Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong tư tưởng hồ chí minh và ý nghĩa của nó đối với việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (760.88 KB, 113 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TRẦN THỊ HỒNG THU

MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC
VÀ QUỐC TẾ TRONG TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA CỦA NĨ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------

TRẦN THỊ HỒNG THU

MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC
VÀ QUỐC TẾ TRONG TƢ TƢỞNG
HỒ CHÍ MINH VÀ Ý NGHĨA CỦA NĨ
ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. VŨ VĂN GẦU

TP. HỒ CHÍ MINH - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn khoa học của PGS.TS.Vũ Văn Gầu. Các số liệu trong luận văn là trung thực,
đảm bảo tính khoa học, khách quan và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng 8 năm 2014
Tác giả

Trần Thị Hồng Thu


1

MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................. 1
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 2
Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG CỦA SỰ THỐNG NHẤT
BIỆN CHỨNG GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH ....................................................................................................................... 12
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ............................................................... 12
1.1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 12
1.1.2. Cơ sở thực tiễn ....................................................................................... 16
1.2. NỘI DUNG CỦA SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA DÂN TỘC

VÀ QUỐC TẾ TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH ..................................... 25
1.2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân tộc và quốc tế ............................. 25
1.2.2. Sự thống nhất biện chứng giữa dân tộc và quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh .......................................................................................................... 33
Chƣơng 2. VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN
CHỨNG GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG HỘI
NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY ............................................................................... 60
2.1. BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY ..................................................................................................................... 60
2.1.1. Bối cảnh thế giới ................................................................................... 60
2.1.2. Bối cảnh Việt Nam................................................................................ 71
2.2. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẬN DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC
TẾ VỚI VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỒN KẾT DÂN TỘC VÀ
ĐỒN KẾT QUỐC TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ............................................................................................... 75
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 104


2

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, con ngƣời trong mọi thời đại đã
biết liên kết với nhau, dựa vào nhau và gắn bó chặt chẽ với nhau. Xu thế
phát triển của lịch sử xã hội loài ngƣời là các nƣớc, các dân tộc ngày càng
xích lại gần nhau, có quan hệ ngày càng sâu rộng. Sự liên minh, hợp tác
giữa các quốc gia, dân tộc đó là một hiện tƣợng lịch sử- xã hội phát triển có
tính quy luật. Dân tộc Việt Nam nhƣ bao dân tộc khác cũng không nằm

ngồi quy luật đó. Hơn nữa, trong q trình xây dựng và phát triển đất nƣớc,
dân tộc Việt Nam luôn phải chống lại những kẻ thù xâm lƣợc lớn mạnh hơn
gấp nhiều lần. Phát huy sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần vốn có của
dân tộc, đồng thời tận dụng tối đa sức mạnh của thời đại trở thành điều kiện
tiên quyết giúp Việt Nam chiến thắng trong các cuộc chiến tranh đó. Tƣ
tƣởng chiến lƣợc đó trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử dựng
nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam.
Vào những năm cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, Việt Nam rơi vào tình
cảnh đất nƣớc mất độc lập, nhân dân mất tự do. Thực tiễn cách mạng Việt
Nam đặt ra yêu cầu là cần phải có một con đƣờng giải phóng dân tộc đúng
đắn. Xuất phát từ yêu cầu đó, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã nhận thức sâu sắc chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong
tƣ tƣởng lý luận của Mác và Lênin. Dƣới ánh sáng của chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh đã nêu cao khẩu hiệu độc lập dân tộc, kêu gọi đại đoàn
kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ cách mạng, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân
dân. Mặc dù, với Hồ Chí Minh, vấn đề dân tộc và độc lập dân tộc luôn đƣợc
xem là vấn đề cốt lõi của cách mạng Việt Nam, nhƣng Ngƣời không coi nhẹ


3

vấn đề quốc tế, mà luôn đặt cách mạng dân tộc Việt Nam trong qũy đạo
chung của cách mạng thế giới. Trong mối quan hệ dân tộc và quốc tế ấy, Hồ
Chí Minh khơng tuyệt đối hóa bất cứ yếu tố nào. Ngƣời coi yếu tố quốc tế
có ý nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng, nhƣng yếu tố độc lập tự
chủ, tự lực, tự cƣờng luôn giữ vai trị quyết định mọi thắng lợi. Ngƣời nói:
Vì nền hịa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những ngƣời bị bóc lột thuộc
mọi chủng tộc cần đồn kết lại và chống bọn áp bức.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập và tồn cầu hóa, nhiều vấn đề đặt ra có
liên quan đến vận mệnh của các dân tộc. Đó là giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy

cơ chiến tranh hạt nhân hủy diệt, bảo vệ môi trƣờng sống, hạn chế bùng nổ
dân số, phòng ngừa và đẩy lùi bệnh tật hiểm nghèo,…Con đƣờng giải quyết
có hiệu quả nhất các vấn đề trên là phối hợp sức lực và tài năng với ý thức,
trách nhiệm cao cả của tất cả các dân tộc trên thế giới. Do đó, mỗi quốc gia,
dân tộc dù lớn, nhỏ, giàu, nghèo, phát triển hay đang phát triển, muốn tồn tại
và phát triển cũng khơng thể đứng ngồi tiến trình và xu thế tất yếu đó. Việt
Nam trong q trình hội nhập, tồn cầu hóa hiện nay, bên cạnh những thuận
lợi, những thành tựu đáng tự hào cũng đang đứng trƣớc vô vàn những khó
khăn và thách thức về cả kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Thực tế đó đặt
ra yêu cầu cho Việt Nam là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và
quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo thành sức
mạnh tổng hợp, đƣa đất nƣớc thoát khỏi những khó khăn, thách thức, tiếp tục
phát triển khẳng định mình trƣớc tồn thế giới.
Nắm bắt rõ thực trạng của đất nƣớc trong những năm qua, Đảng ta luôn
coi vấn đề dân tộc và quốc tế, đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là vấn đề chiến lƣợc cách mạng, là
nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm
bảo cho thắng lợi của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tƣ tƣởng chiến


4

lƣợc đó đƣợc thể hiện trong nghị quyết của các Đại hội của Đảng: Đại hội VI
(1986), Đại hội VII (1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X
(2006), Đại hội XI (2011). Tƣ tƣởng chủ đạo của Đảng ta là: Khơi dậy và
phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của dân tộc. Xuất phát từ lợi ích dân
tộc, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ
đƣợc để xây dựng và phát triển đất nƣớc. Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) tại Đại
hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Đảng ta đã rút ra những bài

học kinh nghiệm lớn, trong đó khẳng định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nƣớc với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần
hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết
hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”.[14; tr 66].
Xuất phát từ thực trạng và đòi hỏi tất yếu khách quan của đất nƣớc, việc
nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và
quốc tế trong giai đoạn hiện nay là vấn đề cấp thiết mang ý nghĩa chiến lƣợc,
quyết định đến việc thực hiện thắng lợi mục tiêu của Việt Nam là trở thành
một nƣớc xã hội chủ nghĩa dân giàu, nƣớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Để giải quyết tốt vấn đề này, chúng ta cần phải đứng vững trên lập
trƣờng quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, dƣới
sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ tất cả những lý do trên tác giả
quyết định chọn đề tài “Mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong tư tưởng
Hồ Chí Minh và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề biện chứng giữa dân tộc và
quốc tế là một vấn đề triết học chính trị, triết học xã hội hết sức phức tạp và


5

nhạy cảm, nhất là trong bối cảnh quốc tế luôn biến động, đầy mâu thuẫn và
đa chiều hiện nay. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học, nhà lý luận cả trong và ngoài nƣớc.
Khi bàn về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, các cơng trình nghiên
cứu của các nhà khoa học, nhà lý luận chủ yếu tập trung nghiên cứu theo ba
hƣớng cơ bản sau đây:
Hƣớng thứ nhất: Bàn về vấn đề dân tộc và quốc tế, mối quan hệ giữa vấn

đề dân tộc và vấn đề quốc tế nói chung. Theo hƣớng này, các nhà mácxít
ngồi nƣớc tập trung vào việc tìm hiểu, trình bày các đặc điểm của đấu tranh
giai cấp trong thời đại ngày nay, mối quan hệ giữa các dân tộc, sự thống
nhất giữa các giá trị nhân loại chung, những mối quan tâm toàn cầu và vấn
đề xu thế vận động của lịch sử. Hƣớng nghiên cứu này có các tác phẩm nhƣ:
cuốn “Biện chứng của cái đơn nhất, cái riêng và cái chung” của
A.B.Septulin, Nxb Đại học Mácxcơva xuất bản năm 1973; cuốn “Chủ nghĩa
Mác và vấn đề dân tộc” của B.A Tsaghin, Nxb Tiến bộ, Mácxcơva, xuất
bản năm 1986.
Trong “Biện chứng của cái đơn nhất, cái riêng và cái chung” , tác giả đã
trình bày và phân tích các cặp phạm trù của phép biện chứng và vận dụng nó
để giải thích mối quan hệ giai cấp, dân tộc và thời đại trong bối cảnh Liên
Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn trong “Phép biện chứng duy vật”,
các tác giả đã tập trung phân tích các vấn đề của sự phát triển xã hội và vai
trò của sự nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích giai cấp, dân tộc
và nhân loại với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện những diễn
biến phức tạp của đời sống chính trị quốc tế.
Ở Việt Nam, bàn về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong thời gian
qua đã có nhiều cơng trình nghiên cứu nhƣ: “Vấn đề dân tộc, giai cấp và
toàn nhân loại” của Vũ Hiền Và Ngơ Mạnh Lân, Nxb. Chính trị quốc gia,


6

Hà Nội, xuất bản năm 1995; “Quan hệ giai cấp- dân tộc- quốc tế” của Trần
Hữu Tiến , Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, xuất bản năm 2002; “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên
quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay” do Phan Hữu Dật chủ biên, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2001.
Trong các cơng trình đó, “Vấn đề dân tộc, giai cấp và tồn nhân loại”

của Vũ Hiền và Ngơ Mạnh Lân, qua các chƣơng với tựa đề: Thế giới có vấn
đề; Vấn đề dân tộc đang nổi cộm; giai cấp cũng là vấn đề rất cấp bách; cần
nhận thức và giải quyết cho đúng vấn đề nhân loại; Biện chứng và các mối
quan hệ, các tác giả đã khẳng định vấn đề dân tộc, giai cấp và nhân loại là
những vấn đề vừa có tính chiến lƣợc vừa có tính thời sự cấp bách. Do đó cần
phải có sự nhận thức và giải quyết cho đúng vấn đề này. Cũng tập trung giải
quyết vấn đề trên phải kể đến “Quan hệ giai cấp- dân tộc- quốc tế” của Trần
Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn. Với 3 chƣơng và phần
kết luận, các tác giả đã trình bày một cách khá khái quát về vấn đề: Vấn đề
dân tộc; Quan điểm Mác- Lênin Và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và quan hệ giai cấp – dân tộc; Thời đại hiện nay và quan hệ giai cấp dân tộc;
Quan hệ dân tộc- giai cấp- quốc tế trong cách mạng Việt Nam. Các tác giả
khẳng định: Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi
và cho phép kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp nhuần
nhuyễn các yếu tố giai cấp, dân tộc, quốc tế để tạo sức mạnh tổng hợp to lớn
đƣa sự nghiệp cách mạng lớn lên, từng bƣớc thực hiện mục tiêu dân giàu,
nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết hợp nhuần nhuyễn
giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, phát huy cao nội lực và tranh thủ tối
đa nguồn lực bên ngồi, đó là chìa khóa thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
cốt lõi của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh [84; tr172- 173].


7

Hƣớng thứ hai: Tập trung giải quyết vấn đề dân tộc và quốc tế, mối
quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo hƣớng
nghiên cứu này thì có các cơng trình nhƣ: “Chiến lược đại đồn kết Hồ Chí
Minh”của PGS. Phùng Hữu Phú (chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, xuất bản năm 1995;“Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc” của Nguyễn Thế Thắng, Nxb. Lao động, Hà Nội, xuất

bản năm 1999; “Nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của TS Lƣơng Thùy Liên, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2010; Giáo trình Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, do
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, xuất bản năm 2003; Hoàng Trang (1993),
Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, nét đặc sắc và thống nhất trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí lịch sử Đảng, số 4.
Trong “Nguyên tắc thống nhất giữa lợi ích dân tộc, giai cấp và nhân loại
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lƣơng Thùy Liên với 3 chƣơng: Một số
khái niệm cơ bản và những nhân tố quy định sự hình thành nguyên tắc thống
nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh; Một
số biểu hiện chủ yếu của nguyên tắc thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và
nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Giá trị của nguyên tắc
thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh đối với Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa, tác giả đã khẳng
định: “Việc xử lý mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại là vấn

đề vừa có tính cấp bách , vừa có tính chiến lƣợc lâu dài đối với mỗi quốc
gia- dân tộc. Đặc biệt, việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp
và nhân loại đang ngày càng trở nên phức tạp hơn do tác động của q
trình tồn cầu hóa. Đáng chú ý là, hiện nay đang có xu hƣớng xem xét các
nhân tố dân tộc, giai cấp, nhân loại trong sự tách biệt, thậm chí loại trừ
lẫn nhau…Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu làm sáng tỏ Nguyên tắc


8

thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí
Minh sẽ góp phần vạch ra những định hƣớng đúng đắn, khoa học cho việc
nhận thức và giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa dân tộc, giai cấp và nhân
loại ở nƣớc ta hiện nay, góp phần vào việc giữ vững nền độc lập dân tộc

và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội” [59; tr. 7-8]
Giáo trình Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, do Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
xuất bản năm 2003 cũng giành hẳn chƣơng II để trình bày tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc. Trong chƣơng II
của giáo trình khẳng định: “ Kết hợp nhuần nhuyễn dân tộc với giai cấp, độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế”
[20; tr. 61]. Chƣơng VIII trình bày tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chƣơng VIII khẳng định: “kết hợp chặt
chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội” [20; tr. 316]
Hƣớng thứ ba: Nghiên cứu về vấn đề dân tộc, quốc tế và mối quan hệ
giữa dân tộc và quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Theo hƣớng này có thể kể
đến cơng trình của Bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao, Vận
dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế , Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009; cơng trình của PGS.TS Đinh Xuân Lý,
Đối ngoại Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,
2013; cơng trình của Học viện ngoại giao, Phạm Bình Minh (chủ biên),
Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới, Nxb. Chính
trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011.
Cơng trình của Bộ ngoại giao, Ban nghiên cứu lịch sử ngoại giao, Vận
dụng tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, bao gồm ba phần với tựa đề: Những vấn
đề đặt ra cho ngoại giao Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế; Vận dụng tư


9

tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại; Vận dụng phương pháp, phong cách và
nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong tác phẩm, các tác giả khẳng
định: Hiện nay đất nƣớc ta chuyển sang giai đoạn mới- đẩy mạnh công

nghiệp hóa hiện đại hóa đất nƣớc. Xây dựng đất nƣớc giàu mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh phải đƣợc coi là mục tiêu hàng đầu. Do vậy,
cần khai thác mọi khả năng có thể trên phạm vi quốc gia và quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, với những quan hệ đa chiều nhằm
xây dựng nƣớc Việt Nam giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế
giới. Từ mục tiêu đó chúng ta phải gắn kết lợi ích dân tộc với lợi ích quốc tế,
phải có chủ chƣơng chính sách đúng đắn mới có thể tranh thủ và tận dụng
đƣợc mọi khả năng, cơ hội để phát triển [2; tr. 133]
Cũng bàn về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế hiện nay, trong tác phẩm
của Học viện ngoại giao, Phạm Bình Minh (chủ biên), Đường lối chính sách
đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà
Nội, 2011. Với 16 chuyên đề, các tác giả khẳng định: Nhận thức bản chất việc
kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là sự cộng hƣởng giữa các
yếu tố dân tộc và các yếu tố quốc tế, qua đó nhân lên sức mạnh và nội lực của
dân tộc để đạt đƣợc các mục tiêu nhất định [73 ; tr. 361]
Các cơng trình kể trên ở nhiều khía cạnh và góc độ đã trình bày khá đầy
đủ và sâu sắc vấn đề mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế. Đây là những nguồn tƣ liệu qúy báu để tác giả có thể kế
thừa phát triển trong việc phân tích đề tài
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Làm rõ nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất biện chứng
giữa dân tộc và quốc tế, từ đó rút ra ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng
giữa dân tộc và quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh đối với việc thực hiện


10

chính sách đồn kết dân tộc và đồn kết quốc tế của Đảng ta trong quá trình
hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn cần giải quyết những nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Một là, làm rõ một số khái niệm cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
dân tộc và quốc tế
- Hai là, làm rõ nội dung quan hệ biện chứng giữa dân tộc và quốc tế
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
- Ba là, tìm hiểu bối cảnh của Việt Nam và thế giới trong giai đoạn hiện
nay và sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa
dân tộc và quốc tế với việc thực hiện chính sách đồn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi một luận văn, tác giả chỉ tập trung tìm hiểu về mối quan
hệ biện chứng giữa dân tộc và quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, trên cơ
sở đó rút ra ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và quốc tế
trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh với việc thực hiện chính sách đồn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế của Đảng ta trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phƣơng
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Phƣơng pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu
cụ thể nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu chuyên ngành với phƣơng pháp nghiên
cứu liên ngành, phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, so sánh và đối chiếu,


11

diễn dịch và quy nạp, lôgich và lịch sử, hệ thống hóa, khái quát hóa để
nghiên cứu đề tài luận văn.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về lý luận: Luận văn đã làm rõ một số khái niệm cơ bản trong tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh về dân tộc và quốc tế, mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và
quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ sự
vận dụng của Đảng ta về sự thống nhất biện chứng giữa dân tộc và quốc tế
trong việc thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế ở Việt
Nam hiện nay
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho cơng tác giảng dạy, học tập mơn tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, cơ sở lý
luận để góp phần giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong giai
đoạn hiện nay của Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng, 4 tiết


12

Chƣơng 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG
CỦA SỰ THỐNG NHẤT BIỆN CHỨNG GIỮA DÂN TỘC
VÀ QUỐC TẾ TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN TỘC VÀ QUỐC TẾ
TRONG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

1.1.1. Cơ sở lý luận
Tư tưởng và văn hố truyền thống Việt Nam, trong đó chủ nghĩa yêu
nước giữ vị trí hàng đầu
u nƣớc là tƣ tƣởng và tình cảm phổ quát của nhân dân mỗi quốc gia,
dân tộc. Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam là sản phẩm của tinh thần cao quý

nhất của dân tộc Việt Nam, là tƣ tƣởng và tình cảm thiêng liêng giữ vị trí
chuẩn mực cao nhất của đạo lý và đứng đầu trong thang bậc các giá trị của
dân tộc. Chủ nghĩa yêu nƣớc đƣợc hình thành và phát triển trong hàng ngàn
năm lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc của cả dân tộc, trở thành
truyền thống bền vững, thấm sâu vào tƣ tƣởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi
con ngƣời Việt Nam. Tinh thần, ý thức ấy trở thành dòng chảy chủ lƣu của
tƣ tƣởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử của dân tộc ta từ thời khởi đầu dựng
nƣớc cho đến thời đại ngày nay.
Chủ nghĩa yêu nƣớc là tƣ tƣởng lớn của dân tộc, là lòng thiết tha yêu quê
hƣơng, làng xóm và đất nƣớc. Đó là sự q trọng tiếng nói, nền văn hóa và
tơn trọng phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, là ý chí tập thể, tinh thần
đồn kết, tình nghĩa đồng bào gắn bó trong một cộng đồng, từ nhỏ là gia
đình, cao hơn là giai cấp và dân tộc. Đó là ý chí đấu tranh anh dũng bất
khuất cho độc lập tự do, là ý thức chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nƣớc, là ý chí tự lực, tự cƣờng trong xây dựng đất nƣớc và bảo vệ Tổ quốc.


13

Chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam bắt nguồn, hình thành và phát triển từ thời
các vua Hùng dựng nƣớc, thời Hai Bà Trƣng phất cờ khởi nghĩa đến Lý
Bôn, Triệu Quang Phục, trải qua Đinh, Lê, Lý, Trần,.. và đƣợc đúc kết nâng
lên thành phép đánh giặc, giữ nƣớc, “tập hợp bốn phƣơng manh lệ”, “trên
dƣới đồng lòng, cả nƣớc chung sức”, “tƣớng sĩ một lòng phụ tử”…Truyền
thống ấy đã đƣợc tiếp nối trong tƣ tƣởng của các nhà yêu nƣớc trong cuộc
đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lƣợc và các thế lực phong kiến tiếp tay
cho ngoại bang, mà tiêu biểu nhất là cụ Phan Bội Châu và cụ Phan Chu
Trinh ở đầu thế kỷ XX.
Hồ Chí Minh- ngƣời con ƣu tú của dân tộc Việt Nam- đã sớm hấp thu
đƣợc truyền thống yêu nƣớc- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc. Ngƣời đã

khẳng định: “Dân ta có một lịng nồng nàn u nƣớc. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xƣa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh
thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lƣớt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nƣớc và lũ
cƣớp nƣớc” [ 65; tr. 171]. Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Hồ
Chí Minh ra đi tìm giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc không
chỉ ở Việt Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa. Trong quá trình tìm đƣờng
cứu nƣớc, cứu dân đó, nhất là từ khi trở thành ngƣời cộng sản, Hồ Chí Minh
một mặt vừa tiếp thu truyền thống văn hóa của dân tộc, mặt khác đã kế thừa
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, trong đó có văn hóa phƣơng Đơng
và văn hóa phƣơng Tây. Đồng thời, Ngƣời cũng rất quan tâm nghiên cứu,
tìm hiểu tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản của các nhà cách mạng Pháp, Mỹ, chủ
nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Tất cả đều trở thành vốn quý, trở thành
nền tảng tƣ tƣởng quan trọng giúp Hồ Chí Minh dễ dàng tiếp thu chân lý
cách mạng. Đó cũng là nhân tố đầu tiên của quá trình hình thành mối quan
hệ giữa dân tộc và quốc tế trong tƣ tƣởng của Ngƣời. Tất cả đều đƣợc Hồ


14

Chí Minh vận dụng, phát triển và nâng lên một trình độ mới trên cơ sở
phƣơng pháp luận Mác- Lênin.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, tư tưởng chủ yếu nhất của
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong đó có tư tưởng về mối
quan hệ giữa dân tộc và quốc tế
Tiếp thu truyền thống yêu nƣớc, đoàn kết của dân tộc, năm 1911 Ngƣời
đã ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc. Ngƣời đã đặt chân đến nhiều nƣớc thuộc địa ở
châu Á, châu Phi cũng nhƣ nhiều nƣớc tƣ bản đế quốc trên thế giới. Sau 10
năm bơn ba tìm tịi, khảo nghiệm con đƣờng cứu nƣớc, Ngƣời nhận thấy
rằng, cách mạng tƣ sản Pháp cũng nhƣ cách mạng tƣ sản Mỹ là các cuộc

cách mạng khơng triệt để vì tiếng là dân chủ cộng hịa nhƣng kỳ thực thì bên
trong nó bóc lột giai cấp, bên ngồi nó áp bức thuộc địa. Do đó, cách mạng
dân chủ tƣ sản không đáp ứng đƣợc khát vọng cứu nƣớc, cứu dân của Hồ
Chí Minh, khơng phải là sự lựa chọn cho cách mạng Việt Nam. Khát vọng
ấy chỉ đƣợc thỏa mãn khi Ngƣời đọc đƣợc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đăng trên báo
L’Humanité ngày 16 và ngày 17-7-1920. Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở đó
“một ánh sáng kỳ diệu nâng cao về chất tất cả những hiểu biết và tình cảm
cách mạng mà Ngƣời đã hằng nung nấu” [4; tr. 138]. Bởi vì, Luận cƣơng
của Lênin đã giải quyết trọn vẹn một vấn đề rất cơ bản mà Nguyễn Ái Quốc
đặc biệt quan tâm là vấn đề dân tộc và thuộc địa đƣợc đặt trong mối quan hệ
quốc tế, chỉ ra con đƣờng giải phóng cho các dân tộc thuộc địa. Luận cƣơng
tạo ra bƣớc chuyển biến căn bản trong nhận thức tƣ tƣởng về vấn đề bạn
đồng minh, về xác định kẻ thù, giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Bản
Luận cƣơng làm cho tôi cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tƣởng biết bao!
Tơi xúc động đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tơi nói to
lên nhƣ đang nói trƣớc quần chúng đơng đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau


15

khổ đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đƣờng giải phóng chúng ta””
[71; tr. 471]. Trong Luận cƣơng, Lênin yêu cầu phải làm cho vô sản và quần
chúng lao động ở tất cả các nƣớc gần gũi nhau; muốn thế, các Đảng Cộng
sản, nhất là Đảng Cộng sản ở các nƣớc tƣ bản có thuộc địa, đều phải giúp đỡ
các phong trào giải phóng dân tộc bằng mọi hình thức; phải giáo dục về chủ
nghĩa quốc tế vô sản, phải đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tiểu tƣ sản, chủ
nghĩa vị kỷ dân tộc trong giai cấp vô sản và nhân dân các nƣớc đang đấu
tranh giành độc lập. [35; tr. 198-206] . Dƣới ánh sáng Luận cƣơng của Lênin,
Hồ Chí Minh đã nhận thấy rằng tinh thần yêu nƣớc, tinh thần dân tộc cần phải

gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế vơ sản và cách mạng Việt Nam phải
gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh là nhà yêu nƣớc Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa MácLênin và hoàn toàn tin theo Lênin. Ngƣời coi chủ nghĩa Mác- Lênin không
chỉ là cái “cẩm nang” thần kỳ, là kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng
con đƣờng chúng ta đi tới mục đích cuối cùng đó là chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Ngƣời còn cho rằng, trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất và cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin là đến với tri thức tiên tiến của thời
đại, là tiếp thu sức mạnh và giá trị tinh thần của nhân loại.
Chủ nghĩa Mác- Lênin là thế giới quan khoa học, là cơ sở phƣơng pháp
luận giúp Hồ Chí Minh tổng kết, tiếp thu, chọn lọc các học thuyết, tƣ tƣởng
của nhân loại, đƣờng lối của các cuộc cách mạng thế giới và từ kinh nghiệm
hoạt động thực tiễn để tìm ra con đƣờng giải phóng dân tộc. Ngƣời coi cách
mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản
trong phạm vi thế giới và khẳng định: Chỉ có giải phóng giai cấp vơ sản mới
giải phóng đƣợc dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp
của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.


16

Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở, là nguồn gốc lý luận chủ
yếu nhất cho sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung và tƣ tƣởng Hồ
Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và quốc tế nói riêng trở
thành kim chỉ nam soi đƣờng cho cách mạng Việt Nam trong mọi thời đại.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế đƣợc hình
thành trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lịch sử của dân tộc và gần mƣời năm
tìm tịi, khảo nghiệm thực tiễn ở nƣớc ngoài cũng nhƣ yêu cầu khách quan
cấp thiết của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), mở đầu
cho thời kỳ cai trị, áp bức của chúng đối với dân tộc ta. Lúc bấy giờ, triều
đình nhà Nguyễn, trong thì sợ nhân dân, ngồi thì bạc nhƣợc trƣớc kẻ thù,
lúc đầu chống cự yếu ớt, sau đã từng bƣớc nhân nhƣợng, cầu hòa, cuối cùng
là cam chịu đầu hàng để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hồng tộc. Sự
nhu nhƣợc của triều Nguyễn đã khiến cho đất nƣớc Việt Nam chìm trong
đêm tối, nhân dân Việt Nam bị mất độc lập, tự do ngay trên mảnh đất của
mình, phải chịu sự bảo hộ của thực dân Pháp về mọi mặt, phải cùng một lúc
chống “cả Triều lẫn Tây”. Kể từ khi đất nƣớc rơi vào tay thực dân Pháp,
Ngƣời Pháp đã thực hiện chính sách “chia để trị” hịng làm suy yếu sức
mạnh của dân tộc Việt Nam. Chúng sử dụng giai cấp địa chủ, phong kiến
làm tay sai đắc lực, biến nƣớc ta trở thành một nƣớc thuộc địa nửa phong
kiến. Nhân dân Việt Nam bị bóc lột về kinh tế, áp bức về chính trị, nơ dịch
về văn hóa, đời sống của nhân dân trở nên cơ cực và bị chà đạp về nhân
phẩm. Vì vậy mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán
nƣớc. Thêm vào đó, mâu thuẫn giữa nhân dân lao động mà chủ yếu là nông


17

dân với địa chủ phong kiến đã từng tồn tại trƣớc đó khơng hề mất đi mà trái
lại càng trở nên gay gắt hơn. Hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam
lúc bấy giờ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau vì sự câu kết chặt chẽ giữa đế
quốc và phong kiến. Do đó, giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trên là yêu cầu
cấp bách và là động lực thôi thúc các phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ.
Trái ngƣợc với thái độ hèn nhát, bạc nhƣợc của triều đình nhà Nguyễn,
phong trào yêu nƣớc của nhân dân Việt Nam đã diễn ra rất sôi nổi mạnh mẽ.

Ngay từ những ngày đầu khi thực dân dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta, nhiều
cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra dƣới sự lãnh đạo của các lãnh tụ phong trào
nhƣ: Trƣơng Định, Nguyễn Trung Trực…Từ năm 1885 đến 1895, phong
trào Cần Vƣơng dƣới sự lãnh đạo của các sĩ phu yêu nƣớc chống Pháp đã
nhanh chóng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp. Đỉnh cao của phong trào là
cuộc khởi nghĩa Hƣơng Khê của Phan Đình Phùng. Cùng với phong trào
Cần Vƣơng cịn có những cuộc đấu tranh mang tính chất tự vệ ở các địa
phƣơng do các thổ hào lãnh đạo mà tiêu biểu và rộng lớn nhất là cuộc khởi
nghĩa của nơng dân n Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo. Mặc dù các
phong trào yêu nƣớc chống thực dân nối tiếp nhau diễn ra song kết quả là tất
cả đều bị dìm trong bể máu. Sự thất bại của các phong trào yêu nƣớc cuối
thế kỷ XIX chứng tỏ rằng hệ tƣ tƣởng phong kiến đã lỗi thời, không đủ sức
giải quyết các nhiệm vụ lịch sử đặt ra.
Vào đầu thế kỷ XX, sau khi tạm thời dập tắt đƣợc các cuộc đấu tranh vũ
trang của nhân dân ta, thực dân Pháp bắt đầu tiến hành các cuộc khai thác
thuộc địa ở Việt Nam, nhằm tìm kiếm lợi nhuận cho chính quốc. Dƣới chế
độ khai thác, bóc lột và thống trị của đế quốc Pháp, xã hội Việt Nam có
những biến chuyển và phân hóa hết sức sâu sắc. Giai cấp công nhân, tầng
lớp tiểu tƣ sản và tƣ sản bắt đầu xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong


18

cho phong trào yêu nƣớc giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Cũng
vào thời điểm đó, các “tân thƣ”, “tân văn”, “tân báo” và những ảnh hƣởng của
trào lƣu cải cách theo tƣ tƣởng dân chủ tƣ sản dồn dập dội vào nƣớc ta nhƣ:
Gƣơng Duy tân của Nhật Bản, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, tƣ
tƣởng dân tộc, dân quyền của Lƣơng Khải Siêu và Khang Hữu Vi, tƣ tƣởng
của cách mạng Pháp…Dƣới ảnh hƣởng của các trào lƣu tƣ tƣởng trên, phong
trào yêu nƣớc Việt Nam chuyển sang khuynh hƣớng mới mà ta gọi là cuộc

vận động dân tộc, dân chủ tƣ sản, mà tiêu biểu là các phong trào Đông Du,
Đông kinh nghĩa thục, Việt Nam Quang phục hội do cụ Phan Bội Châu lãnh
đạo, phong trào Duy tân do cụ Phan Châu Trinh lãnh đạo, phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ, phong trào của Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái
Học, Phạm Tuấn Tài lãnh đạo mà đỉnh cao là khởi nghĩa Yên Bái…Sau một
thời gian phát triển rầm rộ, các phong trào trên cũng nối tiếp nhau tan rã trƣớc
sự đàn áp man rợ của đế quốc Pháp. Mặc dù còn thụ động, ấu trĩ, chƣa tin vào
sức mạnh của chính dân tộc mình mà nặng về cầu viện, cải cách song giải
pháp mới theo khuynh hƣớng dân chủ tƣ sản này chí ít cũng đã bắt đầu đặt
vấn đề của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ quốc tế và thời đại.
Sự thất bại của phong trào yêu nƣớc Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX đã chứng minh rằng các con đƣờng cứu nƣớc theo hệ tƣ tƣởng phong
kiến và khuynh hƣớng chính trị tƣ sản đều bế tắc và hoàn toàn bất lực trƣớc
sự tồn vong của vận mệnh dân tộc. Vì các đƣờng lối cứu nƣớc ở thời kỳ này
đã không đáp ứng đƣợc nhu cầu bức thiết và cơ bản của nhân dân, của dân
tộc và khơng cịn phù hợp với bối cảnh, điều kiện của thời đại. Sự thất bại
này đã đặt sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam ở trong “tình hình đen tối
nhƣ khơng có đƣờng ra”, đồng thời nó cũng đặt ra yêu cầu căn bản của xã
hội Việt Nam là phải tìm ra một con đƣờng cứu nƣớc mới. Đáp ứng yêu cầu
và nguyện vọng thiết tha của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã ra đi và tìm


19

đƣợc giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc không chỉ cho Việt
Nam mà cho cả các dân tộc thuộc địa.
Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong cảnh nƣớc mất, nhà tan,
Ngƣời chứng kiến cuộc sống lầm than, cực khổ của nhân dân, bi kịch của cả
một dân tộc bị mất tự do. Lúc bấy giờ, Ngƣời đã có ý chí đánh đuổi thực
dân, giải phóng đồng bào. Năm 1906 Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế

lần thứ hai, vào học ở trƣờng Pháp- Việt Đông Ba, năm sau vào học trƣờng
Quốc học Huế. Tại đây, Nguyễn Tất Thành có điều kiện bổ sung vốn kiến
thức Nho học, tiếp thu văn hóa phƣơng Tây. Năm 1908, ở Huế bùng nổ
phong trào kháng thuế rầm rộ. Nguyễn Tất Thành cùng số đơng học sinh
trƣờng Quốc học tích cực tham gia. Thực dân Pháp đàn áp dã man phong
trào. Thất bại của phong trào chống thuế ở Huế cùng các phong trào yêu
nƣớc chống Pháp đầu thế kỷ XX làm cho Nguyễn Tất Thành nhận rõ hơn
bản chất dã man của bọn thực dân và cũng làm cho anh sớm thấy đƣợc sức
mạnh đoàn kết chiến đấu của quần chúng khi đƣợc tổ chức. Từ đó, anh cân
nhắc đến con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc. Mặc dù, Ngƣời rất khâm
phục tinh thần yêu nƣớc của các vị tiền bối, nhƣng với một khả năng tƣ duy,
trí tuệ hơn ngƣời, Nguyễn Tất Thành đã nhận ra những hạn chế của họ về sự
nhận thức những thay đổi của dân tộc và thời đại; về xác định mục tiêu, đối
tƣợng, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam; về nhận thức bạn- thù của cuộc cách
mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam. Từ đó, Nguyễn Tất Thành quyết định
tìm cho mình hƣớng đi mới, đến các nƣớc phƣơng Tây, nơi có trào lƣu “tự
do, bình đẳng, bác ái” để tìm cách làm mới rồi trở về giúp Tổ quốc, giúp
đồng bào.
Nhƣ vậy, Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trong bối cảnh nƣớc mất,
nhà tan và đƣợc chứng kiến thực tiễn các cuộc đấu tranh anh dũng, quật cƣờng
để giành độc lập dân tộc của mọi tầng lớp nhân dân. Đó chính là tiền đề làm


20

nảy nở tình cảm yêu nƣớc, thƣơng dân sâu sắc ở Ngƣời, là động lực thơi thúc
Ngƣời ra đi tìm đƣờng cứu nƣớc, cứu dân. Đó cũng chính là nhân tố đầu tiên
của q trình hình thành chiến lƣợc đồn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, gắn
chặt vấn đề dân tộc với vấn đề quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh.
Thực tiễn hành trình tìm đường cứu nước khắp các châu lục

Bƣớc sang thế kỷ XX, chủ nghĩa tƣ bản thế giới đã chuyển từ giai đoạn
tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền- chủ nghĩa đế quốc, đã xác lập
đƣợc sự thống trị trên toàn thế giới, đặc biệt là xâu xé và nô dịch các thuộc
địa khắp Á- Phi- Mỹ la tinh. Giữa lúc đất nƣớc khủng hoảng về đƣờng lối
cứu nƣớc, thế giới bƣớc vào thời kỳ sôi động, năm 1911, Nguyễn Tất
Thành với thân phận ngƣời dân mất nƣớc đã ra đi với khát vọng cứu nƣớc,
cứu dân cháy bỏng. Trên cuộc hành trình của mình, Nguyễn Tất Thành đã
vƣợt qua ba đại dƣơng, bốn châu lục, đặt chân tới khoảng gần 30 nƣớc [20;
tr. 27]. Trong cuộc hành trình đó, Nguyễn Tất Thành đã kiếm sống bằng
chính đơi bàn tay lao động của mình, lăn lộn trong cuộc sống lao động và
đấu tranh của những ngƣời lao động các nƣớc trên thế giới. Với anh, đó chỉ
là phƣơng tiện nhằm thực hiện mục đích. Động cơ thúc đẩy anh ra đi là tìm
một giải pháp mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam, vì thế đích
đến trƣớc hết là nƣớc Pháp, nƣớc có cuộc cách mạng 1789 điển hình, cũng
là nƣớc “khai hóa văn minh” bằng lƣỡi lê và họng súng cho đất nƣớc anh. Ý
nghĩ này xuất hiện ở anh rất sớm: “ Khi tôi độ tuổi mƣời ba, lần đầu tiên tôi
đƣợc nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tơi, ngƣời
da trắng nào cũng là ngƣời Pháp. Ngƣời Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi
rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng
sau những chữ ấy” [60; tr. 477]. Đó là mục tiêu trực tiếp của chặng đầu cuộc
hành trình của anh. Muốn “ trở về giúp đồng bào” thì trƣớc hết phải hiểu
thật đầy đủ về kẻ thù đang áp bức bóc lột dân tộc mình, nhất là từ trên mảnh


21

đất đã sản sinh ra nó. Đó là một quyết định hết sức táo bạo của anh và cũng
là điểm khác biệt của anh với những sĩ phu yêu nƣớc thời ấy.
Khi bƣớc lên con tàu vận tải Latusơ Tơrêvin (Annimal Latouche
Tréville) của Hãng hợp nhất (Pháp) với tên Văn Ba để thực hiện quyết định

của mình, anh đã tiếp xúc ngay với công nhân Pháp và công nhân châu Phi
và bƣớc đầu tìm hiểu đƣợc đời sống giai cấp cơng nhân. Trƣớc khi đến
Pháp, anh có dịp ghé qua Singapo, Xri Lanca, Ai Cập và thấy rằng ở các
nƣớc này đều có hai loại ngƣời, hai cảnh sống nhƣ ở Việt Nam. Khi đặt chân
lên Pháp, anh cũng thấy nhƣ vậy. Thực tế này khiến anh nảy sinh câu hỏi:
Tại sao ngƣời Pháp khơng “khai hóa” đồng bào của mình lại tun truyền về
“sứ mệnh khai hóa văn minh” cho ngƣời dân thuộc địa ở Việt Nam?. Sự
nhạy cảm của anh thể hiện, ngay từ đầu anh đã phân biệt đƣợc hai loại
ngƣời: ngƣời Pháp tốt là những ngƣời lao động, ngƣời Pháp tàn ác là những
kẻ thống trị, chứ anh không đánh đồng cùng loại; đồng thời anh cũng nhận
thức đƣợc những đau khổ và áp bức dân tộc ở ngay chính quốc. Những nhận
xét tinh tế đó đã dẫn anh đến cảm nhận về lực lƣợng xã hội là bạn đồng
minh của các dân tộc thuộc địa. Đó chính là cơ sở quan trọng cho việc hình
thành tƣ tƣởng về sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam, các nƣớc thuộc địa
với nhân dân lao động, giai cấp cơng nhân Pháp và các nƣớc chính quốc
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc nói chung cũng nhƣ tƣ tƣởng
về mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói
riêng.
Sau một thời gian sống ở Pháp, Ngƣời tiếp tục cuộc hành trình vịng
quanh châu Phi và đi qua nhiều nƣớc nhƣ Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,
Angiêri. Tuynidi, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông…rồi đến Mỹ cuối năm
1912. Tại Niu Oóc, anh cũng đã nhanh chóng phát hiện ra, đằng sau những
tồ nhà chọc trời với cuộc sống xa hoa của thành phố là những con ngƣời


22

khốn khổ sống vật vờ dƣới bóng đổ của những tịa nhà đó. Anh thƣờng
xun lui tới khu Háclem và rất xúc động trƣớc cảnh sống thảm hại của
những ngƣời da đen ở đây. Tham quan tƣợng Nữ thần Tự do, anh có nhận

xét sâu sắc: Ánh sáng trên đầu tƣợng Thần Tự do tỏa ra trên bầu trời xanh,
còn dƣới chân tƣợng Thần Tự do này thì ngƣời da đen đang bị chà đạp. Bao
giờ ngƣời da đen mới đƣợc bình đẳng giữa các dân tộc, bao giờ phụ nữ bình
đẳng với nam giới. Anh nhớ mãi hình ảnh ngƣời da trắng hành hạ dã man
ngƣời da đen bằng cách thiêu sống họ cháy thành than. Anh kết luận rằng:
Tất cả bọn đế quốc đều phản động và tàn ác.
Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành theo tàu đến nƣớc Anh và hiểu thêm
thực chất của cái gọi là “sứ mệnh khai hóa văn minh” của các nƣớc đế quốc.
Anh hịa mình vào phong trào cơng nhân và cơng đồn, tham dự nhiều buổi
diễn thuyết chính trị, lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nƣớc của nhân dân
Airơlen. Đặc biệt là anh tham gia tổ chức Cơng đồn lao động hải ngoại,
một tổ chức bí mật của những ngƣời lao động ở các thuộc địa sống trên đất
Anh. Điều đó báo trƣớc bƣớc chuyển mới của Nguyễn Tất Thành, từ một
ngƣời yêu nƣớc, một ngƣời lao động làm thuê bắt đầu bƣớc vào một tổ
chức, gắn bó với những ngƣời dân thuộc địa nhằm chống lại chủ nghĩa đế
quốc, thực dân. Theo dõi các tin tức về tình hình quốc tế, nhất là diễn biến
của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất do bọn đế quốc gây ra. Thực tế
của cuộc chiến tranh đó làm cho anh hiểu thêm một điều là trong chiến tranh
đế quốc, nhân dân lao động ở chính quốc cũng nhƣ ở thuộc địa đều khổ nhƣ
nhau, xƣơng máu hy sinh chỉ phục vụ lợi ích của bọn đế quốc và bản chất
của chúng là hám tiền và phản động.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành trở lại nƣớc Pháp. Pari dƣới con mắt
của anh phản chiếu rõ nhất hai thái cực của xã hội tƣ bản đó: Một là bộ mặt
áp bức, bóc lột của bọn thống trị tƣ sản phơi bày rõ rệt nhất; Hai là cuộc


×