn nen vấn đề tieu thụ la khâu rất quan trọng. Hiện nay vấn đề tieu
thụ của người dân còn khá thụ động, chưa kết nôi được giữa các
miền cũng như các bạn hang. Phương thức mua bán vẫn theo hình
thức cở điển, chủ yếu la chờ các thương lái Trung Quôc đến mua tại
vườn nen hiệu quả rất thấp. Ben cạnh đó, việc phụ thuộc hoan toan
vao thương lái Trung Quôc sẽ để xảy ra tình trạng được mùa nhưng
mất giá do thương lái Trung Quôc không sang thu mua.
Các khâu thu hái, bảo quản, chiếu xạ cũng đang có rất nhiều bất

cập khiến cho lợi nhuận kinh tế bị ảnh hưởng. Trong hơn 40 tấn vải
được đưa sang Australia trong năm đầu tien thử nghiệm, không phải
tất cả đều giữ được chất lượng, mau sắc tươi ngon cùng giá thanh re.
Nguyen nhân la có rất ít lô hang vượt qua được sự kiểm duyệt do việc
bảo quản, cắt gôc, chiếu xạ chưa đạt yeu cầu dẫn đến bị hư hỏng rất
nhiều va bị từ chôi nhập hang.


c. Vấn đề bảo vệ và nhận diện thương hiệu vải thiều Việt

Nam chưa được chú trọng
Thương hiệu vải thiều Việt Nam chưa thực sự được nhận dạng ở
nước ngoai. Những năm đầu tien trái vải tươi được chấp nhận xuất
khẩu sang Australia, Thương vụ Việt Nam tại Australia đã chạy chiến
dịch “Người Việt Nam dùng hang Việt Nam” để quảng bá trái vải Việt
Nam tren đất Australia. Tuy nhien việc nay chỉ có thể quảng bá thương
hiệu vải thiều Việt Nam đến người Việt – những người đã quen thuộc
với trái vải Việt Nam. Trong khi đó nếu như có thể lam tôt vấn đề
quảng bá thương hiệu vải thiều Việt Nam đến nhiều đơi tượng hơn
nữa thì việc tieu thụ sẽ được cải thiện đáng kể.
6.

KẾT LUẬN
Hoạt động xuất khẩu vải thiều đem lại hiệu quả kinh tế cao cho

Việt Nam va Australia la thị trường giau tiềm năng ma Việt Nam có khả
năng khai thác.
Tuy nhien hoạt động xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang Australia
đang gặp phải rất nhiều thách thức, xuất phát từ phía Việt Nam va
phía Australia. Các thách thức xuất phát từ phía Việt Nam la các vấn

đề về năng lực cạnh tranh thấp, vấn đề bảo quản chưa tôi ưu va
vaasn đề về bảo vệ vao nhận diện thương hiệu rất kém. Đôi với phíc
Australia, các thách thức nổi bật la các hang rao phi thuế quan cùng
với hạn chế về hạn ngạch xuất khẩu.
Để thAustralia đẩy hoạt động xuất khẩu vải thiều Việt Nam sang
thị trường Australia cần nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc tôi ưu
hoá giá thanh trái vải thiều:
Đầu tư hoan thiện các trung tâm chiếu xạ miền Bắc để giải
quyết vấn đề chi phí bảo quản, vận chuyể khi phải chiếu xạ tại trung
tâm chiếu xạ ở thanh phô Hồ Chí Minh. Việc đưa vao hoạt động các


trung tâm chiếu xạ ở miền Bắc sẽ giúo cho doanh nghiệp xuất khẩu
giảm được chi phí từ 15 -16 triệu đồng/tấn, rút ngắn được thời gian va
tiết kiệm được chi phí do giá chiếu xạ ở miền Bắc re hơn so với miền
Nam một nửa,
Các doanh nghiệp xuất khẩu nen đam phán với hãng hang
không, cụ thể la hãng hang không sẽ giảm 30% cước vận chuyển quả
vải tươi tren các đường bay thẳng tới Australia đôi với các doanh
nghiệp có cam kết sử dụng dịch vụ trong thời gian dai, góp phần hạ
giá thanh, tăng sức cạnh tranh cho quả vải thiều Việt Nam.
Kiểm tra, ra soát thật cẩn thận tất cả các khâu từ cây trồng
cho đến thu hái, cắt gôc, chiếu xạ theo đúng yeu cầu của phía
Australia, tránh tình trạng hang bị trả về do không đúng quy định hoặc
bị hư hỏng nhiều.

20




×